![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhY4P2nUIxWKbl0Oagu9SvDZkgDibhPZjJTtSRXN_McN3vNMxzKwQ_XDrDOMa-k8SomL8sXFAPio-K0rN4L_2eSNh_ruhdqwQf2JiWdOJtu1ZMiozWLqW8J-uGmmAIFQ3H3Y7d7n0_dqPkA/s400/Vo+Nh%25C6%25A1n+Tr%25C3%25AD+000.jpg)
Hôm
17 tháng 5, chúng tôi hẹn nhau tại một địa điểm ở Paris X, gặp nhau,
thăm hỏi nhau và ăn trưa, nói chuyện vui với nhau nhơn có một người
bạn ở Poitiers lên Paris . Việc hẹn gặp nhau, chúng tôi thường làm khi
có cơ hội .
Gần tới
giờ, Anh Võ Nhơn Trí điện thoại «xin
cáo lỗi vì đi khám bịnh về, mệt lắm, lết không nổi nữa»
Bạn bè ai
cũng nghĩ lớn tuổi, đi khám bịnh về, thường bị mệt vì ngồi chờ đợi,
khám với những tư thế xoay trở,
hít thở, quơi tay, dang chơn, …làm cho bịnh nhơn dễ bị căng thẳng và mệt .
Đi khám bịnh, Anh Trí đi bộ, lên
xuống bus/métro, đi về 2 bận, càng dễ bị mệt hơn tuy đi không xa lắm
vì chỉ trong Paris .hít thở, quơi tay, dang chơn, …làm cho bịnh nhơn dễ bị căng thẳng và mệt .
Hôm sau, bạn
điện thoại thăm anh nhưng không nhận được trả lời, lại nghỉ anh mệt,
không dậy lấy điện thoại .
Rồi ngày qua
….không như anh em nghĩ anh «không lết
nổi nữa» trong ý nghĩa bình thường của cách anh nói . Mà lần
này nó có ý nghĩa khác hẳn . Anh không lết nổi nữa mà anh đi . Vì Anh đi được . Anh đi thật xa,
thật cao, nơi không gian mênh mông, vô tận .
Anh vỉnh
viễn từ giả anh em, bạn bè, chơi vói nhau, thân nhau từ năm 1984, ngày
anh trở lại Pháp .
Nam kỳ, tiều
tư sản, trí thức tây học
Võ Nhơn Trí
sanh tại Sa đéc tháng 11 năm 1927, lớn lên bên quê nội Rạch giá, học
Trung học nội trú ở Taberd Sài gòn .
Thật sự ông không
phải tên Võ Nhân Trí mà là Robin Võ . Cũng như nhiều gia đình tây học,
giàu có ở Nam kỳ, ông có quốc tịch pháp, lấy tên theo pháp . Năm
1960, ông đưa vợ cùng về Hà nội, tới Tòa Đại diện Hà nội ở Paris
làm thông hành, họ mới bỏ tên tây thực dân, viết tên việt nam là Võ
NHÂN Trí cho ông .
Anh em phê
bình «Anh là dân Nam kỳ chánh gốc thì phải NHƠN chớ tại sao
NHÂN ?» . Ông nói tụi nó viết, tui cũng không thèm để ý . Vậy bây
giờ viết lại NHƠN, bỏ NHÂN đi . Từ đây, tên của ông ghi trên sách, các
bài biên khảo của ông, mới viết là Võ NHƠN Trí . Tuy nhiên cũng còn
nhiều nơi viết NHÂN theo thói quen cũ .
Ở nội trú
Taberd, lúc lên Đệ Nhị cấp, phòng ngủ của ông thuộc dãy nhà nằm sát
tường bên kia là Bót Catinat. Nhiều đêm, ông giựt mình thức giấc vì
những tiếng rên la của phạm nhơn bị lính kín tây tra tấn . Tỉnh ngủ,
nằm suy nghĩ, ông cảm thấy ghét lính tây . Ngày qua ngày, ông thấy
hận thù tây thực dân .
Xong Trung
học, gia đình cho ông qua Pháp học Đại học . Ở Paris, ông học chánh
trị ở Viện Chánh trị học, tốt nghiệp Trường Quốc gia Tổ chức Kinh
tế và Xã hội (ENOES – Kỷ sư Thương mại), Tiến sĩ Luật, và qua Anh
học thêm Kinh tế (Ph.D) .
Năm 1960, ông đưa
vợ cùng về Hà nội phục vụ chế độ nhân dân . Đây là sự chọn lựa
của ông do phản ứng từ lòng thù hận lính tây thực dân những năm tuổi
trẻ ở nội trú Taberd . Nếu ông về Sài gòn như nhiều người khác, thì
cuộc đời của ông chắc chắn đã khác, thật sự có cơ hội và điều
kiện tốt để phục vụ đất nước, có đời sống gia đình giàu sang .
Hoặc ông ở lại Pháp, vừa không phải sống trong lo sợ chiến tranh vì
bà vợ là Dược sĩ, Vi trùng học, đang làm việc ở Viện Pasteur có
lương lớn .
Về tới Hà
nội, việc đầu tiên là khai sơ yếu lý lịch . Ông thành khẩn khai báo «gia đình địa chủ, tiểu tư sản, học ở
Pháp- Anh . Cả vợ cũng gia đình tiểu tư sản, tây học».
Nhắc lại,
lúc ở Sài gòn, vì câm thù Tây thực dân, khi qua Pháp, năm 1952, ông
liền gia nhập đảng cộng sản pháp để cùng với giới trẻ tả phái
tranh đấu chống thực dân ở thuộc địa . Về Hà nội, qua năm sau, ông
được kết nạp vào đảng cộng sản hà nội .
Nhưng cả ông
bà suốt hai năm đầu được đảng đải ngộ, chỉ cho ngồi chơi, đi tham
quan, chớ chưa cho một việc gì làm . Hăng hái, nhiệt tình phục vụ
đất nước xã hội chủ nghĩa mà, hết ngày này qua tháng kia, chỉ ngồi
chơi thì không gì khác hơn, đối với người trí thức có nhu cầu làm
việc, là một hình phạt, một cách tra tấn tinh thần day dẳng, ngắm
ngầm mà bào mòn theo ngày tháng . Thật ghê gớm !
Sau cùng, bà
vợ của ông được chỉ định làm việc trong một phòng thí nghiệm với
một chị Trưởng phòng răng đen mả tấu, Dược sĩ tốt nghiệp Hà nội và
Liên xô, mà kiến thức chuyên môn, theo bà Trí nhận xét, không bằng một
nhơn viên trợ lý phòng thí nghiệm (Laborantine) ở Viện Pasteur nơi bà
làm việc trước kia . Đúng hơn không khác gì một lao công rửa dụng cụ
thí nghiệm . Nhưng tác phong của Trưởng phòng để lãnh đạo nhơn viên
dưới tay bà thì hoàn toàn cách mạng đỏ ói .
Về phần ông
Trí, ông được cho làm việc với tư cách Chuyên viên nghiên cúu ở Ủy Ban
Khoa Học Xã hội Việt nam (Viện Kinh tế ở Hà nội và Viện Xã hội ở
Tp/HCM sau 1975) .
Năm 1967, ông
viết quyển «Phát triển kinh tế của
Cộng hòa Dân chủ Việt nam 1945-1965» . Khi biên soạn, ông được phép
vào kho lưu trử dữ liệu kinh tế để tham khảo . Nhơn cơ hội này, ông
mới biết những dữ liệu kinh tế có những mức độ chính xác khác
nhau, dành cho cán bộ ở cấp bực và trình độ cũng khác nhau .
Những tài
liệu gần với sự thật hơn hết chỉ dành cho Chánh trị Bộ, gần gần
với sự thật thì dành cho cán bộ Trung ương đảng, …những tài liệu
dành cho cán bộ tuyên truyền ra quần chúng thì chỉ còn sự thật của
tuyên truyền .
Cán bộ
nghiên cúu, ông cũng chỉ được quyền tham khảo những khi sử dụng thì
phải biết giử đúng liều lượng cần thiết .
Ngoài công
việc nghiên cúu theo chỉ thị của đảng, ông còn được đưa qua phái đoàn
tuyên truyền cho chiến tranh giải phóng ở các nước Đệ tam như Algérie,
châu phi đen . Trong công tác này, ông được đảng và chánh phủ long
trọng giới thiệu ông thuộc thành phần Đại Địa chủ, tư sản, Tây học
ở Nam Bộ mà từ bỏ giai cấp, sớm giác ngộ cách mạng nên theo cách
mạng . Ông dĩ nhiên được hoan nghênh nhiệt liệt . Công tác quan trọng
của ông là đi tuyên truyền cho Mặt Trận Giải phóng Miền nam .
Có lần trên
đường về, ông ghé qua Paris . Ông được bạn bè Việt kiều yêu nước ở
Paris mời tới nhà ăn cơm . Họ hỏi ông tình hình ở Hà nội, địa vị
và quyền lợi của người về phục vụ đất nước như ông . Có lẽ họ
cũng có ý định về . Ông Trí kể hết những gì ông chứng kiến, ông
thể nghiệm qua thân phận của chính ông và ông cực lực khuyên họ đừng
bao giờ về . Và ông căn dặn đừng nói ra vì ông còn trở về bên ấy .
Sau 1975,
nhiều người gốc Miền nam lần lược về Nam . Riêng ông nhiều lần xin
về, vẫn không được về . Mải mấy năm sau, ông mới được về Nam . Khi
lấy giấp phép về công tác Viện Khoa Học Xã hội Tp.HCM, ông gặp Phó
Thủ tướng Trần Phương . Ông Phương hỏi ông có biết tại sao tới nay, ông
mới được phép về Nam hay không ?
Ông thật thà
bảo không biết . Ông Phương giải thích nếu cho ông về sớm như mấy
người kia thì trí thức Nam Bộ sẽ không còn một người . Ông Phương hỏi
ông có nhớ lúc ông ghé qua Paris trước kia, ông nói gì với Việt kiều
hay không ?
Ông Trí giựt
mình . Ông đã căn dặn anh em giử kín cho ông thế mà vẫn có người báo
cáo .
Năm 1980, từ
Sài gòn, ông về Sa đéc ăn giổ . Xe đò ngừng chờ qua phà Mỹ Thuận .
Ông đi ra mé sông đi tiểu . Bổng đâu công an ập tới bắt ông, cho ông toan
vượt biên . Ông bị nhốt và điều tra . Tối ngủ trên nền đất với những
tù khác đủ loại . Ông xuất trình giấy tờ cán bộ nghiên cúu Viện
Khoa học Xã hội nhưng công an lờ đi . Sau cả tháng, cán bộ Chủ nhiệm
của ông ở Hà nội đem giấy tờ vào
trình công an, ông mới được thả ra . Lúc cán bộ Chủ nhiệm tới,
vốn quen biết lâu ngày, khá thân, nhưng hôm ấy, anh ta làm mặt lạnh
nhạt, không chào hỏi, không bắt tay, không nói một câu hỏi thăm nhau .
Ông Trí thấy thêm tình đồng chí cách mạng thật thấm thía .
Trả thẻ
đảng, qua Pháp.
Sau khi gia
đình lần lượt tìm cách qua Pháp, ông ở lại làm con tin . Năm 1984, ông
mới có cơ hội đi khỏi Việt nam nhờ người em, đệ tử của nhà toán
học Laurent Schwartz, yêu cầu ông can thiệp với Hà nội nhơn một phái
đoàn pháp gặp Chánh phủ Hà nội . Thật ra Hà nội cũng chẳng muốn
giử ông lại làm gì, chỉ tốn cơm mà còn thêm thấy ghét .
Trở qua
Pháp, cả ông bà đều cao tuổi . Bà phải làm lại cuôc sống từ đầu .
Đi làm công cho pharmacie ở ngoại ô, nơi 8 giờ tối là hết xe . Nhiều
lúc bà phải lội bộ vài km, cả dưới Trời tuyết .
Còn ông có
dịp suy nghĩ, viết lách tự do, hoàn toàn theo suy nghĩ của ông . Ông
được một Trường đại học ở Nhựt mời viết về kinh tế việt nam sau 75
.
Năm 1990, ông
viết xong quyển «Chánh sách kinh tế việt nam từ 1975» do Đại học Singapour
xuất bản, sau 3 năm làm việc cho Viện Đại học . Quyển này được tái
bản năm 1992 .
Ngoài sách,
ông còn viết nhiều bài biên khảo phê phán chánh sách kinh tế, chánh
trị của Hà nội cho các báo việt ngữ hải ngoại. Ông tham dự nhiều
chương trình hội thảo chánh trị ở Sydney do Trung Tâm Đồng Tâm tổ chức
(1995), ở Hưê kỳ (AEI – American Enterprise Institute for Public Policy
Research), ở quốc Hội Huê kỳ do Ủy Ban Quốc tế Yểm trợ Việt nam Tự
do tổ chức, trả lời nhiều cuộc phỏng vần của các Đài phát thanh
(rfa) về Hà nội vi phạm nhơn quyền, về tội ác của chánh sách cộng
sản ở Việt nam, …
Ở đâu, lúc
nào có cơ hội là ông hăng hái vạch trần sự bịp bợm, sự tàn ác của
chế độ hà nội đối với dân chúng việt nam . Ông tâm niệm mình đã
từng nạn nhơn của chế độ, từng chứng kiến chánh sách phi nhơn ấy,
nay có cơ hội nói tự do, phải tố cáo nó cho mọi người biết để đừng
để bị chúng nó gạt . Biết mà không nói ra là có tội . Ông còn nói
rỏ «Đó là crime» (tội hình sự / trọng tội) .
Ở Paris, mỗi
khi có một phái đoàn chánh phủ hà nội qua vận động, tuyên truyền
với dư luận người pháp và Việt kiều, ông tới tham dự để chất vấn,
làm cho dư luận hiểu sự thật ở Việt nam . Có lần phái đoàn do Phó
Thủ tướng Chánh phủ hướng dẩn, nói chuyện về Việt nam phát triển
để mời gọi Pháp đầu tư . Phó Thủ tướng Phan văn Khải nói bằng tiếng
việt, có người thông dịch cho cử tọa người pháp . Ông Trí can thiệp,
dĩ nhiên phải nói tiếng pháp . Thấy đại diện Hà nội vẫn nói lấy
được như ở trong xứ, ông phản bác mạnh . Trong lúc bực tức, ông không
kìm được nên chửi thề (theo thói quen của ông) trước khi nói lời bằng
tiếng pháp . Dĩ nhiên chỉ có người Việt hiểu và Việt kiều, cả ông
Phó Thủ tướng đều xụ mặt .
Võ Nhơn Trí
là vậy . Và anh em thương Võ Nhơn Trí cũng vì cái Nam kỳ đặc sệt đó
.
Việt nam cần
đổi mới thật sự.
Sau thời gian
dài theo dõi sát tình hình việt nam, Võ Nhơn Trí viết quyển "Việt
nam cần đổi mới thật sự" bằng tiếng việt do Đông Á ở Vancouver,
Canada, xuất bản năm 2003 . Quyển sách làm Hà nội cay cú vì ông vạch
trần những sai lầm, những dối trá, bản chất chế độ là độc tài ác
ôn vì rặp khuôn theo Tàu làm mẫu mực .
Ông giải
nghĩa chánh sách «đổi mới» là
sự chuyển hóa chủ nghĩa xã hội theo kiểu «mác-lê-mao» sang thứ chủ
nghĩa xã hội theo kiểu «mác–lê-đặng» và «tư tưởng hồ chí minh» .
Theo Yang
Chungi, một nhà chánh trị học trung quốc, chánh sách đổi mới ở Việt
nam thực hiện theo những điểm căn bản sau đây rặp khuôn Trung
quốc :
- phát triển
lực lượng sản xuất,
- dân giàu
nhưng lần lược kẻ trước, người sau,
- kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
- dân chủ
xhcn, pháp luật xhcn, văn hóa xhcn, …
- mở cửa ra
các nước tư bản nhằm học tập, lợi dụng vốn liếng, kỷ thuật của tư
bản để xây dựng cnxh, hiện đại hóa nền kinh tế, nhứt là trong giai
đọan đầu của cnxh (nhưng giai đoạn này kéo dài không biết bao lâu, cả
ngàn năm ?
Còn tư tưởng
hồ chí minh?) .
Võ Nhơn Trí viết
«Theo gương đảng cộng sản trung quốc đề cao tư tưởng mao trạch-đông,
đảng cộng sàn việt nam cũng từ 1991 trở đi, đề cao một cách giả tạo
cái gọi là tư tưởng hồ chí minh
tại Đại hội 7 của họ đề có chút ít bản sắc dân tộc sau khi Liên-xô
và Đông Âu sụp đổ» .
Hồ Chí Minh
tâm đắc quan điểm của Staline «Đảng
cộng sản là công cụ của chuyên chính vô sản» và «chuyên chính vô sản về thực chất được
thay thế bởi chuyên chính của đảng cộng sản». Mà trong thực tế,
chuyên chính của đảng cộng sản là chuyên chính của một người, đó lá
Staline . Vì vậy, Boris Souvarine từng cho rằng Hồ chí Minh là một đệ tử tuyệt trần của Staline .
Anh đi về
đâu, Anh mất về đâu ?
Hôm mùng 7
tháng 6, tại phòng tang lễ «Dernier Hommage» của nghĩa trang Père
Lachaise ở Paris XX, có hai người bạn thân lâu năm của Võ Nhơn Trí, có
mặt để tiễn đưa ông lên đường .
Cụ TTH, bạn
cùng tuổi với Cụ Võ Nhơn Trí, ngỏ lời thương tiếc người bạn vừa ra
đi «Mọi cuộc chia ly đều buồn thảm, kể cả
những cuộc chia ly người ta ước muốn», như nhà văn danh tiếng của Pháp, Anatole
France, thế kỷ trước, đã viết như vậy. Với thân nhân của người quá cố nỗi buồn
chia tay vĩnh viễn với ông mênh mang như ảnh tượng trong thơ của Đỗ Phủ “càn
khôn hàm sang di, trời đất còn mang vết thương đau”.
Ông Võ Nhơn Trí, thông qua những hoạt động
dưới nhiều hình thức của mình, đã sử sự như một nhà tư tưởng độc lập, tự do.
Anh ra đi trong nỗi thương nhớ của thân nhân và bạn bè.
Anh đã để lại cho đời sau cả một di sản tinh thần của trí tuệ, của lương
tâm cao thượng của một nhà trí thức chuyên gia mang hoài bão Kinh Bang Tế Thế.
Nhưng thời thế đã ngăn trở anh Kinh Bang. Đó là một nghịch lý mà hơn một nửa
thế kỷ nay anh quyết chí xóa bỏ. Anh đã tận dụng mọi cơ hội để vang vọng lời
kêu gọi xoá bỏ của anh trên nhiều diễn đàn trong nước cũng như ngoài nước. Lời
kêu gọi không khoan nhượng của anh, những lời kêu gọi mang tính cách mạng cải tạo
xã hội được lắng nghe ở khắp nơi trong sự thuyết phục và kính trọng.
Thái độ kiên trì của anh đã dựng lên một sự nghiệp cải tạo thời thế
gương mẫu. Và thái độ ấy đã lôi cuốn lòng người lên đường xây dựng một cuộc đời
tươi đẹp được giải phóng khỏi nghèo túng và sợ hãi, chẳng những cho dân tộc
Việt Nam mà cho cả nhân loại.
Rất đáng tiếc là anh đã vĩnh viễn
ra đi khi sự nghiệp cứu giúp cuộc đời của anh chưa thành đạt.
Thật là một vinh dự đặc biệt cho chúng tôi dịp này được nhắc nhở công
lao cao đẹp của một nhân vật mà kiến thức bén nhọn, toàn trí toàn tâm phục vụ
vô vụ lợi đã triển khai tài năng, tâm trí làm đẹp cuộc đời.
Cầu mong anh sớm đến thế giới ở phương Tây xa thẳm, nơi Hoa Khai Kiến Phật Ngộ Vô Sinh.
Xin vĩnh biệt anh Võ Nhơn Trí ”
Vĩnh biệt một trí thức lương
thiện !
Nhà báo Từ Thức, trong lời
“Tiễn đưa Võ Nhơn Trí” viết “Theo
Cộng Sản vì yêu nước, bị phản bội, còn đau hơn là những người đã biết thực chất
CS từ những ngày đầu. Cuộc đời của anh Trí là một thảm kịch. Như cuộc đời của
rất nhiều người VN”. Bỡi trong xã hội ở Việt nam ngày nay, người
lương thiện, ái quốc không có chổ đứng .
Một người bạn khác, nhà Toán
học BDKhanh, nghe tin Anh Võ Nhơn Trí mất, gởi ngay 2 câu thơ của Bùi
Giáng để tưởng niệm người bạn quá cố :
“Bao đêm thao thức thật thà
Tìm tòi chân lý ,
té ra tầm ruồng !”
Nguyyễn thị Cỏ May
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire