Tuất và Chó
Cứ mỗi lần Tết đến, dầu ở tận góc biển chân trời nào, người Việt vẫn giữ
tập tục chuẩn bị đón Tết, ăn Tết. Trong việc chuẩn bị đón Tết, ăn Tết, chắc chắn
người Việt hải ngoại cũng như ở quê hương Việt Nam, không để thiếu vắng việc
chuẩn bị báo Tết cho thật tươm tất, vừa để phô trương bề thế của tờ báo mình .
Ở Miền Bắc và Miền Nam bán cầu, như Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu, thì người
Việt hải ngoại có Tết chớ chưa hoặc không có Xuân.
Nhưng khi các nhà báo làm báo Tết hay báo Xuân, có ai nghĩ tại sao có
báo Xuân không ? Chắc chắn là chỉ có Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới
này có báo Xuân mà thôi. Vậy trong trường hợp nào báo Xuân Việt Nam ra đời ?
Đó lại là chuyện dài liên hệ tới lịch sử báo chí việt nam . Nay, ở đây,
tưởng chỉ nhìn qua báo Xuân hay báo Tết việt nam . Từ thuở có báo Xuân thì y
như rằng hễ năm Dậu thì báo Xuân phải nói chuyện gà; cả gà cúm cũng nói. Năm Tuất,
dứt khoát là báo Xuân phải nói đến chó, chuyện chó. Vì Tuất là chó kia mà !
Nhưng xin hỏi các ông làm báo Xuân năm Tuất : tại sao Tuất có nghĩa là
chó, Dậu có nghĩa là gà, Tý có nghĩa là chuột ?
Có phải Tuất nghĩa là chó không ?
Chúng tôi đã thắc mắc mà không tìm được giải đáp cho chính mình, bèn đi
tìm hỏi những người thâm nho thì những vị này cũng lắc đầu . Các vị cũng không
hiểu tại sao Dậu là Gà, Tuất là Chó ? Phải chăng đó chỉ là một chọn lựa qui ước
? Chớ tiếng ấy không có nghĩa như vậy !
Chúng tôi đành giữ nguyên cho mình thắc mắc về ngữ nghĩa của từ ấy mà tạm
thời “cẩu sự ” cùng quí bạn đọc cho vui để đón chờ những ngày Xuân ấm áp sắp đến
!
Chó và Người
Con chó sống với loài người phải từ thuở bình minh lịch sử. Người ta cho
rằng chó có mặt bên cạnh con người, làm bạn chí thân chí thiết với con người từ
15000 năm qua. Như vậy chó đã dấn thân giúp con người trong nền văn minh săn bắn
?
Con chó bám sát con người từng bước trong quá trình tiến hóa để hiện diện
cùng với con người qua văn học, cùng chia xẻ số phận con người qua những biến
thiên lịch sử đất nước, vẫn giữ đức tính tinh ròng của loài chó, không bội bạc,
không phản trắc. Để người phụ chớ không phụ người ! Thế mới là chó !
Cho nên, người đời nguyền rủa những kẻ ám hại người một cách hèn hạ, đốn
mạt là “thứ đâm heo thuốc chó”. Thứ này bị người đời nguyền rủa thậm tệ hơn thứ
cùng hung cực ác “chửi cha, chém chú, lắc vú chị dâu, cạo đầu bà thím” !
Thế mà trong trường hợp nào đó, để mắng chửi người ngu, hoặc vụng về, ngờ
nghệch, người ta lại mượn chó ra để làm chuẩn mực: “đồ ngu như chó”. Khi so
sánh “người ngu với chó”, không biết có chắc người ta có thiệt tình hiểu chó là
“ ngu” không ? Nếu con người hiểu được tiếng chó, biết đâu con người cũng sẽ
nghe chó mắng chó là “thứ đồ ngu như người” ?
Lại khi gặp phải vận rủi, mưu sự đều thất bại, người ta mượn chó ra diễn
tả “đời đen như mõm chó”.
Nhưng có điều, như chân lý, là không có ai chửi người phản trắc bằng
cách đem chó ra làm biểu tượng “đồ ăn cháo đái bát như chó”!
Chó vẫn là hiện thân của giá trị tiêu chuẩn về đức tín “trung thành”,
trước sau như một: “Chó không chê chủ nghèo” !.
Nền văn minh chó
Tôi không dám định nghĩa văn minh là gì ? Văn minh chó là gì ? Bởi Giáo
sư chủ nhiệm Đổ Chín không cho phép đi vào nền nếp cũ lỗi thời là cái học từ
chương, trích cú như các cụ đồ nho ngày xưa.
Theo “cẩu luận khoa học và biện chứng” thì chó ngày nay thật sự vô cùng
văn minh, tức vô cùng đẹp. Cái văn minh, cái đẹp ở đây, không chỉ dành riêng
cho chó mà loài người lại chia xẻ, hưởng thụ nhiều hơn. Nói như vậy không hàm ý
người khôn hơn chó tuy người thường bị mắng là “ngu như chó” !
Người Việt hải ngoại, từ bốn mươi năm nay, đã hấp thụ nền văn minh chó
làm thay đổi hẳn, vô cùng sâu sắc, nếp tư duy cũ, cách ứng xử, trong từng cá
nhân.
Riêng đối với lớp trẻ sanh đẻ ở hải ngoại thì lại hoàn toàn sống theo nền
văn minh chó trăm phần trăm.
Thử nêu ra mức phát triển kinh tế thế giới liên quan đến đời sống hằng
ngày của chó, đủ cho ta hình dung được đỉnh cao của nền văn minh chó. Hàng năm,
các ngành hoạt động phục vụ cho chó đạt được 50 tỷ mỹ kim.
Về thực phẩm, đứng đầu là Nestlé, Danone, rồi mới đến các hiệu của Mỹ
như Pedegree, … Những thứ thực phẩm này không mang nhãn hiệu Nestlé, Danone vì
sợ người ta mua lầm, ăn thấy ngon rồi lại tranh nhau mua hết không còn để chó
ăn.
Vào mùa lễ cuối năm, có những sản phẩm dành cho người làm quà biếu cho
người thì cũng có những thứ quà biếu cho chó. Như một cái túi bằng loại hàng vải
mắc tiền, cắt may thẩm mỹ, đựng bên trong cái “áo len” đắt tiền, chai dầu thơm
do nhà Chanel chế tạo, kem đánh răng, bàn chải đánh răng, kéo cắt móng chưn,
vòng đeo cổ, … tất cả giá là 1000$us .
Có những trung tâm thẩm mỹ thể dục trị liệu cho chó. Ở đây, chó sẽ được
chuyên viên cao cấp tắm chó bằng tia nước nóng lạnh (tắm âm dương), bằng
nước bùn, đắp rong biển, nước biển, xoa bóp khớp xương chữa phong thấp. Có thầy
thuốc khám, kê đơn chỉ dẫn chế độ ăn uống theo từng trường hợp. Bên cạnh, lại
có phần thể dục tương tợ dành cho chủ chó. Giá cho chó là 150 $ us / ngày. Những
săn sóc đặc biệt, tính giá riêng. Tắm, cắt lông, móng, mỗi lần 50 $ us là bình
thường và phổ thông, trong lúc làm móng tay cho các bà chỉ có 25 us$.
Người Việt hải ngoại ngày nay, ai không dám nuôi chó thì thôi, hễ ai
nuôi chó thì phải chạy theo nền văn minh chó, không ai dám làm khác hơn, bởi bị
sức mạnh của nền văn minh thu hút và bắt buộc. Mà luật pháp cũng bắt buộc, bởi
nền văn minh chó ngày nay đã được định chế hóa rồi. Tức cẩu quyền đã được luật
pháp hóa, chỉ còn chờ một ngày gần đây Liên hiệp Quốc ban hành “Bản tuyên ngôn
quốc tế cẩu quyền” nữa là đủ !
Sống theo nền văn minh chó, người Việt hải ngoại cũng bắt đầu đặt tên
cho chó của mình. Chọn cái tên dễ thương. Chỉ chưa thấy ai lấy tên của người
thân đặt tên cho chó. Hãy còn húy kỵ. Đặt tên cho chó vừa tỏ cho mọi người biết
con chó của mình là chó văn minh, đồng thời ngầm nói lên mình cũng là người văn
minh nữa !
Chó có tên không phải chỉ là ý muốn của chủ chó mà còn do luật pháp quy
định. Bởi mỗi con chó nuôi đều phải được kiểm tra về mặt thú y nên phải có hộ tịch.
Đơn giản lắm cũng phải mang một con số đăng ký như giấy chứng minh nhân
dân ở xứ Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Hà Nội: chó kiki, chó nikiki, Mickey, …
Có điều đáng để ý, chủ chó là người Việt, nhưng tên chó đều mang tên ngoại
quốc. Có khi nói chuyện với chó, chủ chó Việt Nam lại nói bằng tiếng ngoại quốc !
Cũng nhờ sống ở hải ngoại khá lâu, hấp thụ nền văn minh chó, nên một người
Việt Nam lớn tuổi mới bắt đầu hiểu tại sao ở Việt Nam trước năm 1975, hai con
chó Mỹ ở nhà ông, trong những ngày đầu không chịu ăn. Chúng cương quyết nhịn
đói như muốn tuyệt thực phản kháng vậy. Bởi ông không cho chúng đúng thứ đồ ăn
của P.X mà chúng thường ăn mỗi ngày.
Một người Mỹ láng giềng đem gởi ông hai con chó, hẹn tối sẽ dắt về. Mãi
mấy hôm, không thấy người Mỹ trở lại nhận chó.
Ông bảo con nhỏ giúp việc trong nhà cho hai con chó ăn. Theo thói quen
Việt Nam, nó đem tất cả thứ gì còn lại từ bữa ăn, trộn thêm cơm cho ăn. Hai con
chó hửi qua rồi lạnh lùng bỏ đi.
Con nhỏ giúp việc nói chuyện với hai con chó, hai con chó không hiểu.
Ông chủ mới hiểu ra vì hai con chó của Mỹ nên chỉ hiểu tiếng Mỹ. Ông bèn dạy
vài câu tiếng Mỹ cho con nhỏ giúp việc để đàm thoại cấp tốc với chó. Nhưng gốc
nhà quê đặt sệt, con nhỏ học tiếng Mỹ không vô. Ông chủ bèn lấy mấy tấm cạt-tông
viết lên đó mấy câu tiếng Mỹ phiên âm qua giọng Việt để cho con nhỏ dễ học và
thuộc lòng: “ xít-ao ; gô ; ít ; ” … Từ đấy, con nhỏ đi đâu cũng
cầm theo mấy tấm cạt-tông cẩm nang như vật bất ly thân để nói chuyện với hai
con chó Mỹ. Nhiều lúc vội vàng, con nhỏ muốn ra lệnh “hãy ngồi xuống” lại lấy
nhầm cẩm nang dạy “hãy đi chỗ khác”, đọc lên, hai con chó bèn bỏ đi. Nó chạy
theo muốn hụt hơi.
Nhưng nhờ vậy, mà sau ngày 30/04/1975, chạy qua Mỹ, nó nói được tiếng Mỹ
và đã giỏi tiếng Mỹ. Nó làm thông dịch cho những người tỵ nạn Việt Nam vượt biển
qua Mỹ sau nó.
Sau vài hôm, có lẽ vì đói bụng quá, hai con chó Mỹ bắt đầu chịu ăn theo
chế độ ẩm thực Việt Nam. Và nó hội nhập từ đây .
Mà nào riêng gì chó, người Mỹ ở “khách sạn Hilton” tại Hà nội, VC ném
cho thứ gì cũng “ ích ” hết. Chưa đủ no, muốn “ ích” thêm cũng
không có.
Tôi có người bạn nuôi một con chó gốc bẹc-giê. Một hôm chị vợ cùng với
con cái đi chơi xa. Anh chàng ở nhà giữ nhà và giữ chó.
Lần đầu tiên, anh cho chó ăn. Chó đến hửi rồi bỏ đi. Anh lo sợ chó bị bệnh
nên bỏ ăn, bèn điện thoại hỏi ý kiến vợ. Chị vợ hỏi anh có nêm nước mắm trong
thức ăn không ?
Hiểu ra, anh xịt thêm vài giọt nước mắm Phú Quốc. Quả nhiên, chó ngửi
mùi quê hương, nhào tới đớp liền !
Chó qua vài trang sách vở
Con chó thiết cận với con người Việt Nam như vậy, nhưng có ai biết chó
có tên gọi từ bao giờ không ?
Một cách chính xác thì không thể nói, nhưng điều chắc chắn là trước khi
người Pháp tới, chó Việt Nam không có tên. Người ta gọi chó qua tướng mạo của
chó, như chó đen được gọi là chó Mực, trắng là Cò, vàng là Phèn, vằn là Vện, …
Trong câu thơ của Nguyễn Trải (Quốc Âm thi tập), con chó được nói
tới bằng tướng mạo:
… “ Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa ngại nuôi
vằn …”
Vằn có nghĩa là sọc, như khăn vằn, ngựa vằn, nhưng vằn thường bị hiểu
sai thành rằng như khăn rằng, ngựa rằn .
Khi nói đến quả cau ửng sọc trên vỏ thì chữ vằn đổi lại thành vân: “quả
cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”.
Con chó được dẫn theo người đi dạo, vừa để làm bạn vừa để bảo vệ an ninh
cho người, có lẽ phải đến khi người Pháp đến Việt Nam và đã đặt xong nền đô hộ.
Vì có lẽ phải từ lúc này, người Việt Nam mới bắt đầu biết chó có tên gọi
riêng do người đặt cho. Những người Việt Nam này cũng phải thuộc giới tây học
hoặc ở đợ cho tây.
Ở Hà Nội, người ta còn nhớ vào cuối thế kỷ 19, có bài văn tế ông tây
Rivière, với những câu có đề cập đến con chó của ông ấy :
“ Nhớ ông xưa,
Mắt ông xanh lè, mũi ông thò lõ.
Đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt chó ”…*
Huỳnh mẩn Đạt, người Gia định, chống tây cướp nước thất bại (thế kỷ
19), tuổi cao, gởi gắm tâm sự của mình qua con chó già :
“ Tuy rằng muông cẩu có âm ba
Răng rụng lâu năm nó phải già.
…Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo,
It kẻ ngừa Tây giữ đứa tà … ”
Học Lạc (Nguyễn văn Lạc) người Mỹ tho, cay đắng thân phận con người
ái quốc khi thất thời mạt vận :
…“ Vằn vện xác còn phơi lững đững
Thúi tha danh hãy nổi lều bều
… ”
… Một trận gió dồn cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao
nhiêu ”.
Nhà ái quốc Nguyễn đình Chiểu mô tả cảnh lụt lội nhưng không để mất cơ hội
mắng chửi vào mặt bọn xu thời hèn mạt, chớp thời cơ để ăn trên ngồi xổm trước,
thứ mà thời nào cũng có, nhứt là ngày nay ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa :
… “ Lổm ngổm giường cao thấy chó ngồi ...
Vì lúc bấy giờ đất nước đã mất trọn vẹn vào tay giặc Pháp :
… “ Bốn mặt Giang sơn ngập cả rồi ! ”
Gần đây, giáo sư Phạm công Thiện đi dạo chợ trời vùng Paris, trông thấy
cảnh bán buôn đủ loại hàng mới, cũ, với giá rẻ mạt. Và người đi chợ cũng đủ
thành phần xã hội. Ông bèn tức cảnh, và cũng xúc cảm thân phận của chính ông
lúc ấy :
“ Thân anh như con chó,
Treo bảng bán chợ chiều.
Một lần em qua đó,
Con chó đứng nhìn theo.”**
Đọc thơ của tác giả “Hố thẳm
tư tưởng”, có người lại liên tưởng đến câu ca dao diễn tả mối quan hệ “Anh em” qua hình ảnh con chó thương yêu :
“ Em như cục cứt trôi sông,
Anh như con chó đứng trông trên bờ ”.
Thân phận “Anh em” đã thấy
tội nghiệp rồi. Mà thân phận của đất nước lại càng thảm hại hơn. Một đất nước
mà hạ tầng cơ sở chưa có để giải quyết vấn đề chất thải một cách hợp lý, tránh
bị nạn ô nhiễm môi trường. Con người còn sống ở một trình độ như vậy thì con
chó làm sao có được thức ăn riêng của chó ?
Thân phận con người và con
chó tương xứng ! Tương xứng ở nấc thang thấp nhất của sinh vật.
Nói về chó qua văn học
không thể không nhắc một giai thoại thi ca liên quan đến nhà thơ lớn Xã hội Chủ
nghĩa Tố Hữu, một thời lãnh đạo văn học Hà nội, ra tay dùng “mã tấu văn học” phạt
những nhà văn nhà thơ tài hoa và lương thiện khác như Hữu Loan, Trần Dần, Phùng
Hoán, để chiếm ngôi độc tôn trong thi ca. Và cũng chính Tố Hữu là đồ tể trong vụ
án Nhân văn giai phẩm ở Hà nội vào giữa thập niên 50 trong thế kỷ qua.
Gần đây, một sinh viên văn
của Đại học Tổng hợp Hà Nội, phản ứng về Tố Hữu khi phải học thơ của Tố Hữu, và
phổ biến trên mạng điện tử bài thơ cuối đời của thi sĩ được huân chương cao quí
nhứt “sao vàng”:
…“ Còn mấy vần thơ, một nắm
tro
Thơ gởi lại đời, tro bón đất
Sống là cho, chết cũng là cho…”
Tố Hữu
Những câu này được sinh viên Khoa văn Hà Nội đọc lại :
…“ Còn mấy
vần thơ, một nắm tro
Thơ gởi lại đời, tro bón đất
Sống là CHÓ, chết cũng là CHÓ…”
Tội nghiệp cho chó vì chó không bao giờ đối xử với người như nhà thơ vĩ
đại Tố Hữu !.
Dưới thời Pháp đô hộ đất nước, một người Việt Nam làm bồi cho ông quan
tây, một hôm, trông thấy con chó của ông chủ sao mà nó đẫy đà đầy quyến rủ,
khiêu khích anh đến rỏ giải. Không thể tự chế được nữa, anh bồi bèn tập kích hạ
ngay “cờ tây”. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này phải xảy ra ở Hà Nội, cái nôi của cách mạng
vô sản hồ chí minh .
Phát hiện con chó của mình mất tích, quan tây mở cuộc điều tra.
Kết quả: anh bồi bị đưa ra tòa và lãnh một tháng tù ở.
Dầu sao quan tây thực dân vẫn còn biết thượng tôn luật pháp, luật pháp của
chính mình, nên đã không tự xử lý sự việc một cách tùy tiện !
Chó việt nam thời văn minh xã hội chủ nghĩa
Toàn dân kháng chiến. Ở khắp nông thôn, chiến dịch “tiêu thổ” kháng chiến
được người người nhiệt tình hưởng ứng. Người nông dân chất phác, suốt đời lam lủ
một nắng hai sương, vừa xây dựng được cơ nghiệp làm mái ấm gia đình, thì nay, tự
tay mình, mạnh dạn dơ cao ngọn đuốc châm vào thiêu hũy cơ nghiệp của mình.
Dân làng kéo nhau đi vào vùng sâu, bỏ lại làng mạc hoang vắng với những
đống tro tàn. Con chó cảm nhận được hoàn cảnh của chủ nó, nên cũng theo chủ,
không luyến tiếc nơi êm ấm quen thuộc. Đôi khi trên đường “di tản chiến thuật”,
chó bị lạc chủ:
…“ Mái nhà trăm năm thôi để lại,
Lạc chủ chó gầy, mắt hoang dại. ”
Quang Dũng
Sau đó, khi Pháp tái lập sự cai trị, dân chúng lục tục kéo nhau trở về
làng cũ, xây cất lại nhà cửa. Kháng chiến cũng lần theo bước chân dân chúng kéo
về ẩn núp trong thôn xóm. Họ phải dựa vào dân chúng để giải quyết cái ăn hằng
ngày, theo phương châm “cá với nước”.
Ban ngày, Tây đi hành quân tảo trừ kháng chiến, Việt Minh chờ đêm xuống
đi phục kích hoặc tấn công đồn bót Tây. Để bảo toàn hoạt động về đêm, Việt Minh
ra lịnh “cấm chó sủa”. Thế là chó chịu chung số phận bị “hạ cờ tây” tập thể.
Người dân sợ tây bắt vì bị tình nghi Việt Minh, đồng thời cũng sợ bị Việt Minh
cho “mò tôm” vì bị nghi là Việt gian. Chó vốn có linh tính, nên trước tình hình
này vội cụp đuôi, thu hình núp trong nhà, không dám sủa.
“ Chó đen rin rít những điều khó hiểu
Hồn ai đang lang thang trong
đêm. ”
Quang Dũng
Chó đen được tiếng là chó khôn trong loài chó, có thể nhìn thấy ma trong
đêm, canh giữ quân gian rất giỏi. Nhưng chó vẫn không sợ giặc Tây bằng sợ VC.
Nơi nào và khi nào VC đến là chó không dám sủa.
Sau 30/04/1975, ở Miền Nam Việt Nam, dân chúng thường gọi thời VC cai trị
là thời “chó chết” vì nhân dân xơ xác, chó mà còn không sống nỗi ! Trái lại,
trước kia, người ta dùng tiếng “chó đẻ” để mắng những người sai trái, vi phạm
qui ước xã hội: “quân chó đẻ, đồ chó đẻ, thằng chó đẻ”. Nhưng, “chó đẻ” vẫn hơn
“chó chết ” ! Vì chó còn đẻ được !
Một thời gian sau khi Việt cộng vào miền Nam, Linh mục Seitz bị
đuổi về Pháp vì ông viết một cuốn sách mô tả đời sống ở Việt Nam dưới chế độ
cách mạng, trong những ngày ông còn ở đó. Sách mang tựa “Thời chó câm” (Le
Temps des chiens muets). Mọi quyền tự do căn bản đều bị VC tước đoạt. Thậm chí,
quyền sủa của chó cũng bị đảng tước đoạt. Nhưng có người thấy, qua những dòng
“thời chó câm” ấy, cha Seitz còn ngầm ngụ ý phản đối tự do tư tưởng của người
tu sĩ công giáo bị bề trên ngăn cấm, do chánh sách đối ngoại nhằm mục đích dài
hạn của Giáo hội ?
Dân miền Nam gọi thời gian VC vào cai trị miền Nam là “thời chó chết”.
Phải chăng lời nói của dân gian thường linh ứng mà những sinh vật di chuyển bằng
bốn chân vào thời gian ấy đều không thấy xuất hiện. Không riêng gì con người miền
Nam bị tập trung vào các trại cải tạo mà ngay cả thần hoàng, thổ địa cũng phiêu
bạt.
Nhà thơ Tô thùy Yên nói lên tiếng nói trung thực của nhân chứng cảnh Việt
Nam “thời chó mạc”:
…“ Làng mạc giờ đây đã trống trơn,
Con dê, con chó cũng không còn.
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi,
Miếu sạt, thần hoàng rũ héo hon ”.
( Trại cải tạo Nghệ Tỉnh, 1974 )
Nhưng, bổng người còn sống nghe tiếng tru rú lên rùng rợn. Không phải tiếng
tru của loài chó rừng, mà là tiếng tru của những con người sắp chết tức tưởi, đầy
uất hận, cô đơn trong trại tập trung:
…“ Cái chết tru rân giờ nguyệt
tận,
Máu bung từ mỗi lỗ chơn lông.
Mọi người nghe chính mình kêu
rú,
Liệu sáng mai còn ai nữa
không ? ”
(Tô thùy Yên, trại cải tạo 1974 )
Đến khi được thả khỏi trại, lần mò về quê nhà, tìm mãi mới được căn nhà
cũ vì tất cả đều đã đổi thay. Đến con chó không nhìn ra chủ ngày nào :
…“ Đòi phen năm tháng cũ dò về,
Chó già lạ hơi sủa … ”
Bước vào căn nhà xưa, bàn thờ không nhang khói cúng lễ, thì con chó
cũng tuyệt vọng chờ bữa ăn:
“ Bàn thờ nhện giăng,
Nói chi cơm cúng.
Tội cho hồn con chó nhỏ vẫn nằm chờ
Mơ màng người chủ vừa ra đi … ”
(Tô thùy Yên)
Thân phận của người đi cải tạo tập trung trở về với thân phận con chó ở
“thời chó chết” không khác, vì không ai hơn ai giữa chủ và chó.
…“ Tôi về nhà vào năm thứ mười ba,
Đã có nó trong nhiều khuôn mặt mới.
… Tôi, quản chế, thu mình trong
bóng tối,
Nó, can gì, cũng chẳng dám chun ra ?
… Khách lạ tới, nó lùi vô một
xó,
Không dám gầm gừ nói lên tiếng chó.
Thì mong gì canh giữ được quân gian.
… Tao với mầy nào có khác gì
nhau,
Chó với người cùng một kiếp thương đau.
… Quyền người chưa trọng, nói
chi quyền chó ? ”
( Thanh thanh )
Ở Việt Nam, chó luôn luôn chịu chung số phận như con người trong thời đất
nước chiến tranh. Sinh mạng con người không đáng một cắc bạc thì sinh mạng chó
có đáng gì đâu ?
Nhưng đến khi cách mạng thiết lập chánh quyền trên cả nước thì chó bắt đầu
có giá …Nhứt là từ khi đảng cộng sản Hà Nội ban hành chánh sách “đổi mới”, thì
chó trở thành một nguồn phát triển kinh tế thị trường theo “định hướng Xã hội
Chủ nghĩa” .
Ở Long Bình, cuối xa lộ Biên Hòa, đường ra Vũng Tàu, mỗi ngày, người
kinh doanh chó thu mua để phân phối đi các nơi có đến bảy tấn chó sống.
Ở Hà Nội, các cửa hàng ăn chuyên bán thịt chó đủ món, tiêu thụ mười tấn
chó
( tháng/ngày, không nhớ rõ vì nghe qua phim “ Việt nam ăn nhậu” )
Chó không còn là nạn nhân thời cuộc như khi đất nước chiến tranh, mà trực
tiếp nạn nhân của con người trong thời bình xã hội chủ nghĩa cho những đòi hỏi
khẩu vị của những người không phải thứ “ngu như chó” !
Chó qua dờng lịch sử
Chó với người đã sống chung từ 15000 năm qua. Riêng ở Việt Nam, trong lịch
sử lập quốc, An Dương Vương lên ngôi vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, khi dời
đô về Cỗ Loa là theo dấu chân đàn chó.
Lê Lợi cũng vậy. Đàn chó dẫn nhau tìm về Cỗ Loa dọn ổ đẻ. Dân chúng cùng
nhau chọn nơi chó đẻ để định cư lập nghiệp, vì tin đó là vùng đất vượng phát.
Mẹ Lý Công Uẩn, ngủ nằm mơ thấy con chó bằng đá. Bà thọ thai, sanh con
trai đem đến chùa Cổ Pháp và kể lại giấc mơ cho sư ông Lý Khánh Vân nghe. Nhà
sư cho đó là điềm lành nên nhận đứa bé và cho mang họ Lý. Bổng con chó bằng đồng
chưng ở trong chùa cất tiếng sủa vang như mừng rỡ có tân chủ.
Lý Công Uẩn theo học văn võ với Sư Vạn Hạnh, sau làm tướng rồi lên ngôi
vua, lập ra triều Lý.
Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, gần Cổ Loa, lấy tên là Thăng
Long. Lúc dời đô, có con chó cái bơi từ Cổ Pháp vượt sông Hồng, theo Vua về lót
ổ đẻ bên Hồ Tây, chỗ Hồ Trúc Bạch, bây giờ còn dấu tích.
Truyền thuyết khác cho rằng con chó ở Cổ Pháp vượt sông Hồng, lót ổ đẻ
trên núi Nùng. Lý Thái Tổ dời đô về phía đó và lập đền thờ.
Con chó ở Cổ Pháp đẻ con sắc trắng có đốm đen thành ra hai chữ thiên tử,
ứng vào người sanh vào năm Tuất làm thiên tử, tức Lý Công Uẩn.
Con chó đã sớm đi vào tín ngưỡng dân gian trở thành thần. Ở Hà Nội có đền
thờ thần chó làm bằng đá.
Từ hai mươi năm nay, nhà cầm quyền địa phương Ba Đình muốn san bằng đền
Cẩu Nhi, thờ thần chó con cạnh bờ hồ, để lấy mặt bằng xây trụ sở chánh quyền.
Những nhà nghiên cứu, các tổ chức quần chúng phản đối, muốn bảo tồn di tích lịch
sử tín ngưỡng dân gian. Theo những người này thì tín ngưỡng dân gian có trước
các tôn giáo du nhập Việt Nam, tại sao lại không được giữ gìn như di tích?
Chó của ông Lê Nhân ở Hà nội ngày nay
Trong bài trả lời phỏng vấn báo điện tử Đàn Chim Việt ở Warsovie, ông Lê
Nhân từ Hà Nội dám quả quyết:
…“Con người lắm khi không bằng một con chó”. Thật thế. Chúng ta cứ xem
chó con đẻ ra chỉ bảy ngày là mở mắt.
Con người thiệt ở bên trong con người mang tên Lê Nhân này cứ thập thò,
như con ma xó, trả lời của Lê Nhân với đảng viên đảng Cộng sản: “Bẩm Quan cách
mạng. Bấy lâu nay, con có mắt đâu mà Quan bảo con hảy mở mắt. Con trốn vào hai đầu
gối đã chai sạn của Quan từ lâu rồi. Quan hãy nhìn xuống đầu gối mà xem: mắt và
tư duy của Quan cũng đều nằm trọn nơi đó”
!
Chó trong sấm ký
Năm 1938, Phó bảng Nguyễn Can Mộng ưu tư thời cuộc, bèn chọn ngày lành,
lên đền Ngọc Sơn cầu cơ để hỏi vận mạng đất nước trong những ngày tới. Đức
Thánh Mẫu Phủ Giầy về cơ, giáng bút phát họa tình hình nước Việt Nam, cho đến
sau 1955, căn bản, đều đúng.
Như:
… “ Ba màu đến hội suy vong,
Khỉ về gà khóc, vầng hồng nổi lên.
… Mèo lùi, cáo nắm kỷ cương,
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳ.
… Vảy rồng tạm tách làm đôi.
… Kể từ đôi ngũ còn chờ,
Thầy tu mở nước bấy giờ mới hay.
Chẳng qua cũng giống quỷ tây…”
Nói lại một cách giản lược:
“Tây suy vong. Năm Dậu 1945, Nhật đảo chánh. Bảo Đại thoái vị, trao
chánh quyền cho Hồ chí Minh. Chiến tranh chết chóc ở cả hai bên, thiệt hại hơn
3 triệu người. Dẫn đến đất nước chia đôi để chiến tranh tạm ngưng. Ngô đình Diệm,
gốc thầy tu, lên nắm chánh quyền vào năm 1955 (55 = đôi ngũ). Cũng gốc Tây
phương. Vì từ thế lực tây phương đưa về ”.
Đến năm Tuất thì Việt Nam sẽ có thái bình. Năm Tuất nào, tính từ năm
1938 là năm mà Phó bảng Nguyễn Can Mộng cầu cơ ?
Lần theo cơ bút là sống bằng hy vọng vì con người đã tận nhơn lực ?
… “ Chó mừng tân chủ rỡ ràng,
Gần xa tấp nập lên đường hồi hương”.
Chó, kỳ này, tức Mậu Tuất, sẽ mừng tân chủ, nghĩa là không phải chủ xã hội
chủ nghĩa ? Bởi
chủ xã hội chủ nghĩa là chủ của “thời chó chết” thì làm sao chó mừng được ?
“Gần xa tấp nập lên đường hồi
hương” là một hiện tượng chỉ có thể xảy ra cho Việt Nam từ sau 30/04/1975 mà thôi.
Có nên hy vọng lắm không ?
- Xin thưa : trước sau vẫn
là “cẩu sự” đầu năm Tuất !
Ghi chú : Trich dẩn theo Đặng Tiến, Talawas (* ** )
Nguyễn
thị Cỏ May
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire