Câu
chuyện về pho tượng Phật nằm lớn nhất Đông Nam Á - Thực hư về “cánh cửa tử thần”.
Khuôn mặt tượng
Phật từ bi mà không ủy mị.
Núi Tà Cú (Hàm
Thuận Nam, Bình Thuận) là ngọn núi trẻ, chỉ cao xấp xỉ 650 m nhưng từ lâu đã nổi tiếng nhờ ngôi chùa
được tạo lập
từ gần 150 năm trước và đặc biệt là nơi có tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài49 m đã được công nhận là Guinness Việt Nam. Pho tượng
trên núi Tà Cú gần nửa thế kỷ qua luôn bị đồn thổi là được xây dựng từ ý đồ đàn
áp Phật giáo của Trần Lệ Xuân.
từ gần 150 năm trước và đặc biệt là nơi có tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn dài
Cánh cửa sau lưng tượng bị lấp khiến nhiều người cho rằng... đã có hàng trăm tăng ni bị chính quyền Ngô Đình Diệm lùa vào trong lòng tượng Phật và xịt hơi ngạt cho đến chết!
Huyền thọai Linh
Sơn Trường Thọ tự.
Tương truyền,
chùa Tà Cú được sư tổ Hữu Đức khai lập khoảng năm 1870. Bấy giờ, ngọn núi này
còn là nơi thâm sơn cùng cốc, đầy thú dữ.
Năm Tự Đức thứ
33 (1880), Hoàng Thái hậu Từ Dũ mắc bệnh nặng, ngự y trong triều đều bó tay.
Trong lúc ấy, có quan chủ tỉnh Bình Thuận làm biểu sớ gởi về triều đình, tâu
vua về việc sư Hữu Đức rất giỏi thuốc Nam và thường dùng cây cỏ trên núi để chữa
bệnh cho mọi người trong vùng, rất hiệu nghiệm. Lập tức Vua Tự Đức nghe theo,
liền cho sứ đến thỉnh về triều nhưng sư Hữu Đức từ chối không về, vì đã có lời
hứa không xuống núi. Vị sư chỉ trao cho viên sứ một bài chú Chuẩn Đề, thảo dược
hái vội trên núi và cách dùng, bảo về trì tụng trong ba ngày thì bệnh tình
Hoàng Thái hậu sẽ lành hẳn.
Sau khi sứ thần
trở về và làm y theo lời dặn, quả thật sau ba hôm Hoàng Thái hậu lành mạnh như
cũ. Nhà vua rất phục và để tỏ lòng tri ân, nhà vua sắc phong danh hiệu của chùa
là Linh Sơn Trường Thọ và tôn xưng sư Hữu Đức là Đại Lão hòa thượng.
Về sau, có mẹ vợ
của công sứ Pháp tên Gat-Nhe đi chùa lễ Phật và có xin một bài chú Chuẩn Đề và
một số thang thuốc do sư Hữu Đức bốc để hộ thân. Gặp lúc con gái bà là vợ công
sứ lâm bệnh nặng, bà đem thần chú ra trì tụng và sắc thuốc cho uống thì con bà
bỗng được bình phục. Công sứ Gat-Nhe thấy vậy liền lên chùa tạ ơn và xin họa
chân dung của sư Hữu Đức để làm kỷ niệm. Ngày nay bức chân dung ấy vẫn
còn.
Đến đời Vua Đồng
Khánh thứ nhất, nhằm năm Đinh Hợi, sư Hữu Đức viên tịch ở tuổi 76, sau khi đã ủy
phó Phật sự lại cho các đệ tử. Năm 1960, hòa thượng trụ trì Thích Vĩnh Thọ phác
thảo pho tượng Thích Ca nhập Niết Bàn lộ thiên khổng lồ phía sau lưng
chùa.
Bí mật “cánh cửa tử thần”
Bí mật “cánh cửa tử thần”
Năm 1962 công
trình tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn được khởi công do điêu khắc sư Trương
Đình Ý chủ trì. Bốn năm sau, pho tượng Phật khổng lồ dài 49 m , cao 11 m mới hoàn thành và phía sau cổ tượng có
cánh cửa mà một người lớn có thể lách mình chui lọt vào trong.
Chính từ cánh cửa
này nên dấy lên hàng loạt chuyện đồn thổi, cho rằng pho tượng được xây dựng nhờ
kinh phí của chế độ Ngô Đình Diệm. Bởi lẽ công trình trên núi cao phải tốn hàng
trăm ngàn lượng, trong khi Linh Sơn Trường Thọ lại là một ngôi chùa nghèo. Thậm
chí có tin còn cho rằng trong chiến dịch đàn áp Phật giáo, vợ chồng Ngô Đình
Nhu và Trần Lệ Xuân còn ra lệnh thuộc cấp giả vờ tổ chức đại hội Phật giáo trên
núi Tà Cú (lúc đó thuộc tỉnh Bình Tuy). Sau đó, chúng lùa hàng trăm tăng ni vào
lòng pho tượng, rồi dùng vũ khí sinh học để giết chết ngạt và bít luôn cánh cửa
làm mồ chôn tập thể!
Chỉ cần thông hiểu
chút ít về thời cuộc cũng đủ thấy đây là đồn thổi vô căn cứ. Bởi “Sự kiện Phật
đản” do gia đình họ Ngô phát động, xảy ra từ tháng 5-1963 khi tượng Phật mới khởi
công được một năm. Cũng chính từ “Sự kiện Phật đản” năm 1963 nên đến ngày
1-11-1963, chế độ nhà Ngô bị đảo chính. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị bắn chết;
Trần Lê Xuân phải sống lưu vong ở nước ngoài. Trong khi đó, tượng Phật trên núi
Tà Cú đến năm 1966 mới hoàn thành. Dù rằng suốt chín năm cầm quyền (1954-4963),
gia đình họ Ngô luôn kết hợp các chiến dịch chống Cộng kèm chống cả Phật giáo.
Không ít phật tử bị quy kết là thân Cộng và bị truy bức. Đặc biệt là những ngôi
chùa trên núi như núi Tà Cú thường bị quy kết là nơi chứa chấp, nuôi dưỡng “Việt
cộng nằm vùng”.
Bà Khương Thị Hội,
pháp danh Bổn Hiệp (ngụ Tân Tiến, thị xã La Gi, Bình Thuận) năm nay gần 70 tuổi,
cho biết gần nửa thế kỷ trước, bà đã từng tham gia vác đá xây dựng công trình
tượng Phật trên núi Tà Cú. Bà Hội khẳng định gần bốn năm tham gia làm công quả
với hàng ngàn người khác, bà không hề thấy một đại hội Phật giáo nào và cũng
không có ai chết vì tai nạn khi xây dựng công trình.
Theo bà Hội, tất
cả vật liệu xây dựng như xi-măng, sắt, thép đều được gánh vác từ dưới chân núi
lên, không hề có trực thăng vận chuyển như người ta thường đồn đại. Tuy nhiên,
bà Hội cũng thừa nhận là không hiểu cánh cửa sau cổ tượng Phật được chừa lại để
làm gì và được lấp lại lúc nào. Đặc biệt, một điêu khắc gia đi cùng tôi lên núi
Tà Cú, sau khi ngắm khá kỹ khuôn mặt tượng Phật liền nửa thắc mắc nửa như nhận
xét: “Tôi có cảm giác khuôn mặt tượng Phật trên núi Tà Cú có một mối liên hệ
nào đó với các tượng Phật ở các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Phật Cô Đơn ở Bình Thới
(TP.HCM) hay chùa Đại Giác ở Vũng Tàu. Tất cả đều quá đẹp, từ bi mà không ủy mị!”.
“Cánh cửa tử thần”
ra đời thế nào, có thật hay không. Và khuôn mặt tượng Phật ở núi Tà Cú có liên
hệ gì với một số tượng Phật ở nhiều địa phương khác. Người viết bài này bất ngờ
nhận được một e-mail gửi từ Thụy Sĩ.
Người bỏ phố lên
rừng xây tượng
Hàng ngàn tấn
xi-măng, sắt thép, vôi vữa được vận chuyển thủ công lên núi để tạc tượng. Tuy
nhiên, cát xây dựng lại được lấy ngay trên núi.
Người đứng ra
thiết kế, chỉ huy xây dựng và tạc bức tượng Phật là điêu khắc sư Trương Đình Ý
(chứ không phải kiến trúc sư như nhiều tài liệu lầm tưởng). Ông Ý đã rời bỏ vị
trí giảng viên Trường cao đẳng Mỹ thuật Gia Định để toàn tâm toàn ý lên núi thực
hiện công trình này.
Bỏ giảng đường
lên núi
Ông Trương Đình
Ý là một trong 10 sinh viên Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp khoa Điêu khắc Trường
Mỹ thuật Đông Dương 1935. Bàn tay tài hoa của ông được làng điêu khắc trong và
ngoài nước đánh giá rất cao, đặc biệt là chuyên về Phật tượng. Ông từng là giáo
sư hội họa các trường Võ Tánh, Quy Nhơn (1940); Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn (1950);
giảng viên Trường cao đẳng Mỹ thuật Huế (1958); giảng viên Trường cao đẳng Mỹ
thuật Gia Định (1956-1957, 1961-1962).
Đầu năm 1962,
Ban giám hiệu Trường Mỹ thuật Gia Định bất ngờ nhận được lá đơn xin nghỉ không
ăn lương dài hạn của giảng viên Trương Đình Ý để lên núi Tà Cú theo lời mời của
vị sư trụ trì. Trước đó chùa Linh Sơn Trường Thọ đã cử nhiều đoàn đi từ Quảng
Trị đến tận Cà Mau để kêu gọi Phật tử đóng góp thực hiện công trình. Sư trụ trì
Thích Vĩnh Thọ cũng đích thân đi đến nhiều nơi giải thích về lợi ích khi làm được
pho tượng Phật khổng lồ này.
Nhiều người ngạc
nhiên khi thấy vị giảng viên điêu khắc tài hoa xuống tóc, mặc áo lam, bỏ đô thị
lên núi sống nhiều năm để thực hiện công trình. Trong khi đó, vợ ông - bà Công
Tôn Nữ Liên Chi phải một mình nuôi các con ăn học, còn ông làm việc hoàn toàn
không công. Sau này khi điêu khắc sư Trương Đình Ý qua đời, bà Liên Chi đã tự
hào nói với các con: “Ba không để lại gia tài của cải gì cho tụi con như những
người bạn đồng liêu nổi tiếng của ba nhưng để lại một di sản lâu dài cho những
thế hệ sau này. Như vậy mạ cũng hãnh diện lắm”.
Pho tượng khổng
lồ đúng là di sản độc đáo của Phật giáo Việt Nam. Nét đẹp của khuôn mặt tượng
Phật núi Tà Cú đã được một trang web cho rằng sánh ngang hoặc hơn các kiểu Phật
tượng ở Ấn Độ, đông và tây bắc Trung Quốc ở vùng Tôn Hoàn (Dun Huang), Nhật Bản
(Kamakura), Triều Tiên (Sokkuram), Campuchia (Angkor), Indonesia
(Borobudur-Java) với nhiều sắc thái, đặc thù của từng vùng quốc gia.
Trong một tài liệu
chuyên môn, điêu khắc gia Trương Đình Vĩnh Lân (Hoa Kỳ) đã viết về lời dạy của
cha mình: “Tâm của người điêu khắc với tượng là một”. Theo ông Lân, cha ông từng
dạy với điêu khắc Phật tượng làm sao phải rõ 32 tướng hảo và 80 tùy hình phụ để
thể hiện nét tướng với cấu trúc chính xác nhân hình học. Có lẽ chính vì tạo tượng
với thân tâm thanh tịnh cộng với khả năng điêu luyện về Phật tượng nên hơn 50
công trình của ông như ở chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Phật Cô Đơn hay tượng Phật ở
chùa Đại Giác ở Vũng Tàu, chùa Hồng Ân ở Huế... đều hao hao nhau và đạt đến nét
“điêu khắc thuần tịnh” (diệu lực của không tánh) như một điêu khắc gia nhận
xét.
Sức người đọ sức
thiên nhiên
Trong e-mail gửi
về từ Rheinfelden, Thụy Sỹ, ông Trương Đình Vĩnh Quí (một người con trai của
ông Ý) cho biết sở dĩ cha ông khi làm pho tượng còn để lại cánh cửa là do công
trình vẫn còn dang dở. Việc để lại cánh cửa mà sau này dấy lên nhiều đồn thổi
chỉ là ý định của ông Ý và trụ trì chùa đưa vật liệu lấp kín vào trong lòng tượng
để pho tượng bền vững vĩnh cửu. Tuy nhiên do kinh phí không còn, hơn nữa lúc đó
chiến tranh liên miên nên công trình xem như vẫn còn dang dở. Sau này vào khoảng
năm 1998, Ban quản lý núi Tà Cú đã cho lấp lại cánh cửa nói trên.
Để làm được công
trình đồ sộ này, hàng ngàn người đã phải vác từng viên đá, gánh từng bao
xi-măng từ chân núi lên. Thế nhưng không hề vận chuyển dù chỉ một hạt
cát.
Tương truyền để
có cát xây dựng, trước ngày thi công, hòa thượng Thích Vĩnh Thọ, trụ trì chùa
cho trữ nước dùng vào các mái chứa rồi bít kín các mạch nước chảy. Hàng ngày
hòa thượng thắp nhang chú nguyện, sáng ra từ các mạch nổi đã trào ra những đụn
cát nhuyễn dùng được cho công trình mà không cần mang từ chân núi lên... Điều
này cũng đã được lý giải đây là cách lấy cát của người xưa ở những vùng rừng
núi. Theo đó, với độ dốc cao, nước chảy mạnh, chỉ cần hướng lực nước âm xuống
những vùng đất thịt sẽ đãi được cát. Ngoài ra, theo ông Trương Đình Vĩnh Quí
thì hàng ngàn nhân công còn tỷ mẩn kiên trì rửa đất để lấy cát.
Để hoàn thành tượng
Phật trong bốn năm, đã có hàng chục, hàng trăm ngàn người tự nguyện góp công sức,
tiền tài, vật lực. Trong số đó có thể kể đến các ông Thích Bôn Hải, Thích Bổn
Long. Hay như ông Ba Đá, mù một mắt, chẻ từng viên đá nhiều năm liền; ông Tư
Câm bị câm điếc bẩm sinh nhưng theo suốt công trình. Đặc biệt là người thợ hồ
Lê Quang Ký rời bỏ gia đình ở Huế để theo chân điêu khắc gia Trương Đình Ý thực
hiện từ đầu đến cuối công trình...
Nỗi buồn sau
công trình
Ngày 7-1-1993, cụm
chùa và tượng Phật trên núi Tà Cú được nhà nước công nhận là di tích văn hóa-lịch
sử quốc gia. Hai năm sau, tác giả Trương Đình Ý qua đời. Sau đó mấy năm, các
con của ông từ Thụy Sỹ, Mỹ về thăm núi Tà Cú để chiêm ngưỡng tác phẩm của cha
mình. Ông Trương Đình Vĩnh Quí thở dài: “Một tác phẩm khổng lồ để đời nhưng chẳng
thấy một bảng nhỏ nào ghi danh cha tôi và những cộng sự làm nên. Chắc cũng chẳng
ai nghĩ đến chuyện này!”.
Ông Quí cho biết
lần đó ông còn nghe sư trụ trì chùa có ý định sửa đổi khuôn mặt pho tượng Phật
vì cho rằng “cái khuôn mặt của Phật hơi ốm, đôi mắt nhắm híp không mở ra, không
đúng tướng tốt của Phật, vai hơi thấp không được cân bằng...”. Theo ông Quí, nếu
sửa đổi cái diện của đức Phật khổng lồ này là đã vi phạm tác quyền của thân phụ
ông. Hơn nữa sửa đổi tác phẩm gần nửa thế kỷ trước của một điêu khắc sư hơn 50
năm hành nghiệp chuyên về Phật tượng đã được giới chuyên môn trong và ngoài nước
công nhận thì thật là đau lòng.
Đến nay ý định sửa
đổi khuôn mặt tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn trên núi Tà Cú vẫn chưa “khởi động”.
Song có điều rất thật là tượng Phật khổng lồ này đang xuống cấp nghiêm trọng, nứt
ở nhiều nơi. Trên thân tượng là hằng hà sa số những dòng chữ của những người
thiếu hiểu biết viết lên đầy dung tục. Bảng tôn vinh, tán thán công đức của những
người làm nên vẫn không thấy đâu. Trong khi cáp treo của khu du lịch Tà Cú hàng
ngày vẫn bán vé, đưa nhiều lượt người lên núi để chiêm ngưỡng tuyệt tác của Phật
giáo Việt Nam này...
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire