Xin nghiêm
trang xướng lên ba chữ
VIỆT
HÙNG LẠC
Kính xin toàn thể mọi người cùng cung kính dâng nén hương và ba lần kính
lạy bàn thờ tri ân Quốc Tổ Hùng Vương và các anh hùng dựng nước và
cứu nước.
Chữ Hùng Lạc cũng đọc là Hồng
Lạc và cùng ư nghĩa.
Bài Một này và Bài Hai xin học
hỏi rộng chữ Việt . Chữ Nam
xin có bài bàn riêng
Danh VIỆT
cho con dân Việt đă được Cha Rồng
Mẹ Tiên đặt từ Ngày Dựng Nước. Thời ấy ta chưa dùng con chữ “abc” nên viêt theo kiểu Nam (cũng gọi là
Nôm) là 戉 song song với cách viết chữ Hán (cũng gọi là
Nho hay Tầu) song khác ư và khác âm.
Ðức Thánh Trần, khi hiệu triệu toàn dân chống giặc
Tầu Mông Cổ xâm lăng, vào thế kỷ 13, đã cho viết thêm nét đầy ý nghĩa chuyển chữ 戉ra chữ
VIỆT V-THĐ Trần Hưng Đạo. Chữ VIỆT V-THÐ sau đó được
trịnh trọng viết trên bìa cuốn sách quan trọng là SỬ NƯỚC VIỆT viết đủ là Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
[hình kèm]
Phóng lớn hai chữ đầu: Ðại VIỆT
Nước VIỆT V-THÐ Lớn
Lao
(Đại Việt cũng là Quốc Danh Nước Ta thời
đó)
PHẦN I
ÐÂY: CHỮ VIỆT V-THÐ VIỆT Trần Hưng Đạo
1. VIỆT V-THÐ uy nghi ngạo nghễ
Xin cung kính cúi đầu trước chữ VIỆT V-THÐ
(ết đầy đủ là VIỆT- V-THĐ Việt Trần Hưng Đạo ). Ta có
thể tin chắc rằng chữ này đã được khắc in trong cuốn Ðại Việt Sử Ký và
cuốn Việt Sử Cương Mục thời Trần viết sau khi chiến thắng Tầu song Nhà
Minh xâm lăng coi là sỉ nhục đã tịch thu và đốt đi (VN Sử Lược - Trần Trọng Kim
- trang 213) .
Ðức Lê Lợi
khi chống giặc Tầu vẫn đã dùng chữ này. Xin coi chữ VIỆT V-THÐ
trên bìa cuốn Trùng San Lam Sơn Thực Lục tự in năm 1431 của ngài.
Năm 1479 Vua Lê Thánh Tông đã trịnh trọng cho in chữ VIỆT V-THÐ này ngay trên trang bìa cuốn Sách quan trọng
nhất là SỬ NƯỚC VIỆT (gọi là Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư . Bản nguyên
thủy bị thất lạc song năm 1985 ta vui mừng tìm ra Bản do Nhà Hậu Lê in lại quen
gọi là Bản Nội Các Quan Bản in năm Chính Hòa (1697). Chương
Ngoại Kỷ Mở Ðầu cho chúng ta niềm vui đọc lại nhiều chữ tổ tiên để lại. Ví
dụ:
HÙNG LẠC
Mẹ TIÊN ÂU CƠ
僊 嫗 姬…
* * *
Xin được trình bày
ba chữ VIỆT HÙNG LẠC linh
thiêng.
[Xin xem Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư- bản
có trưng bản gốc chữ Hán Nôm trong
a) Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Nhà XBản Khoa Học
Xã Hội - Hà Nội 1998; hay
b)The Vietnamese Nôm Preservation Foundation.
History of Greater Vietnam
Ba chữ VIỆT HÙNG LẠC của Dân Ta là chữ
NÔM thuần Việt trọn ý Việt. Xin đừng lầm ra chữ Tầu và
đừng hiểu theo ý nghĩa chữ Tầu. Tổ
tiên ta nói tiếng Việt và viết tiếng Việt.
Thời ấy văn minh các nhóm người Bách Việt và riêng
người Lạc Việt rất cao và người Tầu đã mượn văn hóa Lạc Việt, mượn cả nhiều chữ
Lạc Việt. Dĩ nhiên trong sự trao đổi ta cũng mượn lại nhiều chữ của họ song đọc trại âm và hiểu theo nghĩa Việt. Bậc tiền nhân và Ðức
Thánh Trần sau đó đã phục hồi nhiều chữ Việt cổ khác về âm, hay ý, hay cách viết
xưa, hay mượn xác chữ Nho (Hán/Tầu) tạo
ra chữ VIỆT V-THÐ này và những chữ mới về Danh và Gốc
của Dân Tộc. Chữ VIỆT V-THÐ và các chữ NÔM này độc đáo
và không có trong tự điển Tầu; hoặc tự điển Tầu cho chữ gần giống song âm hay
nghĩa khác tiếng Việt.
* * *
2. Chữ VIỆT V-THÐ
viết theo Unicode
Ðây là chữ VIỆT
V-THÐ viết theo unicode để ta dễ dàng viết lại, in lại và phổ biến rộng.
Có thể copy vào bất cứ file nào như word, Microsoft, excel, text… Xin giản dị copy và paste, resize/enlarge/color and print theo
ý mình.
Dù theo chính kiến hay đảng phái nào, ta cũng vẫn là người Việt, vậy xin theo
Ðức Thánh Trần và Ðức Lê Lợi mà viết chữ
VIỆTV-THÐ theo hồn Việt và y như theo mẫu mực Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư của vua Lê Thánh Tôn. Xin cám ơn ông Tô Trọng Đức và quý vị
trong Hội Bảo Tồn Di sản chữ Nôm (The
Vietnamese Nôm Preservation Foundation) đã giúp viết cho chữ này song dành việc
đăng ký quốc tế cho tôi.
3. Chữ “Việt” đầu tiên:VIỆTCẦY CẤY 戉
Chữ VIỆT đầu tiên được viết, thực sự
là vẽ ra như trên, từ thời lập quốc, do Cha Rồng Mẹ Tiên và Nhóm Việt Lạc đầu tiên
viết ra (khi ấy ta chưa viết chữ theo các mẫu tự abc). Sau nhiều thế kỷ viết giản
dị ra 戉. Theo Sử, ta còn
dùng Chữ VIỆT này đến thời
Vua Trưng khởi nghĩa.
Hình vẽ Chim Tiên CHIM TỔ trong cả hơn ngàn
năm dẫn dắt hướng đi (Ðạo) tinh thần và vật chất cho Lạc Việt. Nhiều
cụ viết thêm chữ Kim tạo ra VIỆT cối đồng 鉞, theo hình ảnh hàng trăm trống đồng người Việt đúc
ra tiếp với kỹ thuật đúc lưỡi cày. Ðàn Chim Lạc Việt theo nhau chèo thuyền, cày
cấy, gặt gánh, giã lúa Lạc trên các cối
đồng: Xin xem trống đồng Ngọc Lũ, Sông Ðà hay Quảng Xương (Hình kèm).v. v…
Chữ VIỆTCẦY
CẤY viết theo hai hình ảnh đặc biệt của Lạc Việt là lưỡi cày bằng sắt
"
" và búa rìu binh khí 戈(qua/ge) do người Việt biết kỹ thuật luyện kim đã tạo
ra thay cho lưỡi cày gỗ (Tầu gọi là lỗi 耒 ) để phát triển kinh tế nông
nghiệp mức cao hơn mà Tầu phải học theo. Người Tầu đọc Chữ VIỆT戉này theo danh tự là VIỆT/Yuế
với nghĩa dân Việt biết chế đồ kim loại
song cũng theo động tự là yue tiến bộ, vượt lên (to exceed, to
surpass). Thành ngữ yue lai yue (the more…the
more…) dùng chữ yue yue ca tụng mức tiến bộ càng ngày càng cao (in ghi ơn
GS Richard Sears
và coi.
Chữ Việt VIỆTCẦY CẤY này thuộc loại cổ nhất do Lạc Việt viết
ra. Nhờ
GS Richard Sears giúp chiết tự, ta dọc được những chữ Hán cổ xưa người Tầu
vay mượn từ gốc Cổ Lạc Việt.
Xin thêm vài hàng. Cả ngàn năm người Lạc Việt đã là
một Dân Tộc có văn hóa và kiến thức cao về nông nghiệp và luyện kim và văn minh
Lạc Việt ấy soi sáng cho cả vùng kể cả người Tầu. Tíến Sĩ SOLHEIM II rất vô tư
khi khẳng quyết người Việt biết luyện kim, đúc lưỡi cầy, cả ngàn năm trước rồi
mới truyền kỹ thuật ấy cho người Tầu.
Xin xem “New Light on a Forgotten Past ÁNH SÁNG MỚI TRÊN MỘT QUÁ KHỨ LÃNG QUÊN . Người dịch: Hoàng-Hoa-Nhân-Kiệt.
4. Chữ VIỆT V-THÐ do ba chữ
"Đất
Nước+Rồng Việt+ Đại Nghĩa" hợp với nhau mà tạo thành
do ba chữ kết hợp với nhau để tạo thành:
chữ 1: 土 THỔ Một đất nước
chữ 2:
戎 RỒNG: Một Dân con
nhà RỒNG Việt
Vì ý nghĩa từng chữ nói trên rất quan trọng và vì lý
do kỹ thuật, xin dành riêng Bài Thứ Hai để đánh vần (gọi là chiết tự) chữ Ba Chữ
quan trọng này.
PHẦN II
CHỮ “HÙNG”
và chữ “LẠC”
1 . Chữ “HÙNG”
碓 HÙNG gồm hai chữ để nói Chim Tổ là Đá Nền cho Lạc Việt.
(hui/ chuy 隹 CHIM TỔ Chim Tiên + thạch 石 ÐÁ NỀN TẢNG. Khi viết gộp thì thường chữ quan trọng
viết bên phải)
Tiến triển văn minh cao độ của Dân Lạc là nhờ vào HÙNG
đá nền tức 18 Ðời Vua HÙNG
như nền nếp vững chắc. Cha Rồng Mẹ Tiên đã ban từ khi lập quốc những 碓 nền nếp văn hiến Hùng Lạc đá tảng về những nguyên tắc phân quyền, cơ cấu tổ chức
Nước và quản trị nhân dân… nhất là tôn trọng nhân quyền, nữ quyền. Nay xin tạm
dùng thuật ngữ nguyên tắc Hiến Pháp (Constitutional Law and principles) mà định
danh. Nước Ta đã có bộ Hiến Pháp Lạc Việt. Xin gọi Vua Trưng là Vua
Hùng thứ 19 bởi Vua có công đánh xâm
lăng dành lại Nước và phục hồi được Hiến
Pháp Lạc Việt qua 18 Vua Hùng cho Nhà Việt.
Tôi giải thích vài điểm hiến quyền cho anh em luật sư Mỹ, và họ cảm phục Lạc Việt. Chẳng
hạn tôi hỏi họ đã đến ngày đàn bà Mỹ như bà H.Clinton có thể làm tổng thống
chưa. Chưa ai dám quả quyết song tôi xin họ đọc Sử Lạc Việt để thấy Hai Vua
Trưng đã lên ngôi từ thế kỷ thứ nhất. Họ đồng ý vì Vua Trưng có tài nên xứng đáng,
song hỏi ngược liệu đàn bà bất tài có hiến quyền ấy không. Dạ, ta có vua Lý
Chiêu Hoàng lên ngôi khi còn là một cô bé, sau nhường ngôi cho nhà Trần. (Tôi
hân hạnh có cơ may đạu bằng hành nghề LS tại VNCH (1969-1975) và tại California
(1985 đến nay) Xin tạm xem thêm mấy bài này. Tôi sẽ tìm dịp đăng lại:
1 - Hai Vua
Trưng và Nữ Quyền
trong Bộ Hiến Pháp nước Lạc Việt
2 . Vua Trưng mở trang sử hào hùng
Bộ Hiến Pháp nước
Lạc Việt - bài 2
2. Chữ “LẠC”
Việt Nam ta có cách đọc một chữ song trại âm để tạo
ra chữ mới song có liên hệ. vd Bắc, Bấc, Nam, Nôm, Nồm, Nem…Chữ LÚA, Lốc… ta đọc trại
âm ra LẠC, chữ CHIM ra TIÊN 僊 để kính Danh Cha LẠC Rồng Mẹ Chim Tiên. Chữ lúa
Lạc nặng về phần kinh tế tuy không đứng riêng rẽ song là sự sống còn của
Dân Lạc mà Mẹ Chim Tiên ưu tư. Từ thời Cha Rồng Mẹ Chim Tiên lập quốc qua các
thời Vua Trưng tức cả ngàn năm sau đó, chữ Lạc được Lạc Việt viết bên chữ 戉 VIỆTCẦYCẤY như sau:
CHUY hay CHIM 隹 (Tầu đọc ZHUI). Hai CHIM TIÊN tức HAI CHIM LẠC gặt LÚA nuôi TRĂM
CON; sau Lạc được viết giản lược
với một CHIM gặt LÚA , rồi sắc nét ra 雒 lúa
Lạc, (各 các có thể là chữ làm âm).
3. Nói đến Chữ VIỆTTẨU
CHẬY 越.
Chữ VIỆTTẨUCHẬY này người Tầu chiến thắng đã viết ra để gọi Nước Việt
của vua Câu Tiễn là một Nước anh em trong Nhóm Bách Việt song đã bất hạnh bị mất
hết đất nước vì Tầu xâm chiếm rồi đồng hóa hoàn toàn. Khi chiến thắng Hai Vua Nhà Trưng, Mã Viện
dùng lại chữ này để nhục mạ Danh Lạc Việt.
của Dân Lạc Hùng.
Y cố ý nói CHIM TỔ dân Lạc khiếp nhược bỏ chậy
trước sức mạnh của Tầu. (走 zou/ âm Việt là tẩu
mang nghĩa chạy trốn ;vd tẩu vi thượng sách/ chậy trốn là cách tốt
nhât.)
2 . Mã Viện còn ngạo mạn cắt chữ LẠC
Chim Tiên 雒 ra làm đôi ; rồi bỏ chữ CHIM TỔ 隹 đi. Không còn Chim Tổ
nữa ; nay lấy chữ MÃ 馬 con ngựa là họ của y thay vào. Thế là y xấc
xược tạo ra chữ LẠC 駱 trâu ngựa.
Mã Viện đã xấc xược biến Quốc Danh
雒戉 Lạc Việt.
Ra 駱 LẠC trâu ngựa , 越 VIỆTTẨUCHẬY
Ðàn Chim Bay Cao của cả ngàn Trống Ðồng nay bị Mã Viện gọi là Ðàn
trâu ngựa của Tầu; [người chiến thắng thích làm vậy như chữ Saigon bị viết
ra HCM.] Y cũng cho tịch thu và đốt cháy cả ngàn trống đồng Lạc Việt
Mã Viện không chỉ chơi chữ song chính y đã lấy lại
LUẬT vô nhân đạo, không quy tắc hiến
pháp của Tầu tròng vào cổ dân Việt. Sử Tầu chép: Người
đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhì làm phản. "Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở
Mê Linh, vợ người huyện Chu Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng". Thái thú
Giao Chỉ là Tô Định lấy ‘pháp luật mà ràng buộc.
Trưng Trắc oán giận nên 'làm phản'.
Tô Định lấy pháp luật dĩ nhiên của nhà Hán
đàn áp anh hùng Thi Sách và toàn dân Việt. Mất nhà, mất nước, mất nền nếp văn
hiến, toàn dân và Trưng Trắc oán giận nên làm phản kẻ xâm lăng. Mã Viện cao ngạo thú
nhận trong Hậu Hán Thư quyển 54 rằng
điều tấu Việt Luật dữ
Hán Luật hiệu giả thập dư sự-
diễn Nôm: Mã Viện tâu (cho Vua Quang Vũ nhà Hán) rằng Luật Pháp của Nước Lạc
Việt hoàn toàn ) khác biệt ( hơn mười phần với )
Luật Pháp của Nước Hán (Tầu)
dữ Việt nhân
thân minh
cựu chế - dĩ ước thúc chi –
Rồi áp dụng chế độ luật pháp cũ [luật Hán từ thời đô hộ đến Tô Ðịnh]
để thắt buộc người người Lạc Việt.
tự hậu Lạc Việt
phụng hành
Mã tướng quân cố sự
http://cgibin.erols.com/mandarintools/cgi-bin/wordlook.pl?word=%E8%B2%89&searchtype=trad&where=start
[ Ðoạn Hậu Hán thư in trong Thượng Hải Trung Hoa thư cục
quyển 54 tờ 8 b. Trích lại từ Cổ Luật VN
và Tư Pháp Sử VN Q1 của GS Vũ Văn Mẫu trang 126]
Mã Viện nhục mạ Lạc Việt song vô tình lại xác nhận những
tiến bộ luật pháp của Lạc Việt cao hơn Tầu.
Sau khi Vua Trưng lấy lại quyền tự chủ sau hơn 150 năm thuộc Tầu Hán,
Ngài đã tái lập luật Lạc Việt đã có từ những 碓 nền nếp văn hiến Hùng Lạc đá tảng, in sâu trong lòng người
Mã Viện so sánh rất rõ Việt Luật 越 律 tức Luật Pháp của người
Lạc Việt với Hán Luật 漢 律
tức Luật Pháp của người Hán. Hai hệ thống Luật của Việt và Tàu hoàn toàn
khác nhau vì từ 2 nền nếp (văn hiến) khác nhau. Mã Viện là nhà cai trị nên dùng chữ LUẬT
theo đúng nghĩa khi nói về Luật nào đó đầy đủ phổ quát tính và cưỡng hành
tính với chế tài, chớ không dùng chữ tập tục, tục lệ, phong tục
hay truyền thống.
Khi Mã Viên so sánh hai nền luật pháp Việt va Tầu
khác biệt nhau thập dư sự
tức nhiều hơn 10 điều, vậy khoảng cách biệt là nhiều đến đâu ? Có vị
đoc câu này nghĩ là Việt Luật chỉ có 10 điều khác với Hán Luật. Không đúng đâu.
Xin nghe khi người Tàu nói nhân vô thập toàn, thuốc thập toàn đại bổ ; hay nghe cụ
Nguyễn Du khen hương sắc hai chị em cô Kiều mười phân vẹn mười thì chẳng
ai hiểu theo nghĩa đen là số 10 song là hoàn
toàn. Mã Viện viết rất rõ chữ thập dư sự 十 餘 事= nhiều hơn cả là MƯỜI điều. Chữ THẬP十 nét ngang chỉ đông tây, nét dọc chỉ nam bắc, mang
nghĩa đen là MƯỜI, nghĩa xa là hoàn
toàn, đầy đủ trọn vẹn.
Văn bản viết thập dư sự nghĩa là không chỉ là MƯỜI điều khác biệt
mà bất cứ điều gì giữa Luật Ta Luật Tàu thì cũng hoàn toàn
trái ngược nhau về nhân bản đạo đức học và
quyền tự do, v.v…
Nói vậy vì từ thời ấy Lạc Việt đã có Hiến Luật
(Constitutional Law). Hiến Pháp vài nước kể cả Lạc Việt không cần thành văn khi
đã thành sự trong lòng nhân dân. Cuộc khởi nghĩa của Vua Trưng giải thoát ách
nô lệ cho nhân dân chống lại đế quốc xâm lăng và dành lại các Luật và Hiến Luật
của Lạc Việt Bảo Vệ Quyền Tự Do Sống,
Quyền An Cư, Quyền Sở Hữu, Bình
Quyền, Tôn Trọng Nữ Quyền kể cả quyền chung trách nhiệm lãnh đạo, quyền
làm vua dù là quan lang hay mỵ nương v. v... nhân dân Lạc Việt đã an hưởng
cả hơn 2000 năm tính đến thời ấy. Người Nước Tầu không có những quyền ấy, kẻ mạnh chính là pháp luật .
Xin khẳng quyết rằng dù Vua Trưng chỉ lãnh đạo vỏn vẹn
3 năm song ngài đã ra lệnh bãi bỏ hẳn luật của Tàu nhà
Hán đã áp dụng cả 200 năm để Lạc Việt trở về với Luật Hiến Pháp của Cha Rồng đặt trên HÙNG Ðá Nền 碓 vốn đã nằm sâu sẵn trong lòng người Việt trải qua nhiều thế hệ.
Tổ tiên ta viết chữ HÙNG LẠC VIỆTCẦY
CẤY cho Dân Tộc với trọn ý nghĩa cao trọng linh thiêng. Song vì
chữ VIỆTTẨUCHẬY 越 này ta quen gặp nên nhiều vị kể cả các bậc thức giả lầm rằng chữ VIỆT
phải được viết như thế mà quên việc chiết tự. [Riêng ý nghĩa chữ Việt
là vượt lên cao sẽ bàn sau].
Khi lên ngôi vua Gia Long đã chấp nhận chữ VIỆTTẨUCHẬY do vua
Nhà Thanh ban. Lại nữa, trước năm 1985 chúng ta có đọc cuốn Ðại Việt
Sử Ký Toàn Thư của Nhà Lê gọi là Bản Quốc Tử Giám do vua Tự Ðức phê
chuẩn. Thật đáng tiếc là Chữ VIỆT V-THÐ thiêng liêng vừa nói trên bìa đã bị Nhà Nguyễn
đục bỏ rồi máy móc in lại chữ VIỆTTẨUCHẬY
mà người Tầu đã trịch thượng viết ra.
Tuy nay ta dùng quôc ngữ “ abc” nên chữ “Việt
“ viết ra chỉ theo một cách; song nếu phải đụng chạm với chũ Tầu, nhất là chữ VIỆTTẨUCHẬY thì thiết nghĩ nên hiểu rõ ý nghĩa và xuất xứ
của chữ này mà xóa bỏ đi ít ra trong tư tưởng, vì ta đã có Chữ 戉 VIỆTCẦY
CẤY và Chữ VIỆT V-THÐ tổ tiên viết ra kêu gọi ta kêt đoàn để
thành Một
Rồng Việt trước quốc biến.
Xin tạ ơn Ðức Thánh Trần và vua Lê Thánh Tông đã
ban ba chữ mới.
HÙNG LẠC VIỆT
trong cuốn SỬ NƯỚC
VIỆT.
Ta đã đọc chữ VIỆTCẦYCẤY
và chữ VIỆTV-THD được
xây trên “HÙNG” Ðá CHIM TỔ nền tảng về
tinh thần , xã hội và kinh tế.
Riêng chữ LẠC, các ngài xóa đi chữ
駱 LẠC trâu ngựa của Mã Viện , rồi thay thế mã ngựa với chữ 貉 là cách viết cho chữ
Lạc mới. Các ngài lấy chữ con
trâu thiêng tức con trâu trãi豸 (zhi) mang chính nghĩa + viết chung với chữ Lạc /Lúa.
Con trâu thiêng tức con trâu trãi: Việt Nam ta và các xứ nóng có nhiều trâu sống theo
đàn, song cũng là một con vật dễ nuôi và giúp ích trong việc trồng lúa. Trâu rất
hiền lành trừ khi bi chọc giận. Tôi ở Dalat nhiều năm nên hiểu rõ. Tầu là xứ lạnh không có trâu song họ nghe đến
trâu xứ nóng, hiền lành song sẵn sàng húc để bênh vực lẽ phải thì tạo ra con
trâu thiêng gọi là zhi và viết là 豸zhi (âm Hán Việt là
trĩ hay trãi gần âm với trâu) , viết đủ chữ là con 獬豸 (xie zhi
âm Việt Giải Trãi) và tin là nó biết phân biệt phải trái. Người Tầu sau
đó lấy con trâu thiêng zhi/trãi làm hình ảnh các vị công thần có khí
khái dám ngăn cản vua vì con zhi/trãi hiền lành song sẵn sàng húc khi cần
bảo vệ chính nghĩa. Mũ các quan gọi la mũ giải trãi
Người Tầu cũng viết chữ trâu thiêng ra 廌, cũng đọc là zhi, (âm tri gần với chữ trâu, âm Hán Việt là trĩ hay trãi, hay Qi hay
Ki ( Ki-lin: Ki-/kỳ trâu đực, lin/lân trâu
cái) . Vì là con vật tưởng tượng nên
có cụ nghĩ là một loại hươu, nai, dê…có
cụ cho là con dê độc sừng unicorn hay quái vât linh thiêng song biết phân biệt
phải trái.
(Xem Tự điểnThiều Chửu
trang 214 & 796
Chữ LẠC 雒 của tổ tiên nhà Lạc Việt đã bị Mã Viện xúc phạm viết
ra 駱 cho nên cần chữ LẠC
mới 貉 cho bộ Sử . Xin phỏng đoán Đức Thánh
Trần, Đức Lê Lợi và vua Lê Thánh Tông có dụng ý nói con trâu zhi/trãi chính là con trâu Việt Nam để
người Tầu hiểu con trâu Việt vốn hiền lành và hữu dụng vì gắn liền với
việc sản xuất Lúa Lạc. Song xin người
xâm lăng đừng chọc giận Con Trâu Việt, nhất là trâu đàn vì cọp beo còn sợ chúng.
Sau đây là
hình ảnh con trâu Lạc Việt trên trống đồng Làng Vạc Thanh Hóa và trống
đòng Động xá theo nguồn internet
* * *
Ước mong quý vị góp ý để bài đầy đủ tài liệu và rõ
ý nghĩa hơn. Xin đón đọc Bài Thứ Nhì: Cùng đánh vần chữ VIỆT V-THÐ
. Kính tạm biệt toàn thể quý vị tham dư
Hội Ngộ 2017 Mừng Sáu Mươi Năm
Thành Lập Ðại Học Huế nhiều niềm vui.
Xin ghi ơn quý vị đã giúp phổ biến bài
"Ðánh vần chữ "VIỆT" của Ðức
Thánh Trần".
- 1. website vietnamvanhien
Law Offices of Nguyen Cong Binh,
2451 S. King Rd. suite #E
San Jose, CA 95122
Tel: 408 270 2021 Fax 408 270 3549
Email: LsNguyenCongBinh@gmail.com




















Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire