Ngày 30 tháng 4 là xương
máu của cả 10 triêu nhơn dân việt nam đã đổ trong suốt 30 năm dài.
Trong thành quả đó, tưởng cũng đừng quên thành tích đóng góp không
nhỏ của một bộ phận nhơn dân có đời sống uu đải và nhứt là họ
không phải phơi mình trên lửa đạn . Đó là “Thành phần thứ ba”. Có khi
được gọi là “Lực lượng thứ ba”. Hay“Phản chiến” vì họ yêu hòa bình,
kêu gọi hòa bình và chỉ kêu gọi phía Miền nam ngưng chiến để có hòa
bình tuy chiến tranh do Miền Bắc, với sự yểm trợ hùng hậu của cả
khối cộng sản, đem vào Miền nam. Những người thuộc “Thành phần thứ
ba” hay “Lực lượng thứ ba” hay “Phản chiến’
không phải ở Miền Bắc
tới, mà họ là con em của Miền nam, được Miền nam nuôi dưởng, cho ăn
học, cả ra ngoại quốc du học, ...
Sau gần nửa thế kỷ “thắng
cuộc ”, đất nước về một mối xã hội chủ nghĩa, những điều họ tranh
đấu đòi hỏi ngày trước như dân chủ, tự do, xã hội công bằng, người
không bốc lột người, no cơm ấm áo, không có bóng dáng ngoại bang,
...thì ngày nay, những thứ đó đang phơi bày nhan nhản khắp nơi trên
đất nước . Với mức độ trầm trọng hơn cả vạn lần . Nhưng những người
yêu nước ấy giờ đây đang ở đâu ? Không thấy họ tranh đấu cho những
điều mà ngày trước họ đã đòi hỏi quyết liệt?
Thành
phần thứ ba
“Thành phần thứ ba” hay
“Lực lượng thứ ba” ra đời trong hoàn cảnh nào, không rỏ ràng lắm.Theo
ký giả Pomonti của nhựt báo Le Monde, “Thành phần thứ ba” xuất hiên
năm 1960 sau khi Nhóm Caravelle đưa ra bản Tuyên ngôn với 18 nhơn sĩ ký
tên đòi hỏi ông Diệm cải tổ đường lối cai trị, chấm dứt tình trạng
độc tài gia đình trị . Sau đó thì xuất hiện phong trào quần chúng
nổi lên chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài, kỳ thị tôn giáo . Nhưng
theo ký giả Decornoy của Le Monde thì vào cuối năm 1969, có một phong
trào quần chúng xuất hiện ở Sài gòn chống chánh phủ Nguyễn văn
Thiệu, đòi hòa bình, đi theo chủ trương “Hòa giải dân tộc ” của Tướng
Dương văn Minh .
“Thành phần thứ ba” gồm
một số Dân biểu như Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Lý Quí Chung, Dương
văn Ba, Ngô Công Đức ; Sinh viên có Huỳnh Tấn Mẩm, Nguyễn Hũu Thái,
...; trí thức có Bà Ngô Bá Thành, ...; tu sĩ có Ni sư Huỳnh Liên,
...Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, ...
Năm 1971, Sài gòn tổ chức
bầu cử Quốc hội . Nguyễn Hũu Thái được Mặt trận Giải phóng Miền
nam bí mật móc nối đề nghị ra tranh cử với lập trường “hòa bình đứng giữa ” chuẩn bị cho
Thành phần thứ ba khi có Chánh phủ 3 thành phần theo Hiệp định Paris
tuy lúc đó Hội nghị Paris chưa kết thúc .
“Thành phần thứ ba ” trở
thành một danh xưng chánh thức từ lúc Hà nội đưa ra tại hòa đàm
Paris đề nghị thành lập một chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần .
Nhưng nên hiểu thành phần
thứ ba của Hà nội đề cặp không hàm ý có phong trào sinh viên, Dân
biểu, trí thức, tu sĩ tranh đấu sôi nổi ỏ Sài gòn đòi Hòa bình.
Hòa giải hòa hợp dân tộc vùa xuất hiện và hoạt động đó .
Chánh phủ VNCH trước sau
vẫn cương quyết phủ nhận thành phần thứ ba . Năm 1972, Hà nội chánh
thức lên tiếng bênh vực phong trào này .
Chẳng những phủ nhận
“Thành phần thứ ba” hay “Lực lượng thứ ba”, chánh phủ Sài gòn cũng
từ chối có một chánh phủ liên hiệp 3 thành phần như phía việt cộng
đòi hỏi . Tuy nhiên, khi “Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa
bình” ký kết tháng giêng 1973 thì có điều 12 qui định thành lập một
“Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm 3 thành phần
ngang nhau” .
Hà
nội coi trọng thành phần thứ ba như là một yếu tố giúp họ thắng
lợi bằng chánh trị : “Việc thành lập một
chính phủ hòa hợp dân tộc ở miền Nam là chìa khóa dẫn đến hòa bình, và lực
lượng thứ ba là một thành phần không thể thiếu được của giải pháp này...” (Phạm văn Đồng trả
lời nhà báo pháp Jean Lacouture, Etudes vietnamiennes,
Paris).
Để làm áp
lực ở hòa đàm Paris, Hà nội cho thành lập Chánh phủ cách mạng Lâm
thời . Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời đưa ra
đề nghị “8 điểm” có đề cặp thành lập một chánh phủ liên hiệp lâm thời gồm
3 thành phần : những người của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời, những người
yêu chuộng hòa bình, độc lập, trung lập và dân chủ trong chánh quyền Sài Gòn,
và những nhân vật của các lực lượng chính trị và tôn giáo, trong hay ngoài
nước, có lập trường ủng hộ hòa bình, độc lập, trung lập và dân chủ phản ánh các
khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam về hòa bình, độc lập, trung lập, dân
chủ, và hòa giải, hòa hợp dân tộc .
Tiếp theo,
vào cuối 1973, rầm rộ xuất hiện ở Sài gòn những phong trào đều do
Hà nội thổi lên như :
-Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống (Bà Ngô Bá Thành sáng
lập).
-Phong trào Thi hành Hiệp Định Paris .
-Mặt trận Nhân dân Cứu đói (Tổ chức lớn nhất ở miền Nam với sự tham gia của các nhóm Công giáo, Phật giáo,
Hòa Hảo và Cao Đài. Linh mục Phan Khắc Từ là một trong 3 phó chủ tịch.)
-Mặt trận các Tôn giáo vì Hòa bình, Hòa hợp, và Hòa
giải (Dương Văn Minh sáng lập).
-Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Dân tộc (Một tổ chức Phật
giáo do Vũ Văn Mẫu lãnh đạo).
-Tổ chức Nhân dân đòi Thi hành Hiệp định Paris (Ngô Bá Thành sáng lập).
-Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất Bản (Dân
biểu Nguyễn Văn Binh, anh vợ Ngô Công Đức đứng đầu).
-Ủy ban đòi trả tự do cho tù Chính trị của Lực lượng
thứ ba.
-Ủy ban bảo vệ quyền lợi người lao động (Linh mục Phan
Khắc Từ lãnh đạo).
-Nhóm các Nhà Lập Pháp Tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và
Hòa bình.
Nhưng hiện tượng quần
chúng này chỉ
là những
đòi hỏi
giai đoạn của người cộng sản để chờ đợi đạt trọn vẹn mục tiêu cuối
cùng . Đó là ngày 30 tháng 4/1975 .
Giải phóng và thống nhứt dân tộc
Sáng ngày 1 tháng
5/1975, tại Sài gòn có cuộc diển binh lớn do Hà nội tổ chức để ăn
mừng Đại thắng mùa xuân . Bộ trưởng Tư pháp Trương Như Tảng của Chánh
phủ Cách mạng Lâm thời ngồi trên khán đài danh dự coi diển binh, chờ
hoài không thấy Đoàn Quân giải phớng đi qua, bèn nghiên qua hỏi một sĩ
quan Quân đội nhơn dân . Vị sĩ quan này trả lời rất vui vẻ « Ủa
anh không biết sao ? Quân đội ta đã thống nhứt tối hôm qua rồi kia
mà !» (Trương Nhu Tảng kể lại lúc tỵ nạn ở Paris) .
Qua ngày 2
tháng 5/1975, chánh quyền mới ra lệnh giải tán tất cả các tổ chức chánh trị,
xã hội, văn hóa, tôn giáo, … được thành lập dưới chế độ cũ. Còn các tổ chức mới thành lập để chống
Mỹ Ngụy cúu nước đều bị hoặc tự giải tán, hoặc sáp nhập vào các
tổ chức chánh thức của Hà nội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ Gỉải
phóng, cả Chánh phủ cách mạng Lâm thời, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền nam, các cơ sở vật chất ở hải ngoại, …đều không còn vết
tích !
Điều đáng
ngạc nhiên là việc giải tán không có một lời phản đối hay than phiền nào của
những người trong các tổ chức đó hết cả, mặc dầu họ đã từng cang trường đương
đầu với chế độ cũ, không hề sợ sệt dùi cui, hơi cay, tù đày .
Với một nảo trạng như vậy thì ngày
nay, trước đất nước bị đảng cộng sản ác ôn cai trị, đảng viên tùy
theo địa vị, chia nhau cướp đất bán, cướp của dân làm giàu, khủng bố
những người lương thiện yêu nước, đem sáp nhập đất nước vào với nước
Tàu để giử đảng, giử quyền, những người đó đều im lặng là
phải ! Hay họ đã chết hết rồi tuy có người chưa kịp chôn ?
Không
thể có “Hòa giải và Hòa hợp” với cộng sản
Khi nói “Hòa giải và Hòa hợp”
với cộng sản không có gì khác hơn là nói “ Hòa giải và Hòa hợp” với Thiện và
Ác . Hoặc nói “tư tưởng Dân chủ Tự do Nhơn quyền” có thê hòa giải và hòa hợp
với “Chủ nghĩa lý luận không có con người và chủ nghĩa vô nhơn bản” (Trần đức Thảo
nói chuyện ở Paris trước khi chết) được không ?
Mà cộng sản ở việt nam
không ai khác hơn là Hồ Chí Minh, người từng tuyên bố luôn tin tưởng tuyệt
đối ở bác Xít và bác Mao là hai người không thể sai lầm nên đã học tập nhuần
nhuyễn tư tưởng của Mao . Xin trích vài nét nổi bậc trong tư tưởng chánh trị
của Mao :
“ Làm chánh trị như làm chiến
tranh . Không thể có xây dựng nếu không có phá bỏ, hủy diệt .
Tần Thỷ Hoàng không có gì ghê
gớm cho lắm vì hắn chỉ chôn sống có 460 nho sĩ . Chúng ta sẽ chôn sống ít lắm
cũng phải 46 000 trí thức tiểu tư sản .
Phải thực hiện vườn không, nhà trống triệt để về vật
chất và tinh thần . Mỗi người phải như một tờ giấy trắng, không được quyền sở
hữu tài sản, nhà đất, và không được có kiến thức, tri thức.Tất cả phải
thành“không”, sạch bách ! Những người dân như vậy mới thông minh” (M.H.Bernard, Mao
Tsé-toung , 1893-1976 , VOIX , Paris 2003) .
Mao chủ trương chánh trị độc tài
tuyệt đối như vậy để duy trì chế độ lâu dài . Bởi Lê-nin dạy rỏ “Một chế độ sẵn sàng thực thi khủng bố vô giới hạn
thì không thể nào bị lật đổ (Simon
LEYS , Essais sur la Chine , Robert Laffont , Paris 1998, trg 4.)
Phải
có Dân chủ mới hòa giải và hòa hợp được
Cho tới nay, Hà nội chỉ kêu
gọi mọi người về dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản . Nên họ nói rỏ là “Hoà
hợp, Hòa giải dân tộc”. Họ chưa bao giờ nói “Hòa giải, Hòa hợp dân
tộc”.
Về lịch sử, văn hóa, những
kiến trúc cổ ở Sài gòn bị phá để bán địa điểm cho doanh nhơn ngoại quốc xây cơ
sở mới . Hà nội không cần thấy người dân Sài gòn thương tiếc đó là một phần ký ức đời sống của họ bị Hà
nội thêm một lần nữa cướp mất . Họ không thể thấy đó là chương trình phát triển
đô thị . Không chỉ riêng với Miền nam, mà với cả Miền Bắc, người cộng sản cũng
chủ trương che dấu hoặc thay đổi sự thật lịch sử . Những trận đánh Gạc
Ma, chiến tranh biên giới hoàn toàn không có trong sách giáo khoa ngày nay. Thậm
chí những đồng đội của nạn nhơn làm lễ tưởng niệm những chiến sĩ
hi sinh vì lòng yêu nước, bảo vệ tổ quốc, cũng bị công an đàn áp,
bắt bớ . Chỉ để làm hài lòng quân tàu cướp nước .Nên những người trẻ
ngày nay chỉ còn tìm kiếm qua thông tin trên mạng về những sự kiện đó, để
họ cùng nhau trân trọng những gì vốn dĩ thuộc về sự thật và lịch sử dân tộc .
Không thừa nhận lịch sử thì
làm sao hòa giải và hòa hợp dân tộc được ?
Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, trả
lời đài BBC, cho rằng một trong những yếu tố quan trọng để dẫn đến hoà giải
hoà hợp dân tộc, đó là thừa nhận lịch sử, như thẳng thắng thừa nhận vai
trò của Việt Nam Cộng Hoà : “Theo tôi bất cứ một giai đoạn lịch
sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, nó sẽ dễ
dàng hoà hợp .Các nhà nghiên cứu, làm sử đặt ra vấn đề là phải thừa nhận Việt
Nam Cộng hoà là một thực thể. Trong giai đoạn đó có một thực thể, trong đó có
vấn đề đối nội đối ngoại, có những điểm tốt, không tốt, lịch sử phải khách
quan. Ví dụ như trong vấn đề Hoàng Sa, phải chấp nhận là Việt Nam Cộng hoà đã
có trách nhiệm, và Hoa Kỳ cũng đã có phản ứng. Mà khi có phản ứng tức là Trung Quốc
đã xâm lược. Đó là một điều phải khẳng định” .
Nên thấy bất cứ một giai đoạn
lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, thì
mới có thể hoài giải và hoà hợp được .
Một
hiện tượng việt kiều yêu nước ở Paris
Ông Nguyễn Ngọc Giao học
Chu văn An, đậu tú Tài hạng Uu, và gia đình có quan hệ quan trọng với
chánh phủ VNCH, được học bổng du học ở Pháp, ở lại Pháp luôn, dạy
toán ở Đại học Paris 7 và theo Việt kiều yêu nước . Với Thông hành VNCH
có hiệu lực dài hạn, ông hoạt động chết bỏ phục vụ Hà nội vì ông nhận
thấy “thực chất các chế độ VNCH” và “tính chất chiến tranh giành
độc lập,thống nhứt” của cuộc chiến từ 1946-1975 là những “sự thật
khách quan, phủ nhận nó không phải thuộc về lý trí, mà nằm trong
lãnh vực tâm lý, tâm thần” . Phải chăng ý của ông muốn nới chỉ có
những người điên hay ba trợn mới nhìn nhận những điều đó ?
Một trí thức lớn như Ông Nguyễn
Ngọc Giao, suốt 50 năm dài giữ tình yêu và cả tinh thần ngoan ngoản
với đảng như giữ chính con ngươi của mình, thế mà khi nhà có tang,
ông xin về Việt nam dự tang lễ lại bị từ chối . Ông đưa ra cả thư của Võ văn Kiệt trước đó mời ông
về Việt nam, cũng bị từ chối . Lý do ? Phải chăng chỉ vì tháng 1 năm
1990, ông ký chung với 34 nhà trí thức việt kiều khác bức Tâm Thư đưa
ra 3 điều thỉnh nguyện :
-Thực sự tách rời
các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy đảng để cho Nhà nước thu
hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của mình,
và để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng
trên và chi phối Nhà nước .
-thiết lập một
nnền dân chủ đa nguyên, thật sự nảo đảm an toàn cá nhơn và các quyền
tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng ...
-ngay trước mắt, mở
ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn xã hội, để toàn dân bàn định
một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền
tảng cho một chế độ thật sự lấy dân làm gốc .
Hay vì quan hệ gia đình của ông với Chánh
phủ Đệ I VNCH ?
Nhưng nay, ông nhận định
tiếp cuộc chiến mà Hà nội nói là “giải phóng, giành độc lập,
thống nhứt dân tộc” còn có 1 chiều kích khác nữa, “chiều kích nội chiến”, không muốn
nói thêm 1 chiều kích thứ ba là “chiều kích chiến tranh ủy nhiệm”
trong bối cảnh chiến tranh lạnh 1947-1991 .
Nói về tính chất nội
chiến của cuộc chiến, ông khẳng định nó “phát sanh từ chánh sách mao-ít
của đảng cộng sản việt nam từ 1950, đặc biệt từ cuộc Cải cách
ruộng đất 1953-1956, loại trừ các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản,
trí thức, ...ra khỏi hàng ngũ nhơn dân” .
Theo ông, ngày nào, những
người thiện chí ở mọi bên không nhìn thây rỏ và trọn vẹn cuộc chiến
thì đối thoại, hòa hợp, hòa giải đều trở thành ảo vọng .
Ngày nay, sau “50 năm mắc
dịch”- 50 năm làm thông dịch cho Hà nội - một thành tích ông kể lại
với nhiều vuốt ve, nâng niu, lần đầu tiên ông nhìn thẳng chế độ hà
nội là “kỳ thị, độc tài, tham nhủng, bất lực” . Nhưng vẫn chưa thấy
ở ông có một sáng suốt hơn cái thông minh xuất sắc về toán học của
ông để khả dĩ đề xuất một thái độ tích cực hơn là chỉ tỏ ra tiếc
cho những người lãnh đạo cộng sản quên hết lịch sử của chính mình !
(50 năm
mắc dịch, Diển Đàn, Paris, 21-03-2018)
Nguyễn
thị Cỏ May
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire