Bọn thẻ đỏ tim đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt miệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà
Bùi
Minh Quốc
Trên
dòng
đổ vỡ về tư tưởng, lãnh đạo và chính
nghĩa của đảng Cộng Sản, dân Việt đã và đang chứng kiến ngày càng nhiều những phiên tòa của đảng Cộng Sản
xử người yêu nước chống Tàu và đòi dân quyền. Theo dõi những người bị kết tội từ những phiên tòa ấy, chúng tôi có mấy nhận định, xin ghi lại như sau:
xử người yêu nước chống Tàu và đòi dân quyền. Theo dõi những người bị kết tội từ những phiên tòa ấy, chúng tôi có mấy nhận định, xin ghi lại như sau:
Nội dung của những
phiên tòa
Những phiên tòa kết án
những người yêu nước, yêu dân chủ cho thấy 3 điều:
1. Kết tinh và
phát triển chủ lưu chống Tàu và đòi dân quyền.
Cuối thập niên 1980, khởi
đầu với nhóm Hiền sĩ cao nguyên gồm tiến sĩ Hà Sĩ Phu (Nguyễn Xuân Tụ), nhà văn
Tiêu Dao Bảo Cự, nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh và các ông
Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn, Trần Minh Thảo..., lên tiếng chống lại chế độ
độc tài toàn trị và đòi dân chủ. Với những tác phẩm: Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những
Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ (1988), Đôi Điều Suy Nghĩ Của Một Công Dân
(1993) và Chia Tay Ý Thức Hệ (1995), ông Hà Sĩ Phu đã chỉ ra sự sai lầm từ căn
bản của chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trả giá cho sự phê phán này, ông đã bị bắt giam 1 năm không xét xử (95-96). Sau
đó ông cùng với cả nhóm bị cô lập, quản thúc, quản chế, bao vây kinh tế.
Cùng với nhóm hiền sĩ cao
nguyên là tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, nhà văn Hoàng Tiến, ông Hoàng Minh Chính
và tướng Trần Độ ở Hà Nội (thập niên 1990), lên tiếng phê phán chế độ độc tài,
đòi dân chủ, nhân quyền. Các ông Hoàng Tiến, Hoàng Minh Chính và Trần Độ bị
sách nhiễu, canh chừng còn ông Nguyễn Thanh Giang bị bắt giam một thời gian.
Tiếp đó, đầu thập niên
2000, cùng với phong trào dân oan khiếu kiện đòi đất, đòi nhà, 4 trí thức trẻ ở
Hà Nội đã lên tiếng phê phán chế độ độc tài và đòi dân chủ. Đó là luật gia Lê
Chí Quang (viết Hãy cảnh giác với Bắc triều), bác sĩ Phạm Hồng Sơn (dịch bản
“Thế nào là dân chủ” từ website của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam), nhà báo
chuyên viết về kinh tế của tạp chí Cộng Sản Phạm Vũ Bình (viết Về vấn đề biên
giới Việt – Trung và xin thành lập đảng tự do – dân chủ) và nhà báo, cựu bộ đội
Nguyễn Khắc Toàn, viết tường thuật và thông tin về các vụ khiếu kiện của dân
oan và những bài viết kêu gọi chính quyền thực thi dân chủ.
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn |
Cả 4 người đều bị bắt năm
2002, đưa ra tòa kết tội làm gián điệp, xuyên tạc, chống đảng và nhà nước theo
điều 80 Bộ luật hình sự:
- Luật gia Lê chí Quang, 4
năm tù giam, 3 năm quản chế, thả 5/2004.
- Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, 5
năm, 3 năm quản chế, thả 8/2006.
- Nhà báo Nguyễn Vũ Bình,
7 năm, 3 năm quản chế, thả 6/2007.
- Nhà báo Nguyễn Khắc
Toàn, 4 năm, 3 năm quản chế, thả 1/2006.
Một hiện tượng đặc biệt là
từ giữa thập niên 2000, những người trẻ xuất hiện lên tiếng đòi dân quyền,
chống Tàu xâm chiếm biển đảo, đã tăng theo sự đàn áp của đảng Cộng Sản. Và tất
cả những người bị bắt đưa ra tòa đều bị kết tội theo mấy điều 79, qui định cấm
các hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, điều 80, 88, qui định
tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, điều 258,
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước. Như thế những phiên
tòa xử người yêu nước đã kết tinh cho chủ lưu tranh đấu chống bạo quyền, chống
Tàu xâm lấn và cho thấy sự phát triển của chủ lưu này.
2. Minh chứng sự
phân lìa giữa đảng và nhân dân
Từ năm 1954, miền Bắc
thành xã hội cộng sản: công, nông, binh, trí thức phụ thuộc vào đảng và nhà
nước. Trên lý luận và cơ chế xã hội, đảng Cộng sản đã gom nhân dân vào tay
đảng. Đảng với dân là Một. Xã hội vô sản miền Bắc không có mâu thuẫn, không có
đối lập, chỉ có tiếng nói và lệnh của đảng. Mấy ông nhà văn, nhà thơ và học giả
trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956) chỉ
đòi tự do văn nghệ, học thuật là bị đập chết ngay.
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình |
Sau khi chiếm được miền
Nam, đảng Cộng Sản vội vã tiến hành vô sản hoá miền Nam như miền Bắc, nhưng bất
khả và đại bại, vì dân miền Nam với nếp sống tự do, tư hữu đã khai hóa nhiều
cán bộ cộng sản và phá vỡ hệ thống kinh tế tập sản. Chỉ trong mấy năm thực hiện
kinh tế xã hội chủ nghĩa, dân miền Nam thiếu ăn, thiếu mặc, dân miền Trung từng
đoàn lũ lượt vào Nam đi ăn xin. Kinh tế xã hội chủ nghĩa lao vào khủng hoảng,
đỉnh cao là là vụ đổi tiền lần thứ 3 với cải cách giá, lương, tiền và chống
quan liêu bao cấp (1985), lạm phát lên tới trên 700%. Vì thế Cộng Sản Việt Nam
phải cải tổ theo Liên Sô, rồi theo Tàu của Đặng Tiểu Bình làm kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Tàu gọi là kinh tế thị trường kiểu Trung
Quốc). Việc cải cách này Cộng Sản Việt Nam gọi là đổi mới kinh tế, trở về với
kiểu làm ăn tư sản, mở cửa cho các nước tư bản vào đầu tư và đảng Cộng Sản giữ
độc quyền làm ăn với tư bản để làm giàu.
Đổi mới, cởi trói kinh tế
có hai tác dụng: Với dân, vì được làm ăn tự do nên thoát khỏi sự phụ thuộc vào
đảng, còn với đảng Cộng Sản là đảng được tư sản hóa thành giàu, nhưng vuột mất
quyền kiểm soát bao tử nên không thể gom dân vào tay đảng như ở miền Bắc trước
1975. Từ đó đối lập xuất hiện: Trí thức lên tiếng phê phán chế độ độc tài, đòi
dân quyền. Dân oan đi khiếu kiện đòi đất, đòi nhà. Nông dân kêu than thuế nặng
phí cao. Công nhân đình công đòi quyền lợi. Và từ thập niên 2000, những tiếng
nói đối lập cùng những phiên tòa xử người đối lập ngày càng nhiều trên khắp nước.
Như thế những bản án của tù nhân lương tâm đã đánh dấu sự phân lìa giữa đảng
với dân, hủy mệnh đề “Đảng Với Nhân Dân
Là Một” để minh chứng một sự thật là Đảng Với Dân Là Hai, nêu rõ đảng quyền độc
tài và dân vô quyền bị áp bức.
3 . Nói lên bản lãnh và trí
tuệ của tù nhân lương tâm
Những phiên tòa xử người
yêu nước cho thấy, tất cả những người này đã coi thường nhà tù và cả cái chết.
Trước tòa những người yêu nước tuyên bố: Tội của tôi là tội yêu nước. Trong nhà
tù những tù nhân lương tâm đấu tranh đòi cải thiện nhà tù. Khi mãn hạn tù, trả
lời các đài BBC, VOA và đài Á châu Tự Do (RFA) phỏng vấn, tất cả đều kiên định
một lời là tiếp tục con đường đấu tranh cho dân quyền và chống Tàu Cộng xâm
lấn.
Danh sách tù nhân lương
tâm, đã được tha và còn ở trong tù quá nhiều, nên ở đây chỉ xin ghi một số
người tiêu biểu.
Trước hết là những
anh thư:
- Cô Phạm Thanh
Nghiên:
Cô bị bắt tháng 9/2008, tòa án Hải Phòng kết
án tù 4 năm, 3 năm quản chế theo điều 88 Bộ luật hình sự. Mãn hạn tù tháng
12/2012.
Năm 2008, cô Nghiên đã mạo
hiểm vào tận xã Hoằng Trường và Hòa Lộc, Thanh Hóa, tìm đến nhà những ngư dân
bị hải quân Trung Quốc bắn và bắt ngày 8/1/2005 để tìm hiểu sự việc mà nhà nước
Việt Nam luôn dấu kín. Chuyến đi này cô đã ghi lại được nhiều điều của những
gia đình nạn nhân trong bài “Uất Ức Biển Ta Ơi”. Nhưng ở đây chỉ xin trích lại
một đoạn nói về thái độ của viên chức Bộ Ngoại Giao Việt Nam đối với ngư dân và
Trung Quốc: “Khoảng hai, ba hôm sau khi ngư dân Thanh Hóa bị tàu chiến Trung
Quốc tấn công thì người của Bộ Ngoại Giao Việt Nam sang. Họ có hai người, không
có nhà báo đi theo để đưa tin. Họ xin chính quyền Trung Quốc gặp các ngư dân
Việt Nam đang bị giam giữ và khuyên: “Các anh cố gắng ở lại cải tạo cho tốt,
đừng cãi người ta. Chúng tôi sẽ cố gắng đưa các anh về trước tết”. Những ngư
dân này không hiểu họ phạm tội gì, tại sao lại “cố gắng cải tạo cho tốt”?
Trong tù khi bị xiềng chân
trước hai viên công an thẩm vấn, cô Nghiên đã lên tiếng: Tôi sẽ không nói gì,
nếu các anh xiềng chân tôi, và công an đã phải tháo xiềng.
Sau khi mãn án tù, bị quản
chế, nhưng cô đã cùng Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và nhiều người khác sáng lập Mạng
Lưới Blogger Việt Nam, và Mạng Lưới đã thực hiện những chiến dịch nhân quyền
như “Lời Tuyên Bố Của Công Dân Tự Do”, chiến dịch “Chúng Ta Muốn Biết”, phong
trào “Không Bán Nước”...
- Bà Bùi Minh
Hằng:
Bà Hằng là nhà hoạt động
dân chủ, nhân quyền với câu nói: “Chúng tôi ngã xuống để đất nước này đứng lên”
và đã đi hàng đầu trong những cuộc biểu tình chống Tàu xâm lấn ở Hà Nội. Tháng
2/2014 bà và một nhóm thân hữu và tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tới thăm một cựu tù
nhân lương tâm là ông Nguyễn Bắc Truyền. Trên đường đi tại khu vực Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp, Bà Hằng đã bị công an bắt cùng 2 người khác là Nguyễn Thị Thúy Quỳnh
và Nguyễn Văn Minh. Cả ba người đã bị tòa án Đồng Tháp kết án gây rối giao
thông và trật tự công cộng theo điều 245 Bộ luật hình sự: Bà Hằng 3 năm tù
giam, Thúy Quỳnh 2 năm 6 tháng và Minh 2 năm.
Mãn hạn tù ngày 11/2/2017,
khi được hàng trăm người đón tại nhà thờ Dòng chúa Cứu Thế ở Kỳ Đồng, quận 3,
TP Hồ Chí Minh, bà đã nói: Tôi phải cám ơn nhà cầm quyền cộng sản. Chính họ tạo
dũng khí cho tôi. Chính nhà tù đã tạo dũng khí cho chúng ta tranh đấu và giúp
chúng ta trưởng thành.
- Cô Đỗ Minh Hạnh:
Cô Hạnh bị bắt tháng
2/2010, với cáo buộc cùng với 2 người khác là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn
Huy Chương thúc đẩy cả chục ngàn công nhân, công ty giày Mỹ Phong tại Trà Vinh
đứng lên đình công. Phiên tòa 27/10/2010 tại tòa án Trà Vinh, tuyên án Đỗ Minh
Hạnh 7 năm tù giam, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm, và Đoàn Huy Chương 7 năm về
tội phá rối an ninh trật tự nhằm chống
lại chính quyền nhân dân theo điều 79 bộ luật hình sự.
Bà Ngọc Minh, mẹ của Hạnh
trong cuộc phỏng vấn của Trà My đài VOA (23/9/2013) cho biết: Từ 2013, Hạnh
tham gia khối 8406, giúp đỡ dân oan mất đất. Hạnh đánh máy hồ sơ khiếu nại đất đai cho dân oan rất nhiều. Trong thời
gian hoạt động không tết nào Hạnh ăn tết ở nhà. Hạnh nói: Thực trạng Việt Nam
rất bi đát, nguy cơ mất nước, dân rất đau khổ.
Trong tù Hạnh nói với mẹ:
Đời người chỉ chết có một lần thôi, để cho họ thấy họ không được coi thường
tinh thần của dân tộc. Con không có tội. Những việc con làm, bất cứ công dân
nào cũng phải làm.
Trong tù Hạnh nói với cán
bộ trại giam: Cán bộ không có người thân bị mất đất, nên cán bộ không hiểu nỗi
lòng người dân oan bị mất đất. Cán bộ không làm công nhân thì làm sao hiểu được
nỗi khổ sở nhục nhã khi bị chửi mắng, đày đọa, bóc lột của người chủ. Mất từng
mảnh đất Việt Nam, tôi như mất từng miếng thịt da của mình.
Ngày mãn hạn tù 26/6/2014,
cô đã tuyên bố: May mắn đã được ở tù. Và nay Đỗ Minh Hạnh là chủ tịch tổ chức
Lao Động Việt.
- Blogger Nguyễn
Ngọc Như Quỳnh và Trần Thị Nga:
Tòa án Khánh Hòa ngày
9/6/2017 đã kết án Như Quỳnh 10 năm tù giam, 5 năm quản chế, và ngày 25/7/2017, Trần thị Nga bị tòa án Hà Nam
tuyên án 9 năm tù, 5 năm quản chế, với tội danh tuyên truyền chống nhà nước
theo điều 88 Bộ luật hình sự.
Đòn thù của đảng Cộng Sản
giáng xuống hai phụ nữ, cả hai đều có con nhỏ, đã gây sự phẫn nộ của nhiều giới
đồng bào trong và ngoài nước, gây sự phẫn nộ của các tổ chức Nhân Quyền Thế
Giới. Vì tất cả những việc làm của chị Quỳnh và Nga chỉ có mục đích bảo vệ môi
trường, sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc và bảo vệ quyền làm người chính đáng
của công dân. Với những khẩu hiệu “Cá Cần Nước Sạch – Dân Cần Minh Bạch”, “Đả
Đảo Trung Quốc Xâm Lược” và “Formosa Cút Khỏi
Việt Nam”, hai blogger Quỳnh và Nga đã nêu lên khát vọng của dân, mối
nguy của nước. Đó là sự thật hiển nhiên, nhưng đảng Cộng Sản quỳ gối trước Tàu
nên đã vùi dập con dân Việt.
Nhận xét về mức án của chị
Quỳnh, luật sư Nguyễn Khả Thành nói: “Thông thường về tội 258 hoặc 88, người ta
gọi là tội nhạy cảm, nên án bị tội này thì bản án cao lắm là 5 năm tù thôi. Vụ
án này với chị Quỳnh lại gấp đôi, tức là 10 năm thì cao hơn cả tội phạm giết
người nữa”.
Do sự bưng bít và cấm
người tham dự phiên tòa xử Trần Thị Nga, nên chúng ta không được nghe tiếng nói
của chị. Còn với Như Quỳnh, may có bà mẹ được tham dự phiên tòa, nên Quỳnh đã
có thể nói với mẹ:
- Con xin cảm ơn mẹ và các
con, các luật sư cố gắng bảo vệ cho tôi. Mỗi người chỉ có một cuộc đời, nhưng
dù được làm lại, con vẫn sẽ làm lại như vậy và con tin mẹ và các con sẽ không
bao giờ phải hối hận mà sẽ tự hào vì con.
Và nói với đảng Cộng Sản
và đồng bào:
- Tôi mong muốn xây dựng
một xã hội và đất nước tốt đẹp. Một quốc gia chỉ tự cường khi nó gắn liền với
nền tảng một xã hội mà người dân có tự do và hạnh phúc. Người dân chỉ có tự do
hạnh phúc khi có tự do ngôn luận và quyền tự do biểu đạt những điều mình mong
muốn. Tôi mong rằng mọi người sẽ lên tiếng đấu tranh, vượt qua nỗi sợ hãi của
chính bản thân mình để xây dựng một đất nước tươi đẹp hơn.
(rfa.org/vietnamese/news –
10/2/2017).
- Sinh viên Nguyễn
Phương Uyên:
Phiên tòa phúc thẩm
16/8/20013 tại Long An, xét xử Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha về tội:
Tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo điều 88 Bộ luật hình sự, đả
giảm án cho hai sinh viên. Kha từ 8 năm xuống 4 năm tù giam. Uyên từ 6 năm
xuống 3 năm và được hưởng án treo nên Uyên đã được trả tự do ngay tại tòa.
Việc Uyên và Kha được giảm
án là sự kiện đặc biệt chưa có tiền lệ trong các vụ án chính trị. Nhưng đặc
biệt hơn cần nói là trong vụ án này, Phương và Kha đã nổi bật lên là 2 người
trẻ -Uyên 21, Kha 25, đã có một nhận thức chính trị vững vàng, lý luận sắc bén
và tự tin về việc làm của mình. Vì thế, Kha đã có thể tuyên bố trước tòa:
- Tôi trước sau vẫn là một
người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi. Tôi chỉ chống
đảng Cộng Sản mà chống đảng thì không phải là tội.
Còn Phương Uyên trong
phiên tòa sơ thẩm (16/5/2013) đã khẳng khái:
- Tôi không có tội... Ông
Hồ Chí Minh nói: Một năm bắt đầu từ mùa xuân, còn người bắt đầu từ tuổi trẻ.
Tôi là sinh viên có lòng yêu nước. Nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi thì mọi
người trẻ sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Tới phiên tòa phúc thẩm,
Uyên đã tuyên bố:
- Tôi không cần giảm án.
Tôi chỉ cần tòa xử đúng người đúng tội. Tôi cho rằng chống đảng Cộng Sản không
phải là chống phá đất nước, dân tộc. Các ông đừng đánh đồng.
Những anh kiệt
Những tù nhân lương tâm
đầu tiên dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải kể là Bác sĩ
Nguyễn Đan Quế, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt... Mấy vị này bị
bắt từ 1977, 78 và người nào cũng ở tù trên 20 năm. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ
ghi lại mấy trí thức tiêu biểu, học và sinh trưởng dưới chế độ cộng sản.
- Kỹ sư Trần Huỳnh
Duy Thức:
Ông Thức bị bắt cùng thời
gian với luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung và doanh nhân Lê Thăng
Long. Ngày 20/5/2009, Duy Thức bị tòa án TP Hồ Chí Minh kết án 16 năm tù giam
về tội hoạt động chính trị nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Ông Thức là kỹ sư và doanh
nhân thành công, là tổng giám đốc công ty Dịch Vụ Điện Thoại Internet OCI. Ông
đã viết: Con Đường Nào Cho Việt Nam, nói lên những trăn trở về những vấn đề đất
nước và dân tộc và là người sáng lập Phong Trào Con Đường Việt Nam.
Trong tù Duy Thức đã mấy
lần tuyệt thực đấu tranh để giành lại những sinh hoạt của cá nhân và đòi hỏi
cải thiện đời sống nhà tù. Và trong thời gian Tổng Thống Mỹ Obama thăm Việt Nam
(5/2016), ông Thức đã từ chối đi Mỹ để đổi tự do. Việc ông chọn ở lại nhà tù
hơn là đi Mỹ giống với Vaclav Havel, kịch tác gia lớn của Tiệp Khắc, một trong
những người đã đề xướng Hiến Chương 77, đã chọn ở lại nhà tù chớ không ra khỏi
nước theo ý muốn của chính quyền năm 1979. (Hiến Chương 77 là một văn kiện đã
được khoảng 1200 nhà văn, triết gia, trí thức và nhạc sĩ ký vào năm 1977, chống
lại sự hạn chế những quyền tự do và yêu cầu chính quyền tôn trọng Minh Uớc Nhân
Quyền Helsinki (Helsinki human rights convention) mà chính quyền Tiệp Khắc đã
ký. Từ việc đấu tranh chống lại chế độ Cộng Sản Tiệp, đòi tự do dân chủ, Vaclav
Havel đã bị tù nhiều lần, và một lần đã suýt chết vì sự ngược đãi của nhà tù.
Trong những biến động cuối năm 1989, Vaclav Havel ra khỏi nhà tù đã cùng với
những nhà trí thức và sinh viên thành lập Diễn Đàn Công Dân (Civic Forum) để
đáp ứng tình thế. Sau khi chính quyền Cộng Sản sụp đổ, Vaclav Havel đã được
Quốc Hội Liên Bang bầu làm Tổng Thống của Tiệp Khắc – 29/12/1989 ).
- Luật sư Lê Công
Định:
Ngày 20/1/2010, toà án TP
Hồ Chí Minh đã kết án luật sư Định 5 năm tù giam, 3 năm quản chế về tội hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 Bộ luật hình sự và được
phóng thích 6/2/2013.
Luật sư Định là một cây
bút bình luận thời sự, chính luận sắc bén, đơn giản mà sâu. Trong các bài viết
ông cổ võ tư tưởng đa nguyên, đa đảng với lập trường dứt khoát: Đa nguyên không
đáng ngại mà trái lại rất cần thiết nếu biết điều tiết thích hợp. Đa nguyên là
động lực của sự phát triển, điều đó miễn bàn cãi.
Trong cuộc phỏng vấn của
đài Á Châu Tự Do (3/1/2016, Luật sư Định cho biết ông kiên định với lý tưởng
theo đuổi: Vì là lý tưởng nên tôi đã đã không dừng lại và đến ngày hôm nay, sau
khi đã trả giá rất nhiều rồi thì không có lý do gì để tôi phải thay đổi điều
đó. Bởi vì tôi thấy xây dựng nên một nhà nước Pháp Trị Dân Chủ thực sự là cần
thiết cho sự phát triển của đất nước cũng như mang lại những lợi ích cho người
dân.
Luật sư Định cho biết đã
mừng là ngày nay có nhiều bạn trẻ, nhiều người dân, giới luật sư và những giới
khác, đặc biệt giới doanh nhân cũng ý thức được vấn đề. Họ bắt đầu lên tiếng và
làm các công việc rất cụ thể và hữu ích. Và họ ngày càng tranh đấu cho sự dân
chủ hóa và xây dựng một nhà nước pháp trị thật sự ở Việt Nam.
- Luật sư Nguyễn
Văn Đài:
Luật sư Đài, năm 2007 đã
bị xử tù 4 năm về tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam”. Sau khi ra tù được mấy năm, ngày 16/12/2015, ông Đài lại bị bắt giam
về cùng tội trên.
Luật sư Đài đã góp phần
cho việc thành lập Khối 8406 và Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 2006. Ban đầu chỉ có
118 thành viên người Việt trong nước. Đến tháng 8/2006, số thành viên công khai
đã lên đến 1951 ở trong nước. Ngoài ra khối cũng đã có 3881 thành viên là người
Việt ở nước ngoài cùng với 139 chính khách quốc tế, gồm đại diện các tổ chức,
50 nhân sĩ Hiến Chương 77 Tiệp Khắc và 50 dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ.
Luật sư Đài là biên tập
viên của báo mạng Tự Do Dân Chủ, cộng tác viên của báo Tự Do Ngôn luận, và ông
đã viết nhiều bài nghiên cứu luật học về các quyền tự do chính trị.
Bà Vũ Minh Khánh, vợ ông
Đài cho biết, tính đến 16/7/2017, ông Đài đã bị tạm giam tròn 16 tháng sau 3
lần gia hạn lệnh tạm giam mà chưa công bố kết luận điều tra, cũng như không cho
các luật sư tiếp xúc và còn bị biệt giam. Phần bà chỉ được gặp chồng hai lần
tháng10/4/16 và 1/2017.
Tuy đang bị tạm giam, ông
Đài đã được Tổng Thống Đức Frank Walter Steinmeier trao giải thưởng Nhân Quyền
2017 của Liên Đoàn Thẩm Phán Đức ngày 5/4/2017. Ngày 10/4/17, khi định bay sang
Weimar để nhận giải thưởng thay chồng, bà Khánh
đã bị chặn tại sân bay Nội Bài
với lý do “Bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội”.
- Nhà văn Nguyễn
Xuân Nghĩa:
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa bị
bắt ngày 11/9/2008 cùng với các ông nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh, Nguyễn Văn Tính,
Nguyễn Mạnh Sơn và bà Nguyễn Kim Nhàn. Ông Nghĩa đã bị toà án Hải Phòng tuyên
án tù 6 năm, quản chế 3 năm về tội “tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ
nghĩa”, vì ông và mấy thân hữu đã treo
biểu ngữ “Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam”.
Ông Nghĩa đã lên tiếng
trước khi vào tù với bài thơ:
Tổ quốc tôi như
miếng da lừa,
Một lần ước mất đi
một góc
Ước phồn vinh:
Rừng mất cây, biển mất cá.
Ước vẹn toàn: Mất
hải đảo, mất cao nguyên.
Tôi đứng ôn hòa,
biểu ngữ chống Bắc Kinh,
Người đến đầu tiên
là cảnh sát.
Họ nhìn tôi như
nhìn loài chó ghẻ.
Tôi ngã rồi, họ
dựng chúng tôi lên,
Những nắm đấm thôi
miên vào mặt.
Họ là người Việt
Nam như tôi,
Ở chung với tôi
trên mảnh đất cỗi cằn sỏi đá,
Ở chung với tôi
mảnh đất ngàn năm vật vã.
Lo sinh nhai, lo
giữ chốn sinh tồn.
Tôi nằm lăn ra đất
Nước mắt nuốt vào
lòng
Lịch sử 4 ngàn năm
triều đại nào như thế!
(Hải Phòng 29/4/2008)
Trong bài “Con Tôi Đã Ra
Đi”, ông Nghĩa loan báo: Con trai út của ông, Nguyễn Thanh Thủy, trước sự trả
thù tàn độc của đảng Cộng Sản Việt Nam nên đi làm thuê, công an bắt chủ đuổi. Ở
trọ Hà Nội, công an bắt chủ đuổi ra đường. Có bạn gái, 2 lần bị ngăn cản nên
bạn gái đã phải khóc để chia tay. Một chế độ tàn độc đến mức khi người dân nào
đã bị khoanh tròn thì bị tiêu diệt cả hôn nhân và cuộc sống, cả sự nghiệp tương
lai nếu là người có chút học hành. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng như vậy, giống
như hàng triệu người khác, cháu quyết tâm ra đi. Lần thứ nhất năm 2014, đi du
học tại New Zealand, bị thu hộ chiếu ở phi trường Tân Sơn Nhất. May thay lần
trốn chạy thứ hai đã thành công. Ông Nghĩa cho biết khi ông viết những dòng này
thì Thủy đã đang bay đến Hoa Kỳ.
Điều cần nói hơn trong lời
loan báo – Con Tôi Đã Ra Đi – ông Nghĩa đã tố cáo một nghịch lý của chế độ độc
tài toàn trị là “Đã và sẽ có nhiều nữa con cháu của các cán bộ, đảng viên cộng
sản lớn nhỏ đương quyền bỏ nước đến làm công dân của các nước tư bản. Mâu thuẫn
là ở Việt Nam giới lãnh đạo cộng sản cưỡng bức dân chúng sống với chủ nghĩa
cộng sản của họ trong khi họ đưa con cháu sang bên kia sống với thế giới tư
bản, cái thế giới mà họ từng nói là đang giãy chết. Họ đã không và chẳng bao
giờ dám lên tiếng giải thích cho trường hợp này.
Con cái họ bị đàn áp chính
trị? Không! Chính họ đang đàn áp người dân kia mà. Họ yêu chủ nghĩa tư bản,
thích xã hội dân chủ. Vậy sao họ không dám làm điều này ngay tại Việt Nam, nơi
họ có quyền làm, vừa hợp với xu thế của thời đại và đòi hỏi của phần lớn người
dân”.
Tác dụng của những
phiên tòa
Về tác dụng của những
phiên tòa xử người yêu nước, có thể thấy 3 điều:
1. Đập vỡ lý luận
về đảng với dân là một.
Trên hệ thống báo chí của
đảng Cộng Sản, chúng ta thường được đọc câu: “Mệnh đề đảng với dân là một không
phải là câu khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa đảng với nhân
dân”. Sự khiên cưỡng đồng nhất đảng Cộng Sản với nhân dân, với tổ quốc đã giúp
đảng Cộng Sản, một mặt kết tội những người chống sự cai trị độc tài của đảng là
chống nhân dân, chống tổ quốc, và mặt khác, đảng Cộng Sản có thể nói: Xã hội xã
hội chủ nghĩa không có đối lập, chỉ có một thể thống nhất Đảng nói, dân nghe và
làm. Vì thế sự phát triển tiếng nói đòi dân quyền, tiếng nói đòi lại quyền tư
hữu của dân oan mất đất, mất nhà, tiếng nói của tù nhân lương tâm với sự đàn áp
và phát triển của lực lượng công an và nhà tù đã phá vỡ mệnh đề Đảng với nhân
dân là Một, phơi bày một sự thật là đảng với dân là Hai trong đó đảng quyền áp
chế và dân vô quyền đòi dân quyền.
Vấn đề đồng nhất đảng với
nhân dân, tổ quốc của đảng Cộng Sản trên chục năm nay đã có nhiều bài báo phân
tích và tố cáo đảng Cộng Sản đã vo tròn nhân dân và tổ quốc vào tay đảng. Nhưng
tiếng nói đơn giản, khúc chiết về một sự thật của hai sinh viên Phương Uyên và
Đinh Nguyên Kha là những tiếng nói đầu tiên trước Tòa Án Sinh Sát của đảng đã
đập vỡ Mệnh đề “đảng với dân là một”. Kha nói: Tôi không hề chống dân tộc. Tôi
chỉ chống đảng Cộng Sản. Mà chống đảng Cộng Sản thì không phải là tội. Còn
Uyên: Tôi cho rằng chống đảng Cộng Sản không phải là chống phá đất nước, dân
tộc. Các ông đừng đánh đồng.
Sức nặng của hai câu nói
không biết có làm động não mấy ông quan tòa cộng sản hay không, nhưng đã nói
lên được một nhận thức đúng về sự liên hệ giữa đảng, nhân dân và tổ quốc. Vì đảng
chỉ là một tổ chức chính trị trong nhiều tổ chức khác của một quốc gia, có thể
tồn tại trong một thời gian ngắn hay dài nào đó. Còn nhân dân và tổ quốc là một
tập hợp chung và muôn đời.
Từ lý luận đảng với nhân
dân, với dân tộc là một, không có đối lập, nên đảng Cộng Sản đã khăng khăng lập
luận Việt Nam không có tù chính trị, không có tù lương tâm, chỉ có những cá
nhân phạm pháp. Đây là sự nguỵ biện trâng tráo, có thể dùng công an và nhà tù
bắt dân Việt nghe, nhưng không thể bắt quốc tế nghe. Vì thế, những phiên tòa xử
vội với những tiếng tố cáo chế độ đàn áp tiếng nói đòi công lý, dân quyền và
nhân quyền đi nhanh và xa với hệ thống truyền thông ngày nay đã cho thế giới
nghe và thấy sự đối lập chính trị của dân Việt và sự đàn áp đối lập của chính
quyền cộng sản ra sao. Chính vì nghe và thấy được những sự thật ấy mà các tổ
chức nhân quyền và chính quyền ở các nước tư bản lên tiếng phản đối những phiên
tòa với những bản án vi phạm nhân quyền của nhà nước Việt Nam.
2. Nói lên nỗi sợ
của đảng Cộng Sản
Trong bài “Có những phiên
tòa, có những nỗi sợ” trên mạng Dân Làm Báo, ông Paulus Lê Sơn đã đặt một câu
hỏi: Xử tù người yêu nước, ai sợ ai? Và ông đã trả lời là nhà cầm quyền, với
hai nhận định: Thứ nhất là sợ quốc tế lên án về vi phạm nhân quyền, thứ nhì là
sợ lòng dân, khi thấy người dân đã can đảm, hết sợ hãi, kéo đến tòa ngày càng
đông, lỳ và ý thức hơn để đòi trả tự do cho người bị xét xử.
Và trên mạng Đàn Chim
Việt, luật sư Lê Công Định, trong bài “Nói về ngày 30/4” cũng khẳng định: Càng
ngày chúng ta thấy càng nhiều hơn tù nhân lương tâm bị bắt, nó thể hiện mối sợ
hãi ám ảnh đầu óc của người lãnh đạo. Họ luôn luôn sợ quyền lực của họ bị mất
do ảnh hưởng của người trí thức bất đồng chính kiến và cách duy nhất là họ đàn
áp, tù đày”.
Vì thế tất cả các phiên
tòa được loan báo là xử công khai. Nhưng đã có 2 sự kiện đặc biệt:
- Thứ nhất, bên ngoài tòa
án, công an rải rộng khắp nơi, chặn các ngả đường tới tòa và đàn áp bắt bớ
người tới tham dự phiên tòa.
- Thứ nhì, trong tòa chỉ
có mấy quan tòa, 1 hay 2 thân nhân của bị cáo (nhiều phiên tòa thân nhân không
được tham dự), 1, 2 luật sư và công an.
Và trong khi xử, chánh án đã không cho luật sư và người bị xử nói hết
lời. Có lẽ họ sợ sự thật, không muốn nghe sự thật, sợ không đủ lý lẽ trước việc
làm đúng của bị cáo – cái sợ của phi nghĩa độc tài bán nước trước chính nghĩa
của người yêu nước, yêu dân chủ. Do đó, phiên tòa nào cũng xử rất nhanh. Việc
của mấy ông quan toà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là làm cho có và ném bị
cáo vào tù với những bản án đã được định sẵn.
Nhìn lại những phiên tòa
gọi là công khai mà đầy bưng bít ấy, chúng tôi nhận ra một điểm là việc xử án
của chế độ xã hội chủ nghĩa đã kém xa việc xử án của chế độ thực dân Pháp. Xin
lấy một thí dụ điển hình là vụ xử nhà cách mạng Phan Bội Châu, một vụ án quan
trọng hàng đầu vì cụ Phan là linh hồn của phong trào cách mạng chống thực dân
Pháp.
Ngày 23/11/1925, cụ Phan
Bội Châu được đưa ra xét xử trước Hội Đồng Đề Hình (tòa án đặc biệt xét xử các
vụ án chính trị liên quan đến an ninh của chế độ Bảo Hộ). Xin ghi lại mấy điểm:
- Thứ nhất, lính Pháp canh
phòng nghiêm ngặt, nhưng từ tảng sáng dân chúng đã tự do lũ lượt kéo tới tòa
án, đông nghẹt từ trong ra ngoài.
- Thứ nhì, ngoài 2 luật sư
Bona và Larre được chỉ định bào chữa bênh vực cho bị can, cụ Phan đã được tự do
ung dung biện hộ, nói về những hoạt động chính nghĩa của mình trước chế độ Bảo
Hộ.
- Thứ ba, trong khi quan
tòa đang xử và viên biện lý đứng lên buộc tội, yêu cầu Hội Đồng xử tử hình thì
một người dáng nho phong len lỏi đám đông ra trước tòa, xưng tên là Nguyễn Khắc
Doanh (Tú Khắc quê Nam Trực, Nam Định) tự nguyện xin chết thay cho cụ Phan.
Việc xin chết của Tú Khắc đã làm kinh động Hội Đồng Xét Xử, và nâng cao tinh
thần của những người dân đến tham dự phiên tòa.
Theo mấy cuốn sách viết về
cụ Phan Bội Châu thì đáng lẽ Hội Đồng Đề Hình tuyên án tử hình cụ Phan, nhưng
do uy tín quá lớn của cụ cùng với tinh thần dân Việt sôi nổi trên toàn quốc khi
nghe tin cụ Phan bị bắt, nên sau một ngày xét xử, tòa đã tuyên án khổ sai chung
thân. Và một tháng sau ngày xử án (24/12/25) Toàn Quyền Varrenne ký quyết định
ân xá cụ Phan Bội Châu.
3. Hủy bỏ chính
nghĩa của đảng Cộng Sản
Trên dòng đấu tranh chống
thực dân Pháp giành độc lập, đảng Cộng Sản đã xuất hiện cùng với những tổ chức
cách mạng khác như Việt Nam Quốc Dân đảng, Đại Việt Quốc Dân đảng, Đại Việt Duy
Dân đảng... Nhưng tháng 8/1945, nhân khoảng trống chính trị ở Việt Nam khi Nhật
phải đầu hàng Đồng Minh và chính phủ Trần Trọng Kim mới thành lập được 4 tháng,
đảng Cộng Sản có tổ chức chặt chẽ đã nhanh tay cướp được chính quyền từ chính
phủ Trần Trọng Kim. Từ đó nhân danh chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, phát
động cuộc kháng chiến chống Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam (1946 - 1954), rồi
phát động cuộc chiến chống Mỹ cứu nước (1960-1975), thực ra là xâm lược Việt
Nam Cộng Hòa. Cả hai cuộc chiến này Cộng Sản Việt Nam đã nhận được sự yểm trợ
tối đa của Liên Sô và Trung Cộng, nhất là Trung Cộng. Vì thế từ hai cuộc chiến
ấy đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắc cầu cho Tàu Cộng vào Việt Nam. Sau hội nghị
Thành Đô (1990) giữa lãnh đạo hai đảng Cộng Sản Trung-Việt, Cộng Sản Việt gọi
đó là hội nghị bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Còn theo ông Trần Quang Cơ,
cựu thứ trưởng ngoại giao, trong “Hồi Ức và Suy Nghĩ” thì không phải bình
thường hóa quan hệ mà là phụ thuộc hóa quan hệ. Vì thế từ lệnh truyền “Hãy gác
lại quá khứ, hướng đến tương lai” trong bài diễn văn của Giang Trạch Dân ở hội
nghị Thành Đô, đảng Cộng Sản Việt Nam đã cấm dân Việt không được nói bất cứ
điều gì đụng đến Trung Quốc. Trước hết là phải quên trận chiến xâm lược của
Trung Quốc năm 1979, rồi xa hơn là tất cả những gì về lịch sử chống Tàu đều
phải đục bỏ. Ra lệnh cấm chiếu các bộ phim, cấm diễn các vở kịch có nội dung
chống xâm lược phương Bắc như Tiếng Trống Mê Linh, Thái Hậu Dương Vân Nga...
Tiếp theo là đàn áp và cấm
những cuộc biểu tình của trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên và dân chúng chống
Tàu xâm lấn biển, đảo những năm 2007, 2008, 2011.
Ông Hà Sĩ Phu, trong bài
“Từ Vụ Bauxite Nghĩ Về Vận Nước” trên mạng Đối Thoại đã viết: “Trong lịch sử
4000 năm đã có bao giờ thất thủ mất đất, mất biển đơn giản như thế, đã có bao
giờ ngoại bang cưỡi lên lưng, tóm lấy yết hầu, chi phối nhân sự dễ dàng như
thế? Đã có bao giờ người cầm đầu xã hội bạc nhược đến mức không dám gọi đến tên
kẻ đã đánh giết dân mình, chứ chưa nói đến có gan chống lại?”.
Đến bài “Giải Cộng Nhi
Thoát” ông lại viết: “Nguy cơ mất nước là hoàn toàn có thật. Đến lúc này nhân
dân buộc phải hỏi: Đảng và nhà nước có thực sự muốn chống xâm lược không? Cả
đến việc thông qua Luật Biển, làm nức lòng nhiều người nhưng tiến hành song
song với những động tác ve vãn kẻ xâm lược và cấm dân biểu tình thì có đáng tin
không hay chỉ là “đánh trận giả” để đánh lừa dân chúng, giúp kẻ địch tiến thêm
một bước nguy hiểm?”.
Đối diện trước nguy cơ mất
nước và sự đàn áp tàn bạo những người dân lên tiếng chống Tàu, nhạc sĩ Việt
Khang đã viết hai bản nhạc Anh Là Ai và Việt Nam Tôi Đâu? với những câu:
Giờ đây Việt Nam
còn hay đã mất?
Mà giặc Tàu ngang
tàng trên quê hương ta.
Hoàng, Trường Sa
đã bao người dân vô tội
Chết ngậm ngùi vì
tay súng giặc Tàu.
Việt Nam tôi đâu?
Việt Nam tôi đâu, Việt Nam tôi đâu?
Vì thế trong dòng đấu
tranh chống Tàu xâm lược và chống đảng Cộng Sản, ác với dân mà quỳ gối trước
giặc Tàu, những tiếng nói lớp lớp của những người tù lương tâm đã nói lên một
sự thật là đảng Cộng Sản Việt Nam đã từ yêu nước sang bán nước, là đảng Cộng
Sản đánh Pháp, đánh Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa để đưa Tàu vào thôn tính Việt Nam, đã bắc một cây cầu từ Nô
Lệ Tây Sang Nô Lệ Tàu mà cây cầu đó đảng Cộng Sản đã xây bằng xương máu của dân
Việt.
Kết luận
Trên 80 năm dưới chế độ
thực dân Pháp, tiếng bom Sa Điện của Phạm Hồng Thái, những phiên tòa xử những
nhà cách mạng Việt Nam Quốc Dân đảng, xử nhà cách mạng Phan Bội Châu... đã là
những ngọn lửa của hồn nước đánh thức quốc dân, soi sáng khát vọng đòi quyền
độc lập của dân Việt, thì trên 60 năm dưới chế độ độc tài toàn trị của đảng
Cộng Sản Việt Nam, những phiên tòa xử người yêu nước đòi công lý, đòi dân quyền
cũng là những ngọn lửa của hồn nước đánh thức toàn dân, soi sáng con đường đấu
tranh chống lại một chế độ tàn phá con người và đất nước.
Bây giờ người ta nói đảng
Cộng Sản Việt Nam không có đối thủ. Họ lầm. Xin đừng nhìn thời gian dài ngắn.
Cứ nhìn sang những nước Cộng Sản Đông Âu cuối thập niên 1980 sẽ nhận ra cái lầm
này. Vì trước 1989, Cộng Sản Đông Âu không có đối thủ, nhưng cuối năm 89 khi
người dân Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba lan, Hung Gia Lợi, Lỗ Mã Ní..., hàng triệu
người xuống đường lật đổ chế độ Cộng Sản trong một thời gian chóng mặt thì ta
thấy Cộng Sản Đông Âu có đối thủ. Đối thủ đó là lòng người, một đối thủ tiềm ẩn
lâu dài dưới chế độ Cộng Sản và sẽ hiện hình rất nhanh khi có thời cơ. Nhìn
sang Đông Âu năm 89, Liên Sô năm 90 hay nhìn sang Indonesia năm 1997, dân biểu
tình hàng triệu người lật đổ chế độ độc tài Suharto do khủng hoảng kinh tế, ta
sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa câu: Nước nâng thuyền mà nước cũng lật thuyền, mà người
Việt thường nói.
Từ đó nhìn lại Việt Nam,
với thứ chính quyền mà ông Hà Sĩ Phu trong bài Giải Cộng Nhi Thoát đã gọi là
Một Đám Cướp Lớn Phản Động, với dân là một lò tích tụ uất hận, còn với nước là
sự nguy vong trước giặc Tàu thì chuyện nước lật thuyền có thể nhìn thấy được.
Trước ánh sáng và niềm tin
bùng lên từ những phiên tòa xử người yêu nước của đảng Cộng Sản, chúng ta có
thể nói rằng dưới thời thực dân Pháp, những người yêu nước đã tạo nên dòng lịch
sử kháng Pháp đòi độc lập, thì ngày nay, những tù nhân lương tâm cũng đang tạo
thành dòng lịch sử kháng Cộng đòi dân chủ. Và chúng ta tin rằng trên dòng vận
động lịch sử ấy, những người tù lương tâm khi có thời cơ biến động sẽ cùng với
dân làm lại Việt Nam, xây dựng một đất nước dân chủ, độc lập và tiến bộ./.
Việt
Dương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire