
‘…Tuy nhiên sự
sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là một chiến thắng tuyệt vời của tinh thần con
người. Sự cố kết tự do đã đánh bại sự thèm khát quyền lực…’
Hầu hết bất cứ ai
dưới 40 tuổi đều có ít ký ức về Bức Tường Berlin, có lẽ là biểu tượng gây ấn
tượng sâu sắc nhất của chế độ chuyên chế giết người tàn bạo nhất trên thế giới.
Sau nhiều thập kỷ bị áp bức, hàng trăm triệu người cuối cùng đã được tự do mà
ngày nay chúng ta coi là đương nhiên.
Cách mạng Cộng Sản Liên Xô
hay Bôn-Sê-Vích như một tai nạn, hậu quả bi thảm của sự sụp đổ kinh tế và xã
hội do chiến tranh thế giới thứ nhất gây nên. Không có sự xung đột đó, Vladimir
Ylyich Lenin có lẽ đã sống hết đời trong cuộc lưu vong ở Thụy Sĩ, thúc đẩy các
học thuyết cấp tiến và chơi cờ. Các đồng chí sau này của ông đã phải chịu cảnh
tối tăm trong các nhà tù hoặc lưu vong. Sa Hoàng Nicholas của Nga sẽ sống dưới
triều đại của mình khi đất nước ông thịnh vượng về kinh tế và cải cách chính trị.
Wilhelmine Đức, với quyền
đầu phiếu rộng hơn so với Anh Quốc, cũng sẽ thấy sự thay đổi dần dần về quyền
lực đối với sự cai trị theo hiến pháp tự do khi chủ nghĩa bảo thủ của Junker bị
mất ảnh hưởng.
Than ôi! Âu Châu đã cùng
nhau nhảy xuống vực thẳm của cuộc xung đột thảm khốc, dẫn đến một lục địa bị
thống trị bởi chủ nghĩa Phát xít, chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng sản. Liên
Xô đã tập trung sự tàn bạo vào chính người dân của mình cho đến khi Adolf
Hitler nắm quyền kiểm soát Đức. Quốc trưởng (Fuhrer) đã kích hoạt sự rối loạn
được gọi là thế chiến II, một cuộc xung đột mà Hitler bắt đầu nhưng không thể
kết thúc. Năm 1945, ông ta tự sát trong hầm trú ẩn của thủ tướng đệ tam quốc xã
Đức (Reich). Và Liên Xô, do Josept Stalin lãnh đạo, đã chiếm Berlin .
Một nước Đức bị chia
cắt.
Nước Đức bị phân chia giữa
Mỹ, Anh, Pháp và Liên Bang Xô Viết. Ba nước đầu thâu tóm những khu vực trong
vùng trở thành Cộng Hòa Liên Bang Đức năm 1949. Khu vực của Liên Xô trở thành
vùng được phương Tây gọi một cách không chính thức là Sogenannt hay còn gọi là
Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Bốn cường quốc cũng chiếm thủ đô Đức, khiến Tây Berlin
trở thành ốc đảo tự do ở giữa Đông Đức. Năm 1948, Moscow chặn các tuyến đường
bộ đến Berlin, với hy vọng buộc các đồng minh rút ra. Nhưng Mỹ tránh dùng lực
mở lối đi qua, vì sẽ gây chiến tranh mà thay vào bằng cuộc không vận nổi tiếng.
Năm sau Stalin bỏ cuộc phong tỏa, mặc dù quan hệ vẫn căng thẳng.
Liên Xô tước bỏ tài sản
sản xuất của họ và tạo ra một chế độ độc tài. Chế độ toàn trị bần cùng hóa
người Đức về tinh thần cũng như kinh tế. Kết quả là một cuộc di cư hàng loạt
của mọi người, đặc biệt là những chuyên gia trẻ hơn, được giáo dục tốt hơn. Để
chặn cơn thủy triều của con người, Walter Ulbricht của Đông Đức, với sự hỗ trợ
của Stalin, vào 1952 đã biến hình ảnh “Bức Màn Sắt” của Winston Churchill thành
hiện thực, củng cố biên giới với phương Tây. Tuy nhiên Cộng Hòa Dân Chủ Đức
(CHDC) đã để ngỏ biên giới bên trong của Berlin. Một lý do là các tuyến đường
sắt của phía Đông chạy qua thủ đô. Chế độ Ulbricht bắt đầu phát triển một mạng
lưới đường sắt tránh Berlin, được hoàn thành vào 1961.
Người dân và xe cộ di
chuyển tự do giữa hai Berlin khiến cho việc đào tẩu trở nên dễ dàng. Tồi tệ
hơn, Đại sứ Liên Xô tại CHDC Đức, Mikhail Pervukhin đã ghi:
“ Sự hiện diện ở Berlin
một biên giới mở và về cơ bản không được kiểm soát giữa thế giới xã hội chủ
nghĩa và tư bản vô tình khiến dân chúng đưa ra một sự so sánh giữa hai khu vực
của thành phố, điều không may là không phải lúc nào cũng có lợi cho Đông Berlin
Dân Chủ”.
Trên thực tế, sự so sánh
không bao giờ có lợi cho cộng sản. Republikflucht, hay trốn chạy nền cộng hòa
là một tội lỗi, nhưng phần lớn không cản được. Đến năm 1961, ước tính khoảng
1000 người Đông Đức đã chạy trốn mỗi ngày. Từ năm 1949 đến 19671, khoảng 3.5
triệu người hoặc 1/5 công dân CHDC Đức đã ra đi. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao
động trong dân số của CHDC Đức đã giảm từ 71% xuống còn 61% vào năm 1960. Nếu
những xu hướng đó tiếp tục, CHDC Đức sẽ không còn tồn tại.
Trong vài năm, Ulbricht
cũng đã ép Liên Xô cho phép phong tỏa Berlin. Tổng bí thư cộng sản Liên Xô
Nikita Khrushchev lắc đầu, dường như sợ biểu tượng tiêu cực của bức tường ở
những công nhân mà đối với họ cuộc cách mạng được cho là đã giành chiến thắng.
Tuy nhiên, sau này ông ta đã thay đổi quyết định vào giữa năm 1961, có lẽ vì
ông nhận thấy tổng thống Mỹ John F. Kennedy, người đã cho biết là sẽ không phản
đối việc xây dựng một rào cản như vậy.
Dù ở trường hợp nào, trong
đêm 12 tháng 8, 1961, nhân viên an ninh Đông Đức bắt đầu xây dựng cái được gọi
là Bức Tường Berlin. Ban đầu, đường phố bị xé toạc với hàng rào thép gai được
xâu thành chuỗi, chẳng bao lâu được thay thế bằng một bức tường gạch, và sau đó
nhiều hơn nữa. Rào cản ngày càng cao hơn, phức tạp hơn và chết chóc hơn. Cuối
cùng có hai bức tường với một dải chết ở giữa. Bức tường Berlin dài mấy dặm với
tường bê tông, hàng rào thép gai, chó nghiệp vụ và chiến hào chống xe. Ranh
giới được bổ xung thêm với tháp canh, hầm ngầm và mìn. Lính biên phòng được
lệnh bắn những kẻ cố gắng chạy trốn với lệnh “Schessbefehl” khét tiếng. Thiên
đường của nhân dân sẽ giết dân của nó để ngăn chặn chạy trốn.
Bức tường tử thần.
Bức tường không ngăn được
sự tẩu thoát của con người. Thay vào đó, nó buộc mọi người phải sáng tạo hơn.
Người Đông Đức đã trèo qua, chui xuống và bay qua. Họ nhảy từ cửa sổ của những
tòa nhà dọc biên giới, mà sau đó đã bị phá hủy. Dân Đông Đức đã sử dụng bóng
bay, tạo ra các khoang bí mật trong xe hơi. Ước tính 100.000 người đã cố gắng
chạy trốn, và khoảng 5000 đã thoát. Nhiều người thất bại trong việc tìm kiếm tự
do đã phải trả giá đắt. Hàng chục ngàn người Đông Đức đã bị cầm tù vì chạy trốn
nền cộng hòa (republikflucht). Khoảng 200 đã thiệt mạng. Không ai biết chắc có
bao nhiêu người thách thức Bức Tường Berlin. Bao gồm những người bị giết trong
trong khi cố gắng vượt qua biên giới ở nơi khác, và số người chết có thể vượt
quá 1000.
Người Đông Berlin đầu tiên
chết trong một nỗ lực chạy trốn là Ida Siekman 58 tuổi, vào 22 tháng 8, 1961,
đã nhảy từ một cửa sổ trong tòa nhà của mình lên một con đường ở Tây Berlin
(khu vực sau đó đã được bạch hóa và biến thành một “dải tử thần”). Hai ngày
sau, người Berlin đầu tiên bị chính quyền GDR sát hại: Đó là thợ may 24 tuổi
Guenter Litfin bị bắn khi đang cố bơi qua sông Spree.
Nỗi kinh hoàng thực sự của
một hệ thống giam cầm cả một dân tộc được minh họa rõ nét nhất gần một năm sau
đó. Vào 17 tháng 8, 1962, các đặc vụ biên giới Đông Đức bắn chết một thợ hồ 18
tuổi, Peter Fechter, khi anh ta tìm cách vượt qua bức tường. Họ để cho Fechter
chảy máu trong tầm nhìn của cư dân ở Tây Berlin. Anh ta là người Berlin thứ 27
chết vì đi tìm tự do.
Cuộc tàn sát tiếp diễn năm
này qua năm khác, ngay cả khi Đế quốc Liên Xô bắt đầu nổ tung. Chính phủ Cộng
Hòa Dân Chủ Đức, vào thời điểm này dưới sự cứng rắn tàn nhẫn của Erich
Honecker, tiếp tục giết dân chỉ đơn giản là họ muốn được sống tự do. Vào ngày 6
tháng 2, 1989, Chris Gueffroy, 20 tuổi, trở thành người Đông Đức cuối cùng bị
sát hại khi chạy trốn. Anh ta làm việc trong một nhà hàng, nhưng sắp được đưa
vào quân đội. Anh ta và người bạn Christian Gaudian đã lầm tưởng rằng lệnh bắn
đã được dỡ bỏ. Trong khi trèo hàng rào cuối cùng dọc theo một con kênh, anh ta
bị bắn chết.
Gaudian bị thương, bị bắt
và bị kết án 3 năm tù. Nhưng anh ta được tại ngoại vào tháng 9, 1989 và được
gửi sang Tây Berlin vào tháng sau đó. Bốn lính biên phòng bắn Gueffroy và
Gaudian được thưởng, nhưng họ cùng với hai quan chức của đảng Cộng Sản, sau đó
đã bị xét xử ở một nước Đức thống nhất (cuối cùng họ đã ở tù chút ít hay không
ở ngày nào hết).
Thêm một người Berlin bị
chết. Một kỹ sư điện, Winfried Freudenberg, 32 tuổi, đã sử dụng một quả balloon
làm tại nhà để tẩu thoát. Trái balloon bị rơi ngày 8/3, và anh ta đã chết. Đến
lúc đó chủ nghĩa cộng sản đã tan rã ở Ba Lan và Hungary. Khi Hungary bắt đầu
kéo hàng rào biên giới với Áo vào tháng 5, nên Bức Màn Sắt có một lỗ hổng lớn.
Người Đông Đức bắt đầu tràn ra ngoài.
Biểu tình nổ ra trong Cộng
Hòa Dân Chủ Đức, nổi bật bởi những người quyết tâm ở lại để biến đổi đất nước
của họ. Honecker được cho là muốn bắn và yêu cầu Xô Viết can thiệp. Mikhail
Gorbacev từ chối và các đồng chí của Honecker cho ông ta nghỉ hưu vào tháng 10.
Nhưng những nỗ lực cải cách của họ đã không thể ngăn được cơn sóng thần tự do.
Vào 4 tháng 11, một triệu người tuần hành ở Đông Berlin yêu cầu chấm dứt chủ
nghĩa cộng sản.
Vào 9 tháng 11, 1989,
nhiều thập niên áp bức đã bị cuốn đi. Trước đó đã có những khoảnh khắc hy vọng
khác. Những cuộc biểu tình ở Đông Đức năm 1953, cách mạng Hung năm 1956 và Mùa
Xuân Prague năm 1968. Nhưng tất cả đã bị nghiền nát với những mức độ tàn bạo
đẫm máu khác nhau.
Tuy nhiên, 1989 thì khác.
Và đó là kết quả của một sai lầm. Cộng Hòa Dân Chủ Đức quyết định cho phép
người Đông Đức nộp đơn xin thị thực đi du lịch. Phát ngôn viên Bộ Chính Trị
Guenter Schabowski đã bỏ lỡ hầu hết các cuộc họp quan trọng nhưng lại được giao
nhiệm vụ thông báo chính sách mới cho báo chí quốc tế. Ông ta nói rằng mọi
người có thể đi du lịch ngay bây giờ, “ngay lập tức, không chậm trễ”.
Đám đông tụ tập tại các
điểm băng qua Berlin khi lính biên phòng GDR không tìm kiếm được sự hướng dẫn
từ cấp trên. Vì không nhận được gì, họ đã mở cổng sau 10.316 ngày tàn bạo, đôi
khi là giết người. Sự háo hức của buổi tối hôm đó với người Đông và Tây Berlin
hướng về phía Tây và phía Đông – không phải là sự kết thúc của CHDC Đức. Nhưng
những cảm xúc mạnh mẽ đó đã báo trước sự kết thúc của chế độ.
Tuy nhiên, quyền tự do
không được khôi phục hoàn toàn cho đến khi phần còn lại của các quốc gia Đông
Âu tan rã. Quan trọng nhất là Liên Xô cuối cùng đã giải thể. Mikhail Gorbachev
từ chức vào ngày Giáng Sinh năm 1991. Lá cờ Liên Xô được hạ xuống lần cuối cùng
vào nửa đêm. Và ngày 26 Liên Xô không còn nữa.
Sau Liên Bang Xô Viết:
Có một tội ác độc nhất vô
nhị ở Đức Quốc Xã, với sự cố gắng tiêu diệt hoàn toàn một dân tộc. Tuy nhiên
chủ nghĩa cộng sản đã thu nhỏ chủ nghĩa phát xít nói chung và chủ nghĩa Quốc xã
nói riêng. Sách Đen Cộng Sản (The Black Book of Communism) ước tính số người
chết là hơn 100 triệu. Số liệu của R.J. Rummel trong sách Chết Bởi Chính Quyền
(Death by Government) thì tương tự, mặc dù các nhà phân tích khác nhau về số
liệu của họ đối với các quốc gia đặc biệt. Và sự đàn áp tàn bạo, nếu không nhất
thiết giết người hàng loạt, vẫn tiếp tục ở những nước cộng sản còn lại: Trung
Quốc, Cuba, Lào, Bắc Triều Tiên và Việt Nam.
Thường thì việc giết người
thậm chí không có ý nghĩa logic. Rummel đã mô tả Liên Bang Xô Viết của Stalin:
“Giết người và hạn ngạch
bắt giữ không hoạt động tốt. Nơi để tìm “kẻ thù của nhân dân” mà họ phải bắn là
một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với NKVD địa phương. Việc cần làm là phải
siêng năng phát hiện ra “âm mưu”. Vì thế họ đã phải sử dụng việc bắn những
người bị bắt vì những tội dân sự nhỏ nhất, những người bị bắt và đã thả ra
trước đó, và thậm chí cả những bà mẹ và những người vợ đã xuất hiện ở cơ quan
NKVD để biết tin tức về những người thân bị bắt của họ”.
Chắc hắn hệ thống này là
một Đế chế Ác ma như tổng thống Ronald Reagan đã mô tả. Vào ngày 9 tháng 11,
1989 Bức Tường Berlin đã mở, và không bao giờ đóng lại nữa. Các chế độ chuyên
chế cộng sản châu Âu đã biến mất, mặc dù họ thấy quá trình chuyển đổi sang chủ
nghĩa tư bản dân chủ thì khó khăn hơn là sự phân tích dự đoán và hy vọng của
hầu hết các nhà phân tích. Có lẽ bi thảm nhất là sự tháo lui vào chủ nghĩa độc đoán
của Nga. Tuy nhiên sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là một chiến thắng tuyệt
vời của tinh thần con người. Sự cố kết tự do đã đánh bại sự thèm khát quyền
lực.
Có nhiều vị anh hùng trong
cuộc chiến giành tự do. Một số người nổi tiếng, chẳng hạn như Alexander
Solzhennitsyn, tiểu thuyết gia Liên Xô đã ghi lại sự khủng khiếp của quần đảo
ngục tù gulag, và lech Walesa, thợ điện Ba Lan đã trèo lên một bức tường nhà
máy đóng tàu ở Gdansk để thách thức những người cầm quyền của đất nước mình. Đi
trước họ là Imre Nagy và Pal Maleter đã lãnh đạo những nhà cách mạng Hung và đã
bị liên Xô và những tay sai địa phương của họ xử tử. Đặc biệt quan trọng là
Mikhail Gorbachev, người cộng sản cải cách, đã giữ quân đội Liêm Xô trong doanh
trại trong suốt năm 1989.
Và tất nhiên, Ronald
Reagan, người đã tin rằng chủ nghĩa cộng sản có thể bị đánh bại. Vào 12 tháng
6, 1987, ông đứng trước cổng Brandenburg và đưa ra sự thách thức nổi tiếng của
mình:
“Tổng Bí Thư Gorbachev,
nếu ông tìm kiếm hòa bình, nếu ông tìm kiếm sự thịnh vượng cho Liên Xô và Đông
Âu, nếu ông tìm kiếm tự do: Xin hãy đến cổng này. Ông Gorbachev, hãy mở cổng
này! Ông Gorbachev, hãy phá bỏ bức tường này!”.
Tuy nhiên, quan trọng nhất
là người dân trên khắp lục địa đã tạo nên cuộc cách mạng. Họ đã chống lại đám cán
bộ trung kiên. Họ đã giữ cho giấc mơ sống mãi. Họ đã chứng minh cho sự thay
đổi. Họ đã phải chịu đau khổ trong tù và đôi khi bị giết. Cuối cùng họ đã kết
thúc chủ nghĩa cộng sản từ nước này qua nước khác.
Đã ba thập kỷ, thời gian
bức tường sụp đổ đã lâu hơn thời gian bức tường được dựng lên, nhưng chúng ta
nên tiếp tục ăn mừng sự sụp đổ của Bức Tường Berlin và sự chấm dứt hệ thống tà
ác khủng khiếp đằng sau nó. Tinh thần tự do sống mãi. Phải có thêm những cuộc
cách mạng tự do được tổ chức trong tương lai.
Doug Bandow
Việt Dương dịch
(*) Doug Bandow là viện sĩ
thâm niên tại Cato Institute và là tác giả một số sách về kinh tế và chính trị)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire