Ba Chữ VIỆT HÙNG LẠC. * Luật Sư Nguyễn Công Bình.

Linh thiêng (Bài Một)
Xin nghiêm trang xướng lên ba chữ
VIỆT HÙNG  LẠC
Kính xin toàn thể mọi người cùng cung kính dâng nén hương và ba lần kính lạy bàn thờ tri ân Quốc Tổ Hùng Vươngcác anh hùng dựng nước và cứu nước.

Chúng ta là con dân Hùng Lạc Việt Nam xưng ngắn gọn lại là Hùng Lạc Việt , hay Lạc Việt,  hay Việt Nam,  ngắn nhất song đầy đủ là  VIỆT.
Chữ Hùng Lạc cũng đọc là Hồng Lạc và cùng ư nghĩa.
Bài Một này và Bài Hai xin học hỏi rộng chữ Việt . Chữ Nam xin có bài bàn riêng
 
Danh VIỆT cho con dân Việt đă được Cha Rồng Mẹ Tiên đặt từ Ngày Dựng Nước. Thời ấy ta chưa dùng con chữ  “abc” nên viêt theo kiểu Nam (cũng gọi là Nôm) là   song song với cách viết chữ Hán (cũng gọi là Nho hay Tầu) song khác ư và khác âm.
 
Ðức Thánh Trần, khi hiệu triệu toàn dân chống giặc Tầu Mông Cổ xâm lăng, vào thế kỷ 13, đã cho viết thêm nét đầy ý nghĩa chuyển chữ  ra chữVIỆT V-THĐ Trần Hưng Đạo. Chữ VIỆT V-THÐ sau đó được trịnh trọng viết trên bìa cuốn sách quan trọng là SỬ NƯỚC VIỆT  viết đủ là Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư [hình kèm]

Phóng lớn hai chữ đầu: Ðại VIỆT 

Nước VIỆT V-THÐ Lớn Lao
 (Đại Việt cũng là Quốc Danh Nước Ta thời đó)
 
PHẦN I
ÐÂY: CHỮ   VIỆT V-THÐ VIỆT Trần Hưng Đạo
 
1. VIỆT V-THР uy nghi ngạo nghễ 
Xin cung kính cúi đầu trước chữ VIỆT V-THÐ (ết đầy đủ là VIỆT- V-THĐ Việt Trần Hưng Đạo ). Ta có thể tin chắc rằng chữ này đã được khắc in trong cuốn Ðại Việt Sử Ký và cuốn Việt Sử Cương Mục thời Trần viết sau khi chiến thắng Tầu song Nhà Minh xâm lăng coi là sỉ nhục đã tịch thu và đốt đi (VN Sử Lược - Trần Trọng Kim - trang 213) .
 
Ðức Lê Lợi  khi chống giặc Tầu vẫn đã dùng chữ này. Xin coi chữ VIỆT V-THÐ trên bìa cuốn Trùng San Lam Sơn Thực Lục tự in năm 1431 của ngài. Năm 1479 Vua Lê Thánh Tông đã trịnh trọng cho in chữ VIỆT V-THР này ngay trên trang bìa cuốn Sách quan trọng nhất là SỬ NƯỚC VIỆT  (gọi là  Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư . Bản nguyên thủy bị thất lạc song năm 1985 ta vui mừng tìm ra Bản do Nhà Hậu Lê in lại quen gọi là Bản Nội Các Quan Bản in năm Chính Hòa (1697). Chương Ngoại Kỷ Mở Ðầu cho chúng ta niềm vui đọc lại nhiều chữ tổ tiên để lại. Ví dụ:

HÙNG LẠC 
Mẹ TIÊN ÂU CƠ 

*   *   *
Xin được trình bày  ba  chữ VIỆT HÙNG LẠC linh thiêng.
[Xin xem Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư- bản có trưng bản gốc chữ Hán Nôm trong
a) Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Nhà XBản Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1998; hay
b)The Vietnamese Nôm Preservation Foundation. History of Greater Vietnam
Ba chữ VIỆT HÙNG LẠC của Dân Ta là chữ NÔM thuần Việt trọn ý Việt. Xin đừng lầm ra chữ  Tầu  và đừng hiểu theo ý nghĩa chữ Tầu.  Tổ tiên ta nói tiếng Việt và viết tiếng Việt.
Thời ấy văn minh các nhóm người Bách Việt và riêng người Lạc Việt rất cao và người Tầu đã mượn văn hóa Lạc Việt, mượn cả nhiều chữ Lạc Việt. Dĩ nhiên trong sự trao đổi ta cũng mượn lại nhiều chữ của họ song đọc trại âm và hiểu theo nghĩa Việt. Bậc tiền nhân và Ðức Thánh Trần sau đó đã phục hồi nhiều chữ Việt cổ khác về âm, hay ý, hay cách viết xưa, hay mượn xác chữ Nho (Hán/Tầu)  tạo ra chữ VIỆT V-THÐ này và những chữ mới về Danh và Gốc của Dân Tộc. Chữ VIỆT V-THÐ và các chữ NÔM này độc đáo và không có trong tự điển Tầu; hoặc tự điển Tầu cho chữ gần giống song âm hay nghĩa khác tiếng Việt.     
 
*   *   *
  2. Chữ VIỆT V-THÐ viết theo Unicode
Ðây là chữ  VIỆT V-THÐ viết theo unicode  để ta dễ dàng viết lại, in lại và phổ biến rộng. Có thể copy vào bất cứ file nào như word, Microsoft, excel, text…  Xin giản dị copy và paste, resize/enlarge/color and print theo ý mình.
Dù theo chính kiến hay đảng phái  nào, ta cũng vẫn là người Việt, vậy xin theo Ðức Thánh Trần và Ðức Lê Lợi mà viết chữ  VIỆTV-THÐ theo hồn Việt và y như theo mẫu mực Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của vua Lê Thánh Tôn. Xin cám ơn ông Tô Trọng Đức và quý vị trong  Hội Bảo Tồn Di sản chữ Nôm (The Vietnamese Nôm Preservation Foundation) đã giúp viết cho chữ này song dành việc đăng ký quốc tế cho tôi.
 
3. Chữ “Việt” đầu tiên:VIỆTCẦY CẤY 
Chữ VIỆT đầu tiên được viết, thực sự là vẽ ra như trên, từ thời lập quốc, do Cha Rồng Mẹ Tiên và Nhóm Việt Lạc đầu tiên viết ra (khi ấy ta chưa viết chữ theo các mẫu tự abc). Sau nhiều thế kỷ viết giản dị ra . Theo Sử, ta còn dùng Chữ VIỆT  này đến thời Vua Trưng khởi nghĩa.
 
Hình vẽ Chim Tiên CHIM TỔ trong cả hơn ngàn năm dẫn dắt hướng đi (Ðạo) tinh thần và vật chất cho Lạc Việt. Nhiều cụ viết thêm chữ Kim tạo ra VIỆT cối đồng , theo hình ảnh hàng trăm trống đồng người Việt đúc ra tiếp với kỹ thuật đúc lưỡi cày. Ðàn Chim Lạc Việt theo nhau chèo thuyền, cày cấy, gặt gánh, giã lúa Lạc  trên các cối đồng: Xin xem trống đồng Ngọc Lũ, Sông Ðà hay Quảng Xương (Hình kèm).v. v…  
Chữ  VIỆTCẦY CẤY viết theo hai hình ảnh đặc biệt của Lạc Việt là lưỡi cày bằng sắt "" và búa rìu binh khí (qua/ge)  do người Việt biết kỹ thuật luyện kim đã tạo ra thay cho lưỡi cày gỗ (Tầu gọi là lỗi ) để phát triển kinh tế nông nghiệp mức cao hơn mà Tầu phải học theo. Người Tầu đọc Chữ VIỆTnày theo danh tự là VIỆT/Yuế với nghĩa dân Việt biết chế đồ kim loại  song cũng theo động tự là yue tiến bộ, vượt lên (to exceed, to surpass). Thành ngữ yue lai yue (the more…the more…) dùng chữ yue yue ca tụng mức tiến bộ càng ngày càng cao (in ghi ơn GS Richard Sears
 
và coi.
 
Chữ Việt VIỆTCẦY CẤY  này thuộc loại cổ nhất do Lạc Việt viết ra.  Nhờ  GS Richard Sears giúp chiết tự, ta dọc được những chữ Hán cổ xưa người Tầu vay mượn từ gốc Cổ  Lạc Việt.
 
Xin thêm vài hàng. Cả ngàn năm người Lạc Việt đã là một Dân Tộc có văn hóa và kiến thức cao về nông nghiệp và luyện kim và văn minh Lạc Việt ấy soi sáng cho cả vùng kể cả người Tầu. Tíến Sĩ SOLHEIM II rất vô tư khi khẳng quyết người Việt biết luyện kim, đúc lưỡi cầy, cả ngàn năm trước rồi mới truyền kỹ thuật  ấy cho người Tầu. Xin xem “New Light on a Forgotten Past ÁNH SÁNG MỚI TRÊN MỘT QUÁ KHỨ LÃNG QUÊN . Người dịch: Hoàng-Hoa-Nhân-Kiệt.
4.  Chữ VIỆT V-THÐ do ba chữ
"Đất Nước+Rồng Việt+ Đại Nghĩa" hợp với nhau mà tạo thành
 
Sau chữ VIỆTCẦY CẤY    là chữ VIỆT V-THР

do ba chữ kết hợp với nhau  để tạo thành:
chữ 1:     THỔ  Một đất nước
chữ 2: RỒNG: Một Dân con nhà RỒNG Việt
 chữ 3: Nghĩa : đầy tình người là Chính Nghĩa, Nghĩa Khí, Nghĩa Hiệp, Ơn Nghĩa …  … và Nhân Nghĩa
Vì ý nghĩa từng chữ nói trên rất quan trọng và vì lý do kỹ thuật, xin dành riêng Bài Thứ Hai để đánh vần (gọi là chiết tự) chữ Ba Chữ quan trọng này. 

PHẦN II
CHỮ  “HÙNG” và chữ “LẠC”

1 . Chữ “HÙNG”
HÙNG gồm hai chữ để nói Chim Tổ là Đá Nền cho Lạc Việt. (hui/ chuy CHIM TỔ Chim Tiên + thạch ÐÁ NỀN TẢNG. Khi viết gộp thì thường chữ quan trọng viết bên phải)
 
Tiến triển văn minh cao độ của Dân Lạc là nhờ vào HÙNG đá nền tức 18  Ðời Vua HÙNG như nền nếp vững chắc. Cha Rồng Mẹ Tiên đã ban từ khi lập quốc những nền nếp văn hiến  Hùng Lạc đá tảng  về những nguyên tắc phân quyền, cơ cấu tổ chức Nước và quản trị nhân dân… nhất là tôn trọng nhân quyền, nữ quyền. Nay xin tạm dùng thuật ngữ nguyên tắc Hiến Pháp (Constitutional Law and principles) mà định danh. Nước Ta đã có bộ Hiến Pháp Lạc Việt. Xin gọi Vua Trưng là Vua Hùng thứ 19  bởi Vua có công đánh xâm lăng dành lại Nước  và phục hồi được Hiến Pháp Lạc Việt qua 18 Vua Hùng cho Nhà Việt.
Tôi giải thích vài điểm hiến quyền cho anh  em luật sư Mỹ, và họ cảm phục Lạc Việt. Chẳng hạn tôi hỏi họ đã đến ngày đàn bà Mỹ như bà H.Clinton có thể làm tổng thống chưa. Chưa ai dám quả quyết song tôi xin họ đọc Sử Lạc Việt để thấy Hai Vua Trưng đã lên ngôi từ thế kỷ thứ nhất. Họ đồng ý vì Vua Trưng có tài nên xứng đáng, song hỏi ngược liệu đàn bà bất tài có hiến quyền ấy không. Dạ, ta có vua Lý Chiêu Hoàng lên ngôi khi còn là một cô bé, sau nhường ngôi cho nhà Trần. (Tôi hân hạnh có cơ may đạu bằng hành nghề LS tại VNCH (1969-1975) và tại California (1985 đến nay) Xin tạm xem thêm mấy bài này. Tôi sẽ tìm dịp đăng lại: 
 
1 -  Hai Vua Trưng và Nữ Quyền
trong Bộ Hiến Pháp nước Lạc Việt
 
2 . Vua Trưng mở trang sử hào hùng
Bộ Hiến Pháp nước  Lạc Việt - bài 2
 
2.    Chữ “LẠC”
Việt Nam ta có cách đọc một chữ song trại âm để tạo ra chữ mới song có liên hệ. vd  Bắc, Bấc,  Nam, Nôm, Nồm, Nem…Chữ LÚA, Lốc… ta đọc trại âm ra LẠC, chữ CHIM ra TIÊN để kính Danh Cha LẠC Rồng Mẹ Chim Tiên. Chữ lúa Lạc nặng về phần kinh tế tuy không đứng riêng rẽ song là sự sống còn của Dân Lạc mà Mẹ Chim Tiên ưu tư. Từ thời Cha Rồng Mẹ Chim Tiên lập quốc qua các thời Vua Trưng tức cả ngàn năm sau đó, chữ Lạc được Lạc Việt viết bên chữ  VIỆTCẦYCẤY như sau:
LẠC  隹各隹
 
CHUY hay CHIM (Tầu đọc ZHUI). Hai CHIM TIÊN tức HAI CHIM LẠC gặt LÚA nuôi TRĂM CON; sau Lạc được viết giản lược với một CHIM gặt LÚA
,  rồi sắc nét ra lúa Lạc, ( các có thể là chữ làm âm).
 
3. Nói đến Chữ VIỆTTẨU CHẬY  .
Chữ VIỆTTẨUCHẬY này người Tầu chiến thắng đã viết ra để gọi Nước Việt của vua Câu Tiễn là một Nước anh em trong Nhóm Bách Việt song đã bất hạnh bị mất hết đất nước vì Tầu xâm chiếm rồi đồng hóa hoàn toàn.  Khi chiến thắng Hai Vua Nhà Trưng, Mã Viện dùng lại chữ này để nhục mạ Danh Lạc Việt. của Dân Lạc Hùng.
 
1 .  Y xấc xược viết thêm chữ TẨUvào chữ VIỆT CẦYCẤY  để tạo ra chữ VIỆTTẨUCHẬY  + >.
Y cố ý nói CHIM TỔ dân Lạc khiếp nhược bỏ chậy trước sức mạnh của Tầu. (  zou/ âm Việt là tẩu mang nghĩa chạy trốn ;vd tẩu vi thượng sách/ chậy trốn là cách tốt nhât.)
 
2 . Mã Viện còn ngạo mạn cắt chữ LẠC Chim Tiên ra làm đôi ; rồi bỏ chữ CHIM TỔ đi. Không còn Chim Tổ nữa ; nay lấy chữ con ngựa là họ của y thay vào.  Thế là y xấc xược tạo  ra chữ LẠC trâu ngựa. 
Mã Viện đã xấc xược biến Quốc Danh
 
雒戉  Lạc Việt.  
Ra LẠC trâu ngựa , VIỆTTẨUCHẬY
 
Ðàn Chim Bay Cao của cả ngàn Trống Ðồng nay bị Mã Viện gọi là Ðàn trâu ngựa của Tầu; [người chiến thắng thích làm vậy như chữ Saigon bị viết ra HCM.] Y cũng cho tịch thu và đốt cháy cả ngàn trống đồng Lạc Việt
 
Mã Viện không chỉ chơi chữ song chính y đã lấy lại LUẬT  vô nhân đạo, không quy tắc hiến pháp của Tầu tròng vào cổ dân Việt. Sử Tầu chép: Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhì làm phản.  "Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Chu Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng". Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấypháp luật mà ràng buộc.  Trưng Trắc oán giận nên 'làm phản'.
 
Tô Định lấy pháp luật dĩ nhiên của nhà Hán đàn áp anh hùng Thi Sách và toàn dân Việt. Mất nhà, mất nước, mất nền nếp văn hiến,  toàn dân và  Trưng Trắc oán giận nên làm phản  kẻ xâm lăng. Mã Viện cao ngạo thú nhận trong Hậu Hán Thư  quyển 54 rằng
điều tấu Việt Luật   dữ
Hán Luật hiệu giả thập dư sự-
  *     *
*      
diễn Nôm: Mã Viện tâu (cho Vua Quang Vũ nhà Hán) rằng Luật Pháp của Nước Lạc Việt hoàn toàn ) khác biệt ( hơn mười phần với ) Luật  Pháp của Nước Hán (Tầu)
dữ Việt nhân thân     minh
cựu chế - dĩ ước thúc chi –
*   *    
              -
Rồi áp dụng chế độ luật pháp cũ [luật Hán từ thời đô hộ đến Tô Ðịnh] để thắt buộc người người Lạc Việt.
tự hậu Lạc Việt phụng hành
Mã tướng quân cố sự
  * 
http://cgibin.erols.com/mandarintools/cgi-bin/wordlook.pl?word=%E8%B2%89&searchtype=trad&where=start 
  *            Từ đó trở đi thì người Lạc Việt phải tuân theo ý của  tướng Mã Viện
[ Ðoạn Hậu Hán thư in trong Thượng Hải Trung Hoa thư cục quyển 54 tờ 8 b. Trích lại từ  Cổ Luật VN và Tư Pháp Sử VN Q1 của GS Vũ Văn Mẫu trang 126]
Mã Viện nhục mạ Lạc Việt song vô tình lại xác nhận những tiến bộ luật pháp của Lạc Việt cao hơn Tầu.  Sau khi Vua Trưng lấy lại quyền tự chủ sau hơn 150 năm thuộc Tầu Hán, Ngài đã tái lập luật Lạc Việt đã có từ những nền nếp văn hiến  Hùng Lạc đá tảng, in sâu trong lòng người
 
Mã Viện so sánh rất rõ Việt Luật tức Luật Pháp của người Lạc Việt  với Hán Luật   tức Luật Pháp của người Hán.  Hai hệ thống Luật của Việt và Tàu hoàn toàn khác nhau vì từ 2 nền nếp (văn hiến) khác nhauMã Viện là nhà cai trị nên dùng chữ LUẬT theo đúng nghĩa khi nói về Luật nào đó đầy đủ phổ quát tính và cưỡng hành tính với chế tài, chớ không dùng chữ tập tục, tục lệ, phong tục hay truyền thống.   
Khi Mã Viên so sánh hai nền luật pháp Việt va Tầu khác biệt nhau      thập dư sự  tức nhiều hơn 10 điều, vậy khoảng cách biệt là nhiều đến đâu ? Có vị đoc câu này nghĩ là Việt Luật chỉ có 10 điều khác với Hán Luật. Không đúng đâu. Xin nghe khi người Tàu nói nhân vô thập toàn, thuốc thập toàn đại bổ ; hay nghe cụ Nguyễn Du khen hương sắc hai chị em cô Kiều mười phân vẹn mười thì chẳng ai hiểu theo nghĩa đen là số 10 song là hoàn toàn.  Mã Viện viết rất rõ chữ thập dư sự   = nhiều hơn cả là MƯỜI điều.  Chữ THẬP nét ngang chỉ đông tây, nét dọc chỉ nam bắc, mang nghĩa đen là MƯỜI, nghĩa xa là hoàn toàn, đầy đủ trọn vẹn.  Văn bản viết thập dư sự  nghĩa là không chỉ là MƯỜI điều khác biệt mà bất cứ điều gì giữa Luật Ta Luật Tàu thì cũng hoàn toàn trái ngược nhau về nhân bản đạo đức học  quyền tự do, v.v…
 
Nói vậy vì từ thời ấy Lạc Việt đã có Hiến Luật (Constitutional Law). Hiến Pháp vài nước kể cả Lạc Việt không cần thành văn khi đã thành sự trong lòng nhân dân. Cuộc khởi nghĩa của Vua Trưng giải thoát ách nô lệ cho nhân dân chống lại đế quốc xâm lăng và dành lại các Luật và Hiến Luật của Lạc Việt Bảo Vệ Quyền Tự Do Sống,  Quyền An Cư, Quyền Sở Hữu,  Bình Quyền, Tôn Trọng Nữ Quyền kể cả quyền chung trách nhiệm lãnh đạo, quyền làm vua dù là quan lang hay mỵ nương v. v... nhân dân Lạc Việt đã an hưởng cả hơn 2000 năm tính đến thời ấy. Người Nước Tầu không có những quyền ấy,  kẻ mạnh chính là pháp luật .
 
Xin khẳng quyết rằng dù Vua Trưng chỉ lãnh đạo vỏn vẹn 3 năm song ngài đã ra lệnh bãi bỏ hẳn luật của Tàu nhà Hán đã áp dụng cả 200 năm để Lạc Việt trở về với Luật Hiến Pháp của Cha Rồng đặt trên HÙNG Ðá Nền vốn đã nằm sâu sẵn trong lòng người Việt trải qua nhiều thế hệ. 
 
Tổ tiên ta viết chữ HÙNG LẠC VIỆTCẦY CẤY cho Dân Tộc với trọn ý nghĩa cao trọng linh thiêng.  Song vì  chữ VIỆTTẨUCHẬY này ta quen gặp nên nhiều vị kể cả các bậc thức giả lầm rằng chữ VIỆT phải được viết như thế mà quên việc chiết tự. [Riêng ý nghĩa chữ Việtvượt lên cao sẽ bàn sau].
 
Khi lên ngôi vua Gia Long đã chấp nhận chữ VIỆTTẨUCHẬY  do vua  Nhà Thanh ban. Lại nữa, trước năm 1985 chúng ta có đọc cuốn Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư của Nhà Lê gọi là Bản Quốc Tử Giám do vua Tự Ðức phê chuẩn. Thật đáng tiếc là Chữ VIỆT V-THР thiêng liêng vừa nói trên bìa đã bị Nhà Nguyễn đục bỏ rồi máy móc in lại chữ VIỆTTẨUCHẬY  mà người Tầu đã trịch thượng viết ra.
 
Tuy nay ta dùng quôc ngữ “ abc” nên chữ “Việt “ viết ra chỉ theo một cách; song nếu phải đụng chạm với chũ Tầu,  nhất là chữ VIỆTTẨUCHẬY  thì thiết nghĩ nên hiểu rõ ý nghĩa và xuất xứ của chữ này mà xóa bỏ đi ít ra trong tư tưởng, ta đã có Chữ VIỆTCẦY CẤY Chữ VIỆT V-THР tổ tiên viết ra kêu gọi ta kêt đoàn để thành  Một Rồng Việt trước quốc biến.
 
Xin tạ ơn Ðức Thánh Trần và vua Lê Thánh Tông đã ban ba chữ  mới.
HÙNG LẠC VIỆT  trong cuốn SỬ NƯỚC VIỆT.
 
Ta đã đọc chữ VIỆTCẦYCẤY và chữ VIỆTV-THD được xây trên “HÙNG” Ðá CHIM TỔ nền tảng về tinh thần , xã hội và kinh tế.  Riêng chữ LẠC, các ngài xóa đi chữ
  LẠC trâu ngựa của Mã Viện , rồi thay thế mã ngựa với chữ là cách viết cho chữ Lạc mới. Các ngài lấy chữ con trâu thiêng tức con trâu trãi (zhi) mang chính nghĩa +  viết chung với chữ Lạc /Lúa.
 
Con trâu thiêng tức con trâu trãi:  Việt Nam ta và các xứ nóng có nhiều trâu sống theo đàn, song cũng là một con vật dễ nuôi và giúp ích trong việc trồng lúa. Trâu rất hiền lành trừ khi bi chọc giận. Tôi ở Dalat nhiều năm nên hiểu rõ.  Tầu là xứ lạnh không có trâu song họ nghe đến trâu xứ nóng, hiền lành song sẵn sàng húc để bênh vực lẽ phải thì tạo ra con trâu thiêng gọi là zhi và viết  là zhi (âm Hán Việt là  trĩ hay trãi gần âm với trâu) , viết đủ chữ là con 獬豸 (xie zhi âm Việt Giải Trãi) và tin là nó biết phân biệt phải trái. Người Tầu sau đó lấy con trâu thiêng zhi/trãi làm hình ảnh các vị công thần có khí khái dám ngăn cản vua vì con zhi/trãi hiền lành song sẵn sàng húc khi cần bảo vệ chính nghĩa. Mũ các quan gọi la mũ giải trãi
 
Người Tầu cũng viết chữ trâu thiêng ra  , cũng đọc là zhi, (âm tri  gần với chữ trâu, âm Hán Việt là  trĩ hay trãi, hay Qi hay Ki ( Ki-lin: Ki-/kỳ trâu đực, lin/lân trâu cái) . Vì là con vật tưởng tượng nên có cụ nghĩ là một loại  hươu, nai, dê…có cụ cho là con dê độc sừng unicorn hay quái vât linh thiêng song biết phân biệt phải trái.
(Xem Tự điểnThiều Chửu trang 214 & 796
Chữ LẠC của tổ tiên nhà Lạc Việt đã bị Mã Viện xúc phạm viết ra   cho nên cần chữ LẠC mới cho bộ Sử . Xin phỏng đoán  Đức Thánh Trần, Đức Lê Lợi và vua Lê Thánh Tông có dụng ý nói con trâu zhi/trãi chính là con trâu Việt Nam để người Tầu hiểu con trâu Việt vốn hiền lành và hữu dụng vì gắn liền với việc sản xuất  Lúa Lạc. Song xin người xâm lăng đừng chọc giận Con Trâu Việt, nhất là trâu đàn  vì cọp beo còn sợ chúng.
Sau đây là  hình ảnh con trâu Lạc Việt trên trống đồng Làng Vạc Thanh Hóa và trống đòng Động xá theo nguồn internet
 
*   *   *
Ước mong quý vị góp ý để bài đầy đủ tài liệu và rõ ý nghĩa hơn. Xin đón đọc Bài Thứ Nhì: Cùng đánh vần chữ VIỆT V-THÐ . Kính tạm biệt toàn thể quý vị tham dư  Hội Ngộ  2017 Mừng Sáu Mươi Năm Thành Lập Ðại Học Huế nhiều niềm vui.
Xin ghi ơn quý vị đã giúp phổ biến bài
"Ðánh vần chữ "VIỆT" của Ðức Thánh Trần".
- 1. website vietnamvanhien
Law Offices of Nguyen Cong Binh,
2451 S. King Rd. suite #E
San Jose, CA 95122
Tel: 408 270 2021 Fax 408 270 3549

Aucun commentaire: