Công chúng giờ đây chắc ít ai nghe nói đến cuốn từ
điển Pháp–Việt cuối thế kỷ 19 của Trương Vĩnh Ký. Thế nhưng theo một số người
am hiểu, cuốn sách kế thừa các tri thức từ điển học Pháp này rất có thể là dấu
ấn quan trọng trên chặng đường đầu hình thành tiếng Việt hiện đại, cho thấy
Trương Vĩnh Ký không chỉ là người nỗ lực ‘‘phổ biến’’ chữ Quốc ngữ (*) như các
ca ngợi lâu nay, mà còn tạo lập nhiều nền tảng cho ngôn ngữ quốc gia tương lai
của người Việt.
Trang bìa cuốn Tiểu từ điển
Pháp - Việt của Trương Vĩnh Ký, ghi năm xuất bản 1884. © RFI / Trọng Thành.
Tiểu từ điển Pháp – Việt (Petit dictionnaire Français
– Annamite) của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký dày 1.192 trang, khổ 11x19
cm, ấn hành tại Nhà in Thừa Sai nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, là cuốn từ điển song
ngữ đầu tiên đối dịch một ngôn ngữ phương Tây và tiếng Việt do chính người Việt
biên soạn, và cũng là cuốn từ điển Pháp - Việt đầu tiên. Từ điển bao gồm các từ
tiếng Pháp với phần ghi chú từ loại bằng tiếng Pháp, được sắp xếp theo thứ tự
a, b, c và phần chuyển dịch ra tiếng Việt với các nghĩa chính, từ đồng nghĩa,
và với một số ít trường hợp đi kèm với ví dụ, cụm từ thường dùng, hoặc diễn
giải kèm theo.
Từ điển song ngữ giúp người Việt
phát triển tiếng mẹ đẻ
Thông thường từ điển song ngữ có chức năng chính là để
giúp học ngoại ngữ. Song một số từ điển song ngữ có thể đóng vai trò bà đỡ cho
sự hình thành ngôn ngữ quốc gia. Trong giai đoạn ban đầu này, từ điển song ngữ
Pháp – Việt không chỉ giúp người Việt học ngoại ngữ (tiếng Pháp), người Pháp
học tiếng Việt, mà trước hết là công cụ để giúp phát triển, củng cố chính tiếng
mẹ đẻ của người Việt. Học giả Đào Duy Anh trong lời ‘‘Tựa’’ bộ Pháp –
Việt tự điển của ông, năm 1936, đã coi việc phát triển từ vựng tiếng Việt là
mục tiêu số một (1), điều không dễ hiểu với người Việt sau này.
Petrus Trương Vĩnh Ký 46
tuổi: Ảnh chụp tháng 6/1883, một năm trước khi ra mắt cuốn từ điển Pháp - Việt
đầu tiên. © Wikimedia / Gallica Bibliothèque nationale de France;
Nước Pháp đang tiến tới kỷ niệm 500 năm sắc lệnh
Villers-Cotterêts (1539), do vua François đệ nhất ban
hành, nhằm tăng cường sử dụng tiếng Pháp trong hệ thống nhà nước, sắc lệnh
thường được coi như một cột mốc lớn khẳng định vị thế ngôn ngữ quốc gia của
tiếng Pháp thay thế cho chữ Latinh. Cùng vào thời điểm lịch sử này, có một sự
kiện quan trọng nhưng ít được để ý hơn rất nhiều, đó là sự xuất hiện hai cuốn
từ điển song ngữ, Latinh – Pháp (in năm 1538) và Pháp – Latinh (1539) của
Robert Estienne. Hai cuốn từ điển song ngữ này được nhiều chuyên gia Pháp đánh
giá đã tạo lập nền móng cho sự ra đời của các từ điển tiếng Pháp đơn ngữ đầu
tiên sau đó, đặc biệt với bộ đại từ điển của Viện Hàn lâm Pháp (xuất bản lần
đầu năm 1694).
Quốc ngữ: Sự tiếp nối cuộc cách
mạng ‘‘chuẩn hoá ngôn ngữ’’ từ châu Âu
Về lịch sử hình thành và phát triển của các ngôn ngữ
trên thế giới, trong hơn 30 năm gần đây, trong giới ngôn ngữ học Pháp đã phát
triển một tiếp cận mới, với sự thúc đẩy của nhà ngôn ngữ học Sylvain Auroux với
tác phẩm tiêu biểu ‘‘La révolution technologique de la grammatisation’’
(tạm dịch là: ‘‘Cuộc cách mạng công nghệ chuẩn hoá việc dạy tiếng/học tiếng’’),
phương pháp tiếp cận gần như không được biết đến tại Việt Nam. Đối với Sylvain
Auroux, trong lịch sử các ngôn ngữ thế giới có ba biến đổi to lớn, mà ông gọi
là ‘‘ba cuộc cách mạng về công nghệ’’.
Cuộc cách mạng thứ nhất đi liền với sự ra đời của chữ
viết. Cuộc cách mạng thứ ba diễn ra trong những thập niên gần đây, đi liền với
các công nghệ ‘‘tự động hoá’’ việc xử lý thông tin ngôn ngữ. Trong khi
đó cuộc cách mạng thứ hai (‘‘grammatisation’’) liên quan đến các
phương tiện dạy tiếng/học tiếng, bao gồm trước hết là sự hình thành “các
sách công cụ”, đặc biệt là sách ngữ pháp và từ điển, cùng sách dạy tiếng,
cho phép định hình và thống nhất một ngôn ngữ, cũng có thể gọi là ‘‘cuộc
cách mạng chuẩn hoá ngôn ngữ’’.
Nhiều ngôn ngữ, vốn được sử dụng rất phổ biến trong
cộng đồng (langue vulgaire – ngôn ngữ thông tục) và ngay cả khi
đã có chữ viết, nhưng vì không đi kèm với các chuẩn tắc được xác lập rõ ràng,
nên không thể trở thành ngôn ngữ chính thức (langue officielle). Với
cuộc ‘‘cách mạng chuẩn hoá’’, các ngôn ngữ thông tục vốn được sử dụng
một cách tự nhiên trong cộng đồng, trở thành “một đối tượng tìm hiểu”
và học hỏi một cách bài bản.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, nở rộ tại châu Âu thời
Phục hưng, và từ đó lan rộng khắp thế giới, các từ điển song ngữ thường là bước
đệm không thể thiếu, cho phép ra đời các từ điển đơn ngữ (2), một cái mốc căn
bản khẳng định vị thế một ngôn ngữ quốc gia. Để nhận biết được những giá trị cơ
bản của các từ điển song ngữ Pháp - Việt (3) và đại từ điển Việt – Pháp (hiện
chưa được tìm thấy) của Trương Vĩnh Ký (4), cần gắn các từ điển này với truyền
thống lớn nói trên, của châu Âu nói chung và nước Pháp nói riêng (5).
Cuốn từ điển nổi tiếng bị quên
lãng
Trước năm 1945, cuốn tiểu từ điển Pháp – Việt của
Trương Vĩnh Ký đã được tái bản nhiều lần. Tuy nhiên, cuốn sách từng khá nổi
tiếng trước 1945 nhìn chung đã không được giới ngôn ngữ học hiện nay tại Việt
Nam chú ý là ghi nhận của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng (từ Sài Gòn) với RFI: ‘‘Cho
đến nay, tôi chưa thấy một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học nào chú trọng
cuốn này cả. May lắm thì người ta nhắc tới trong những công trình của Trương
Vĩnh Ký có cuốn sách này. Nhưng lấy đấy làm đối tượng phân tích thì không thấy
có’’.
Về lý do cuốn từ điển không được chú ý, trả lời RFI
qua thư điện tử, nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu (từ Hà Nội) giải thích: ‘‘Việc
ít người chú ý đến cuốn từ điển này là vì những lý do khác chứ không phải
nguyên do nội tại của cuốn từ điển này. Thời ông Trương Vĩnh Ký làm ra cuốn
này, chắc số người học tiếng Pháp chưa được nhiều. Còn việc sử dụng cuốn
từ điển này để tìm hiểu về lịch sử từ vựng tiếng Việt thì bước sang nửa đầu thế
kỷ 20 chưa ai quan tâm. Đến nửa sau thế kỷ 20, mới bắt đầu có những nghiên
cứu chú ý miêu tả một số nét/một số mặt của lịch sử từ vựng tiếng
Việt trong một số sách giảng dạy và nghiên cứu về Việt ngữ nhưng chưa có
những chuyên luận sâu về lịch sử phát triển từ vựng tiếng Việt. Đến năm 2003
mới có một chuyên khảo về Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kỳ 1858-1945 (tác giả
Lê Quang Thiêm). Năm 2011, có một chuyên khảo riêng về lịch sử từ vựng tiếng
Việt (tác giả Vũ Đức Nghiệu)’’.
Việt Nam hết lệ thuộc vào Thiên
Triều, nhưng Quốc ngữ chưa thoát vị thế ‘‘chiếu dưới’’
Cuốn Từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký ra mắt vào
một thời điểm đặc biệt. Năm 1884 – 1885 là thời điểm nổ ra chiến tranh Pháp –
Thanh tại miền Bắc Việt Nam. Chiến tranh kết thúc với Hiệp ước Thiên Tân
(Traité de Tien-Tsin) tháng 6/1885. Vương triều nhà Thanh thừa nhận quyền bảo
hộ của Pháp với Việt Nam, từ bỏ quy chế ‘‘triều cống’’ của Việt Nam
với tư cách phiên quốc, được duy trì từ cả ngàn năm. Cuốn từ điển, với hai
trang bìa ghi hai năm xuất bản khác nhau 1884 và 1885, dường như đã in dấu ấn
của bước ngoặt lớn này.
Trang bìa thứ hai của cuốn
từ điển Pháp - Việt của Trương Vĩnh Ký, ghi năm 1885. © RFI / Trọng Thành.
Trên trang bìa từ điển đầu tiên, ghi năm 1884, trên
cùng là tên chữ Hán (富浪音話撮要字彙合解安南 / Phú lãng âm thoại toát yếu tự vị hợp giải
An Nam / Tự vị tiếng Pháp giải nghĩa cô đúc sang tiếng Việt), bên dưới là hàng
tít bằng chữ Pháp ‘‘Petit dictionnaire français-annamite’’ (hay ‘‘Tiểu
từ điển Pháp – Việt’’). Tên của tác giả Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký cũng đồng
thời in bằng chữ Hán. Trên trang bìa thứ hai, ghi năm 1885, tất cả các chữ Hán
biến mất. Việc chữ Hán đã hoàn toàn biến mất trong trang bìa năm 1885 phải
chăng phản ánh biến đổi địa-chính trị lớn nêu trên?
Ảnh hưởng Hán trong ‘‘Khai Trí Tiến Đức’’ và từ điển Đào Duy Anh nặng hơn
Trương Vĩnh Ký nhiều
Nước Việt Nam thuộc Pháp đã cắt đứt với truyền thống
Thiên triều – phiên thuộc kiểu Trung Hoa, nhưng việc khẳng định chữ Quốc ngữ
độc lập với chữ Hán, và dần thay thế chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức,
vẫn là một con đường đầy chông gai (6) trong một thời kỳ mà đông đảo người Việt
vẫn coi chữ Nho là “chữ ta” (7). Nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng nhấn
mạnh hành xử khác thường của Trương Vĩnh Ký, đi trước nhiều nhà biên soạn từ
điển tiếng Việt nổi tiếng:
‘‘Ảnh hưởng của chữ Hán thời kỳ Trương Vĩnh Ký còn
rất nặng nề trong cách viết văn. Ảnh hưởng đó với Trương Vĩnh Ký trong cuốn từ
điển này nhạt hơn nhiều so với từ điển của Khai Trí Tiến Đức (1931). (Việt Nam
Tự Điển của) Khai Trí Tiến Đức đầy chữ Hán, với những từ ngữ như ‘‘Cử-quốc giai
binh’’, có nghĩa là ‘‘cả nước đều là lính’’. ‘‘Cử tọa’’ thì đồng ý là trong
tiếng Việt có, nhưng ‘‘Cử-quốc giai binh’’, hay ‘‘Cử-thế giai trí’’, có nghĩa
là ‘‘suốt cả người trong đời đều biết’’ (hay tất cả mọi người trên đời đều
biết), thì đó là người Tàu nói chứ người Việt có nói thế đâu. Dễ dàng thấy là
điều này không thể có trong từ điển của Trương Vĩnh Ký. Phải nói rằng những
người làm từ điển Khai Trí Tiến Đức không ý thức phân biệt rõ giữa từ Hán –
Việt, tức từ tiếng Hán đã ‘‘nhập tịch’’ vào tiếng Việt với chữ Hán chỉ ở bên
Trung Quốc thôi, không nhập vào tiếng Việt.
Cuốn từ điển Pháp – Việt của Đào Duy Anh ra đời mấy
chục năm sau cuốn của Trương Vĩnh Ký, thế mà Trương Vĩnh Ký lại Việt hơn Đào
Duy Anh. Sự khác biệt đó tôi cho là rất lớn, bởi mấy chục năm cách biệt như vậy
là dài lắm, chứ không phải như mấy chục năm sau này. Cái ngôn ngữ thời Trương
Vĩnh Ký khác với thời Đào Duy Anh lắm, thế mà Trương Vĩnh Ký lại chủ trương
tiến bộ hơn Đào Duy Anh. Như thế có lạ không ?’’.
Quốc ngữ không ‘‘nấu chung một lò’’ với Hán văn: Khuyến khích người
Việt tự tạo từ mới
Gần nửa thế kỷ sau từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh
Ký, nhà nho, nhà cách mạng Phan Bội Châu, trong lời Đề từ cho cuốn Hán – Việt
tự điển của Đào Duy Anh (1932), khẳng định ‘‘Quốc-văn ta với Hán-văn, tất
phải nấu chung một lò, dệt thêu chung một khổ’’. Trước đó, Phạm Quỳnh
trong bài ‘‘Bàn về sự dùng chữ Nho trong văn Quốc ngữ’’ khẳng định :
‘‘Quốc-văn là do hán-văn mà ra, không thể bỏ chữ hán mà không dùng được,
cũng không thể dời khuôn phép của hán-văn mà thành-lập’’ được Quốc-văn
(Nam Phong Tạp chí năm 1918). Cuốn từ điển Pháp – Việt của Trương Vĩnh Ký ngược
lại cho thấy rõ chủ trương Quốc ngữ tiếng Việt hiện đại không ‘‘nấu chung
một lò’’ với Hán văn (8).
Tiếng Việt cuối thế kỷ 19 còn rất thiếu từ. Đương thời
với Trương Vĩnh Ký đã có nhiều bộ tự điển song ngữ tiếng phương Tây và tiếng
Hoa/chữ Hán quy mô lớn mà nhà bác học người Việt khó lòng không biết đến. Nếu
ông có ý định sao chép ồ ạt các từ ngữ đương thời của người Trung Quốc chắc
chắn không thiếu cơ hội. Trương Vĩnh Ký giữ khoảng cách lớn với chữ Hán để làm
gì ?
Trả lời RFI, nhà ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu nhấn mạnh
đến việc Trương Vĩnh Ký, trong cuốn từ điển này, đã khuyến khích người Việt tự
tìm, tự tạo các từ ngữ mà trong tiếng Việt chưa có: ‘‘Khi đưa từ ngữ
Việt để đối chiếu, nếu tiếng ta chưa có từ ngữ tương ứng, tác giả sẵn sàng
“diễn giải nghĩa” của từ Pháp, giống như việc “giải nghĩa” của từ điển tường
giải của một ngôn ngữ. Cái này, một mặt do “bí” về từ ngữ để mà dịch,
nhưng mặt khác, lại có thể là một lối mở để người đọc có thể sẽ tự tìm lấy các
từ ngữ tương ứng ở tiếng Việt để dịch, sử dụng.
Tác giả có ý ưu tiên dùng tiếng ta (tiếng
Nôm), dùng khẩu ngữ thông thường để ‘‘đối dịch’’. Khi chưa có từ ngữ để
đối dịch thì ‘‘diễn giải’’. Như chúng ta biết, không thể nói Trương Vĩnh Ký là
người không thạo chữ Nho và tiếng Hán - Việt. Ông không thể
không biết ‘‘tam giác’’, “đa giác” ‘‘viện bảo tàng’’/‘‘bảo tàng viện’’ “đa
diện”, “đa phu”, “đa thê”… nhưng lại dùng: cái ba góc, hình ba góc rồi mở ngoặc
chú là tam giác), dùng hình có nhiều góc, viện trữ đồ tích, có nhiều vợ, có
nhiều chồng. Tuy tác giả vẫn dùng từ ngữ Hán-Việt không hạn chế, vì những lý do
khác nhau (bởi ngắn gọn hơn, rõ nghĩa hơn vì đã quen, hoặc tránh thô tục… chẳng
hạn), nhưng rất rõ là có chủ ý tự tạo, tự diễn giải. Nhưng ngược lại, vì chủ ý
tự tạo, tự diễn giải đó mà khi tiếng ta lúc đó “chưa đủ chữ” thì cách diễn giải
bị dài dòng hoặc quá nôm na. Đấy là ‘‘giảng nghĩa’’ chưa phải là “giải nghĩa”
của từ điển học, và chắc chắn không phải là phương pháp ‘‘đối chiếu’’ của một
từ điển song ngữ’’.
Việc Trương Vĩnh Ký lựa chọn biện pháp rõ ràng không
thể gọi là tối ưu nói trên đặt ra nhiều câu hỏi. Nhưng phải chăng đây là cái
giá không thể tránh khỏi để tiếng Việt khẳng định trước hết vị thế độc lập? Nhà
ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu nhận định: “Bây giờ nhìn lại, có thể có người
thấy hơi buồn cười, vì thấy điều này có vẻ sơ giản, thậm chí nôm na quá, ví dụ
bây giờ ta nói trường bách khoa, ông dùng trường dạy nhiều phép nhiều nghề;
nhưng từ bấy đến nay, đã hơn trăm năm, phải công bằng mà nói đó là một sự cố
gắng rất lớn ở những bước ban đầu mà tiếng Việt có chữ Quốc ngữ đi cùng, cộng
với sự xuất hiện của tiếng Pháp ở Việt Nam”.
Tiếng Việt là ‘‘chủ’’, Hán tự là ‘‘khách’’: Cái nhìn đi trước thời đại
Trương Vĩnh Ký đã chọn con đường đoạn tuyệt với quan
niệm ‘‘Dĩ Hoa vi trung’’, và nỗ lực sử dụng các thành tựu ngôn ngữ học
châu Âu để phát triển tiếng Việt, để một thứ tiếng nói vốn chỉ là khẩu ngữ,
thường dùng để làm thơ, có thể trở thành ngôn ngữ chính thức của xã hội. Nhưng
cắt đứt tâm thức sùng bái con chữ vuông không phải là đoạn tuyệt với Hán ngữ,
với di sản văn tự Hán – Nôm. Nhà bác học Công giáo Trương Vĩnh Ký, người đầu
tiên phiên âm Truyện Kiều chữ Nôm sang Quốc ngữ Latinh, người phiên dịch nhiều
tác phẩm kinh điển của Nho giáo sang văn tự Quốc ngữ Latinh, cũng như biên soạn
nhiều sách dạy chữ Hán, tiếng Hoa, ắt hẳn hiểu rõ điều này. Ứng xử với nhóm từ
‘‘chữ Nho’’ là điều được Trương Vĩnh Ký chú ý, theo ghi nhận của nhà
ngôn ngữ học Hoàng Dũng (9). Trong cuốn từ điển này, các từ được đánh dấu là ‘‘chữ
Nho’’ được đặt trong thế tương quan : hoặc có từ ‘‘thuần Việt’’
tương đương đi kèm, hoặc không có (có khoảng 200 từ và cụm từ được Trương
Vĩnh Ký đánh dấu chữ Nho trong gần 500 trang đầu của cuốn từ điển, trong đó có
khoảng 20 từ tiếng Pháp chỉ có chữ Nho đối dịch, mà không có từ Việt tương
đương).
Lời nói đầu cuốn từ điển
Pháp - Việt của Trương Vĩnh Ký. © RFI / Trọng Thành.
Với ‘‘Enfant adoptif’’ có từ dịch thuần Việt
là ‘‘Con nuôi’’, bên cạnh đó là chữ Nho ‘‘Dưỡng tử’’. Với ‘‘Directeur
des ponts et des chaussés’’, có từ dịch thuần Việt là ‘‘Quan quản đốc
việc cầu đường’’ bên cạnh từ chữ Nho là ‘‘Kiều lộ quản lý’’… Từ
‘‘Chimie’’ không có từ thuần Việt, Trương Vĩnh Ký chọn từ chữ Nho ‘‘Hoá
học’’, và ngay bên dưới, từ ‘‘Chimiste’’ được dịch là ‘‘Kẻ
thông phép hoá-học’’. Phân loại chữ Nho của Trương Vĩnh Ký như vậy không
nhằm mục tiêu mô tả để phục vụ nghiên cứu tiếng Việt - lịch sử tiếng Việt, mà
mô tả trước hết là để phục vụ việc sử dụng, cho việc xác lập những cách ứng xử
mới với chữ Hán (10). Từ ‘‘Hoá học’’ trong trường hợp này có thể được
coi là đã ‘‘nhập tịch’’ vào khối từ vựng tiếng Việt, và kể từ đó không
còn cần được đánh dấu là chữ Nho. Việc phân định ranh giới từ vựng chữ Nho với
từ vựng tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký không phải để hạn chế hay loại trừ chữ ‘‘Nho’’,
mà để trước hết khẳng định sự độc lập của tiếng Việt với tiếng Hán (11), và thứ
hai là mở ra khả năng tích hợp chữ Hán vào tiếng Việt một cách chủ động, có
chọn lọc, theo nghĩa tiếng Việt là ‘‘chủ’’, Hán tự là ‘‘khách’’
(chữ Nho không phải là chữ ta) (12).
Trong giới ngôn ngữ học Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 20
đến nay, nổi lên trào lưu phê phán tiếp cận “Dĩ Âu vi trung’’ (tức phê
phán việc áp đặt vào tiếng Việt các quan niệm đặc thù của ngôn ngữ châu Âu),
trong đó có học giả Cao Xuân Hạo. Theo một số nhà quan sát, việc phê phán quan
điểm ‘‘Dĩ Âu vi trung’’ hiển nhiên có những cơ sở nhất định, nhưng
việc chỉ trích quá mức quan điểm “Dĩ Âu vi trung” vào giai đoạn cuối
thế kỷ 19, có thể làm lu mờ đi hai thực tế căn bản khác. Thứ nhất là quan niệm
‘‘Dĩ Hoa vi trung’’ (coi các quy tắc Hán ngữ là khuôn vàng thước ngọc)
còn nặng nề, và thứ hai là tình trạng thiếu vắng các công cụ ngôn ngữ học cho
phép ‘‘chuẩn hoá’’ tiếng Việt, để tiếng Việt từ một ngôn ngữ “thông
tục”, bình dân vươn lên dần dần thay thế cho chữ Hán/tiếng Hán với tư cách
ngôn ngữ quốc gia.
Sự nghiệp phát triển Quốc ngữ của nhà bác học đã không
được mấy hưởng ứng tại miền bắc và miền trung Việt Nam, nơi nền cựu học Nho
giáo tiếp tục thống trị. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục học hỏi những giá trị
tiến bộ Âu – Tây để hiện đại hóa đất nước bùng lên đầu thế kỷ 20, với phương
châm hàng đầu kêu gọi lấy Quốc ngữ làm văn tự quốc gia, nhưng tất cả các văn
bản chủ yếu của phong trào đều bằng chữ Hán (13). Nói cách khác, việc chuẩn bị
để chữ Quốc ngữ được ‘‘chuẩn hoá’’ đủ mức, đủ sức bắt kịp đòi hỏi thay
đổi đột phá nói trên của giới trí thức người Việt đã bị chậm đi hẳn một nhịp so
với ước vọng ‘‘chữ Quốc ngữ là hồn trong nước’’ (câu thơ khuyết danh
tương truyền của một chí sĩ thời Đông Kinh Nghĩa Thục).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire