Thuở sinh thời, nhà văn Mai
Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng Giêng năm 1998, là ngày ông từ
trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí.…Có
một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
"Thế giới có triệu điều
không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Bài thơ
nhan đề "Không hiểu"
mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống.
Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi
đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc
đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ "chẳng sao" trong câu thơ, ý
lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên
của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận.
Cuộc hành
trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần
như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được
cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người
có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…
Có một
người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ
tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu
thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu.
Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu Văn Học
Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại,
hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu
vong của thập niên 80...
Có một
người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm
thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn
nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng
lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác
người, cả về văn chương lẫn nếp sống …
Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.
Bức thư của nhà văn Nguyễn
Đình Toàn khi còn kẹt lại trong nước gửi tay cho ca sĩ Duy Trác
mang sang Hoa Kỳ cho tác giả "Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời" mà Nguyễn-Xuân Hoàng trong Sổ Tay của tạp chí Văn
đã trích dẫn cho
thấy một nét đặc thù của một chân dung văn học hàng đầu:
"..Tao có đọc mấy bài thơ
"quỷ
quái" của mày. Tất nhiên làm gì có đủ mà đọc hết. Vứt mẹ nó hết những cái gọi là
ý nghĩa sự đời đi. Cái đặt được tay vào chỗ không thể đặt là đủ sướng rồi. Nhất
là hôm gặp lại "nghe bả khen thơ mày", càng thích. Nhưng bày đặt làm
thơ làm gì cho khổ cái thân già…
..Ông Lý vừa tới chơi. Nghe tao
định viết thư cho mày, ổng gửi lời thăm. Vẫn chưa chừa bệnh văn chương. Ông bảo
viết về Mai Thảo thật khó. Tao có bảo với ổng, coi như mỗi thằng viết văn có
một mảnh đất, chữ nghĩa của nó là cỏ. Hễ nó lấp đầy được mảnh đất thành một bãi
cỏ xanh là đủ, mặc mẹ những chỗ lồi lõm. Cái hay của Mai Thảo là nó viết một
chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo. Thế là quá đủ rồi…"
(Ông Lý là nhà văn Lý Hoàng Phong)
Quả thực,
cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ
nghĩa văn xuôi của tác giả những "Đêm giã từ Hà Nội", "Căn nhà
vùng nước mặn", "Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời"… là ngôn từ
đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng
mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn
tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh
thổ, những nỗi niềm.
Nhà Thơ Vữ Hoàng Chương và Nhà Văn Mai Thảo.
Nguyễn
Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản
ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi
tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng
chữ nghĩa nâng niu văn chương.
Còn với
Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn,
có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu
bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn
chương.
Cái chủ
đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều
khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những
dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là "một
chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo".
Trong
những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập "Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời".
Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz "Artists in Exile", ông đã nói đại ý là nhân vật của ông
đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái
đạt được cũng tầm thường như vậy.
Cho nên
để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có
thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân
vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: "leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của
ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt
đối và cũng là hạnh phúc.
Nhưng khi đã đặt chân lên đến
đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý
tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được "tâm lý hoài nghi có lẽ là
của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn
đỉnh trời" chăng?
Những tập
truyện ngắn khác như "Tháng Giêng Cỏ
Non", Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật,
Căn Nhà Vùng Nước Mặn",… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên
phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện
dài "Khi Mùa Mưa Tới", "Cũng Đủ Lãng Quên Đời",
"Mười Đêm Ngà Ngọc", "Mái Tóc Dĩ vãng", "Tới Một Tuổi
Nào".…
Những
truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn
tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn
phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc
"Người thầy học cũ", "Chuyến
tàu trên sông Hồng", "Người đàn bà trong vòng đai trắng",
thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt
Nam ẩn sâu trong văn mạch.
Đọc "Đêm giã từ Hà Nội", để thấy
một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc
sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư.
Bây giờ,
khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến
nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng
chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này
anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội,
mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như
đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……"
Vực thẳm
ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm
ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm
cũ……
Nhà xuất
bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm
tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ "Ta thấy hình ta
những miếu đền". Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài
và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với
một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:
"Cõi không
là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ.
Một xóa bỏ tận cùng. Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa
hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).
Ta thấy
hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc
nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu
đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh,
những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều
về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn
say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua
những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn "huyền đồng", chan hòa cái lẽ
"Một", để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái
thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác…."
" Ta thấy hình ta những bảng
đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại
dương…"
Có thể
nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta
tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương
bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu
như Trang Tử đã luận.
Và:
"…
Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công
viên
Sao không, khói với hương sùng
kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác
ơi!.."
Những
chính đề và phản đề cứ nối tiếp nhau. Chữ "sao không", dùng như một ý
phủ định, lột tả được một tâm trạng. Miếu đền, tượng thờ đường bệ hay huyệt đất
bình thường cũng chỉ là một, với hàm ý lãng quên. Cũng như ngôi Bắc Đẩu của
trời tinh tú, hay vệt lân tinh nhỏ nhoi cũng là một. Hay ý Chúa, tâm Phật với
tâm thức con người cũng chỉ là một mà thôi.
Sao
không.. Sao không... Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn
cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có
phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết
mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?
Có người
cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của
Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết
"feuilleton" đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc
có thể trùng lặp từ ý tới lời.
Đề tài
tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một
môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai
Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành
một nét quyến rũ người đọc.
Nhưng
trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc
nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết "Tùy
Bút" cho báo "Khởi Hành" trong nước hay "Sổ Tay" cho
tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ.
Với ông,
đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như
thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một
văn sĩ. Tôi nghĩ thế. (Nguyễn Mạnh Trinh)
* * *
Mai Thảo
sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán
của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là
phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Thuở nhỏ,
Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội
tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).
Năm 1945,
ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm
1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó,
ông rời nhà vào Thanh Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn
văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời
kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông.
Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng
chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông
viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người
Việt... Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17
tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa.
Năm 1956,
ông chủ trương báo Sáng Tạo, gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo
Nghệ thuật, và từ 1974, ông trông nom tạp chí Văn. Ngoài ra, ông còn tham gia
chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.
Ngày 4
tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới
Pulau Besar, Mã Lai. Đầu năm 1978, ông được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít
lâu sau, ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải
ngoại. Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí Văn, làm Chủ Biên đến 1996, vì
tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California (Hoa Kỳ) ngày 10 tháng 1 năm 1998./ - (Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Nhật Minh Hiếu).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire