Cách
đây khoảng mười năm, Tâm Thanh gửi tặng tôi tập truyện mới in Thiên Hương Về
Trời. Tôi vô tình nói thật lòng mình về nhận xét không thuận lợi cho đoản thiên
chính Thiên Hương Vê Trời của anh, lạ thay Tâm vẫn vui vẻ bảo:
“Ừ cậu nói đúng đấy”
Tôi đọc tiếp những đoản thiên khác,
nhưng khi tới truyện Đám Mây Bên Kia Hồ Mjoesa tôi dừng lại và đọc mấy lần rồi
hỏi Tâm:
- Tôi thấy truyện này hay nhất, lạ và
phảng phất không khí áng văn từ một xứ sở xa lạ bên trời Âu bạn ạ. Tôi muốn đưa
cho mấy tờ báo bạn phổ biến được không?
Tâm Thanh đồng ý ngay, anh còn nói đùa:
- Nếu cậu cho thêm vài dòng giới thiệu
thì tôi sẽ nổi tiếng như sóng cồn!
Làm cho bạn vui là được rồi, ít ra cũng bù đắp
lại sự vô ý vô tứ của mình hôm nọ.
Đây là truyện tình buồn nhẹ nhàng thơ
mộng như đám mây lờ lững bay qua hồ, cũng là một bi kịch đầy nước mắt của mối
tình phu thê Âu-Á. Nó cũng biểu hiện lòng chung thủy của người vợ Việt Nam, bị
phụ tình nhưng vẫn trọn đạo phu thê, tình nghĩa vợ chồng.
“Tuy bị ruồng rẫy mẹ định để tang chồng
ba năm. Trong thời gian để tang, mẹ không son phấn, và rất giữ gìn trong việc
giao thiệp với đàn ông”
Người phụ nữ Việt ở đây vẫn chung thủy
quì trước bàn thờ cầu nguyện ơn trên phù hộ hàn gắn gia đình khỏi cảnh phân ly
đổ vỡ. Thật tội nghiệp cho người đàn bà Á đông dù trong hoàn cảnh bi thương vẫn
hy vọng, vẫn sống trong mơ tưởng:
“Suốt thời gian ly thân, mẹ như sống
trong mơ, cứ tưởng ba sẽ đổi ý. Lâu lâu mẹ lấy quần áo sạch của ba đem giặt,
ủi, xếp ngay ngắn. Mẹ làm chả giò bỏ tủ đá chờ ba về bất ngờ. Đêm mẹ không khóa
cửa, ngày đi làm để chìa khóa nhà trong thùng thư. Mỗi tối mẹ bắt tôi quỳ trước
bàn thờ cầu nguyện, xin Chúa can thiệp soi lòng soi dạ cho ba hồi tâm. Nhưng ba
không quay lại”.
Kết thúc đoản thiên có hậu ở một truyện
tình kéo dài đến một phần tư thế kỷ, lại thêm một truyện tình éo le chung thủy.
“Tôi định bỏ vào bếp thì bị mẹ kéo lại
ngồi kề bên. Miễn cưỡng tôi phải ‘làm chứng’ cho một lời tỏ tình:
“Tôi sắp về hưu,” ông ngập ngừng. “Ước
nguyện duy nhất của tôi là được nắm tay bà đi vòng quanh thế giới những năm còn
lại.”
Tôi nhìn hai bàn tay ông đan nhau để
trong lòng, và mường tượng hai mươi lăm năm trước chúng đan ‘cái giỏ thơm’ để
chờ đợi. Tưởng chờ vài tiếng mẹ đi học về đã đủ, lại chờ một phần tư thế kỷ.
Bây giờ ông vẫn đan tay chờ đợi”
Bằng lối hành văn nhẹ nhàng êm dịu như
một bản tình ca không thấy trong văn chương Việt Nam. Độc giả có cảm tưởng như
một áng văn từ một chân trời xa lạ miền Bắc Cực xa xăm, nơi mà dân Việt tỵ nạn
đã một thời được người Na Uy quí hóa như vàng: cho tiền trẻ con, cho người lớn
đi xe công cộng miễn phí.
Tâm Thanh như dẫn người đọc tới xứ sở
thần tiên bằng một bài thơ kỳ diệu, có lẽ đây là đoản thiên thơ mộng và tuyệt
vời nhất của tác giả, cũng đồng thời xứng đáng được coi như một trong những
kiệt tác của nền văn chương Việt Nam Hải ngoại, xin mời quí vị cùng đọc dưới
đây
Trọng Đạt
Viết để tưởng nhớ một ngượi bạn cũ Arlingtton Texas đầu
tháng 3-2020.
* * *
Đám mây bên kia hồ Mjoesa (Tâm Thanh)
Tôi không dám nhìn lâu vào đôi mắt khẩn
khoản của Gunnar. Tôi phải nhìn sang bên kia hồ Mjoesa, nơi có dẫy núi phủ mây
trắng, dường như quanh năm; nơi mỗi lần có điều khó nghĩ tôi thường nhìn sang,
dù đó là điều khó nghĩ của đứa bé bảy tuổi không biết viết thư cho Ông Già
No-en phải gián tem bao nhiêu, có bớt giá cho con nít không hay điều khó nghĩ
của một đứa con gái dậy thì nên mua cái áo hở ngực tới đâu, và giờ đây phải trả
lời với người yêu ra sao. Gunnar tình cờ ngồi đúng cái ghế da mà ba tôi ngồi
hôm đó, và tôi thì lại tình cờ ngồi đúng cái ghế da chị Lên ngồi, cái hôm kỳ
cục đó.
Chị Lên là con lớn của dì Hoa, em ruột
mẹ tôi. Chị có thân hình như một nữ lực sĩ bơi lội. Mỗi lần chị theo dì Hoa,
cậu Dựng tới thăm gia đình tôi, chị thường “chào” tôi bằng cách nâng tôi lên
trời ba lần. “Nữa đi!” tôi cười khanh khách nói. Và chị tung ba lần nữa. Sau đó
chị lên phòng khách ngồi nói chuyện với ba trong khi mẹ và dì Hoa vào thẳng bếp
chuyện trò và nấu phở. Những người khác, như cậu Dựng và mấy anh chị lớn, ngồi
trong phòng TV nói chuyện, uống bia, uống nước ngọt, trước cái tivi mở không.
Tôi nhảy vào lòng chị Lên, hóng chuyện, mặc dù không hiểu lắm ba và chị Lên nói
gì. Thì thường là chuyện học hành và tập aerobic của chị Lên, chuyện báo đăng
chó sói ăn thịt cừu, chuyện một tên cướp ngớ ngẩn, đánh cắp bưu điện để người
ta tóm cổ tại chỗ. Có lần hai người tranh luận con bò có răng hay không, ba nói
bò không răng, chị Lên nói có răng... Tôi thầm đồng ý với chị Lên rằng con bò
có răng mới gặm cỏ được, nhưng tôi im lặng, nghe sau lưng thân hình nẩy nở và
rắn chắc của chị, khác hẳn thân hình nhỏ và mềm của mẹ. Trong số những người bà
con bên mẹ tôi, ba tôi không thích nói chuyện với ai cả; ba chê họ nói tiếng
Na-uy dở quá, mà lại hay nói to, điếc cả tai; ba chỉ thích nói chuyện với chị
Lên. Tôi để ý lúc nói chuyện với chị, ba tươi tỉnh khác thường. Chị Lên hay
vuốt tóc khiến tôi buồn ngủ, tai lơ mơ nghe tiếng nói đều đều của hai người xen
kẽ với tiếng cười vang trong lồng ngực to của chị Lên.
Hôm đó tôi nghe loáng thoáng ba đề nghị
để ba tập lái xe cho chị Lên, và chị rất hào hứng, hai người hẹn ngày giờ nơi
chốn. Rồi ba khen chị Lên đẹp. Chị nói chị chẳng có cái gì đẹp. Ba nói bữa nào
đi hồ tắm với ba, ba sẽ chỉ cho coi chị đẹp chỗ nào. Chị cười khanh khách nói
“Có vợ rồi mà còn nói nhảm.” “Mặc kệ, giết vợ để lấy Lên tôi cũng sẵn sàng,” ba
trả lời. Tôi nói hôm đó là cái hôm kỳ cục là vì thế.
Sau đó, chị Lên có đi hồ tắm với ba và
có đi học lái xe với ba hay không, tôi không rõ. Chỉ biết có lần dì Hoa cậu Dựng
tới nhà nói chuyện gì có vẻ rất trầm trọng. Mẹ và dì Hoa to tiếng với nhau rồi
cùng khóc. Tôi chỉ hiểu một chút tiếng Việt, và chỉ nghe người lớn nhiều lần
nhắc tên “con Lên” và chữ “ông ấy” mà tôi hiểu là ba. Từ đó chị đi biệt tích.
Gia đình dì Hoa không tới nhà tôi nữa. Tôi nhớ chị lắm, ngày tôi chịu phép Thêm
Sức chị không tới dự, tôi hỏi chị đâu thì người lớn trả lời chị đang ở bên Mỹ.
Nhiều năm về sau, khi bắt đầu có bạn trai, tôi mới tình cờ biết rằng chị Lên đi
Mỹ thật, nhưng chỉ chừng nửa năm lại quay về, sau lấy một người Thổ. Chị sang
Thổ-nhĩ-kỳ ở một năm, được một đứa con trai, bị ngược đãi, phải nhờ tòa đại sứ
Na-uy can thiệp giải cứu về lại Na-uy. Cũng nhờ tòa đại sứ can thiệp chị mới
mang được cả đứa con về. Khi tôi gặp chị trên xe điện với một đứa con trai tóc
quăn tít và ngổ ngáo, chị kể chuyện về mười năm luân lạc, nhiều lần bi thảm hơn
những điều tôi đã nghe qua dì Hoa hoặc người ngoài. Thấy tôi chăm chú nhìn vào
cái bụng dềnh dàng, chị cho biết bây giờ chị đang ở với một ông người Bosnia cư
trú bất hợp pháp; cái bầu là của ông này. Chị không nhắc gì tới ba. Tôi cũng
không hỏi hôm đó tại sao mẹ và dì Hoa khóc, cũng như ngoài thằng bé tóc quăn
đang ngồi bên cạnh và đứa con trong bụng, chị còn đứa con nào nữa không. Về nhà
thấy ba mẹ vẫn sống chung, ăn uống chung, đi xe chung… không nói làm gì – thấy
ba làm như mọi sự bình thường, thì tôi thấy lợn cợn trong lòng. Trong trái tim
tôi.
“Cecilia! Em có nghe anh nói không?” Gunnar kéo tôi về thực tại.
Tôi rời ánh mắt khỏi dẫy núi bên kia hồ,
quay lại nhìn Gunnar. Anh vẫn nhìn tôi chờ đợi.
“Dạ, em nghe,” tôi trả lời.
“Dạ, em nghe,” tôi trả lời.
“Sao em không đáp?”
Phải, lẽ ra tôi phải vui mừng đáp “Dạ”
ngay khi Gunnar ngỏ lời hỏi có bằng lòng cưới anh không. Chúng tôi quen nhau từ
cuộc cắm trại chuẩn bị lễ Thêm Sức, rồi thân thiết trong nhiều năm; trong bụng
tôi vẫn mong chờ giờ phút anh ngỏ lời. Nhưng tại sao khi nó xảy đến, lòng tôi
không thể vui mừng như mong đợi?
“Gunnar! Em bối rối lắm,” tôi đáp. “Anh
tha lỗi cho em, em không trả lời bây giờ được.”
“Tại sao? Có điều gì trở ngại?”
“Dạ không, hoàn toàn không.”
“Em
có yêu anh không, Cecilia?”
“Anh biết là em yêu anh.”
“Vậy tại sao em không trả lời ngay mà
lại bắt anh chờ đợi?”
“Em
cần thời gian suy nghĩ.” Tôi
vớ được một lý lẽ xem ra vững chắc. “Chúng ta phải xét xem hai đứa đã sẵn sàng
kết hôn chưa.”
“Chỉ cần em hứa một lời, rồi bao giờ đám
cưới cũng được,” Gunnar nói xong, ngả người ra sau. Mái tóc nâu vàng tươi của
anh chạm vào chùm hoa hồng vân trắng, loài hoa mà mẹ lấy giống từ Pháp về và
đặt tên là hoa ti-gôn. Bạn bè Việt Nam của mẹ có vẻ thích cây hoa này lắm; còn
ba thì cười vì mấy bà trọng hóa cái hoa vô danh đó. Anh nghiêng người về phía
trước, cầm ly cà-phê.
“Cà-phê nguội rồi,” tôi nói. “Để em rót
mới cho anh!”
Anh không từ chối. Tôi vào bếp đổ cà-phê
cũ và rót mới cho anh. Anh uống một hớp nhỏ,
hình như nóng quá, đặt tách xuống nói,
giọng trở lại bình thường:
“Mình
đi dong thuyền buồm nghe em?”
Tôi nhìn ra ra hồ nói thẫn thờ
“Hôm nay sao nhiều buồm vậy?” Rồi tôi
lẩm bẩm “Tình yêu không thể coi thường được.” Anh ngơ ngác, vì không nghe hoặc
nếu nghe thì không hiểu hai câu nói không ăn nhằm gì với nhau và không trả lời
vào câu hỏi của anh như thế. Hồi này tôi hay như vậy, anh cũng biết.
Bề ngoài tôi chỉ có vài nét giống mẹ -
vành môi chúm và ngón chân cái to khác thường, ngoài ra tâm hồn tôi có nhiều
nét giống mẹ. “Nó Việt Nam lắm,” mẹ khoe. Còn tôi lại lo sợ về cái ‘giống’ đó.
Sợ nhất là con đường tình cảm của tôi sẽ như mẹ, nghĩa là cúi đầu chịu đựng. Dì
Hoa kể mẹ tôi là cô gái đẹp nhất trong số những người tị nạn Việt Nam đầu tiên
tới Na-uy. Mẹ đẹp và dễ thương tới nỗi có một ông thuyền trưởng ngày nào cũng
mang quần áo, thực phẩm tới trại tạm cư để được nhìn mẹ, nói vài câu tiếng Pháp
với mẹ. Hôm nào mẹ đi học tiếng Na-uy về trễ, ông cứ ngồi trong phòng khách, bồn
chồn chờ đợi. Có lần cô giáo đưa cả lớp đi coi nhà bảo tàng rồi đi picnic, ông
chờ lâu quá, buồn tay, đem cái giỏ mây của mẹ đan giở ra đan. Bây giờ mẹ và dì
Hoa cứ còn tiếc nuối cái thời người Na-uy quí người tị-nạn Việt Nam như vàng,
con nít ra đường họ cho tiền, người lớn lên xe công cộng đôi khi họ cho đi miễn
phí, các hội từ thiện thay phiên nhau tới ủy lạo. Ông thuyền trưởng buồn tay
đan hết mấy cái giỏ mây mà hội Hồng Thập Tự bày ra cho các bà các cô trong trại
làm để có thêm chút tiền túi; bắt đầu bằng cái giỏ của mẹ, rồi sang mấy cái của
các bà khác. Các bà về thấy thế, cười ré lên, các cô hát bài “Anh là thủy thủ”.
Ông không hiểu tiếng Việt nhưng biết bị chế diễu, mắc cỡ, nói với nhân viên
trực trại “Xin lỗi, tôi quên!” Các bà các cô chưa tha, hỏi “Quên cái gì?”, rồi
lại cười ré lên. Nhưng không bao giờ ông quên mẹ. Sau khi mẹ lấy ba, ông vẫn
chưa lấy vợ. Vài người quen Việt Nam tò mò hỏi, ông trả lời thẳng “Tôi chỉ yêu
Hương thôi.” Hương là tên mẹ tôi. “Vậy chứ sao hồi đó ông không nói sớm?” một người
cắc cớ hỏi ngay trong đám cưới mẹ. Ông trả lời “Tôi tưởng tình yêu không cần
nói bằng lời.” Lại có người hỏi “Hồi đó sao ông biết cái giỏ nào là của Hương?”
Ông trả lời “Biết chứ, nó thơm và đẹp.” Vậy mà hai người không lấy được nhau –
chỉ vì một người ít lời một người giữ ý.
Ba thì dư lời. Ba tôi gặp mẹ lần đầu khi
mẹ đi lãnh tiền ở ngân hàng mà quên đem căn cước. Mẹ đứng năn nỉ với cô nhân
viên ngân hàng “Bây giờ tôi về lấy giấy căn cước trở lại thì ngân hàng đóng cửa
mất tiêu rồi. Xin cô tin tôi một lần đi. Tôi là người lương thiện mà!” Sự kiên
nhẫn của cô ngân hàng chỉ làm cho cuộc nói chuyện kéo dài thêm, chớ không cho
phép cô vượt qua thể lệ. Bỗng một người đàn ông từ văn phòng đi ra, thấy mẹ,
dừng lại nghe cuộc đối thoại. “Ông ơi!” mẹ kêu cứu. “Có việc gì vậy, thưa cô?”
ông hỏi. Mẹ nói “Ông! Ông làm ơn bảo đảm cho tôi là người lương thiện được
không?” Ông mặc đồ lớn đó nghe mẹ nói, bật cười, đưa bút ký tắt vào ô “Căn
cước” trên tờ ngân phiếu. Mẹ lãnh tiền xong, nhìn vào trong, thấy ông mặc đồ
lớn còn đứng ở cửa văn phòng nhìn ra, gật đầu mỉm cười. Tình cờ, trong một buổi
tiệc hội Lion khoản đãi người tị nạn Việt Nam, ông giám đốc ngân hàng gặp lại
“cô gái lương thiện” lộng lẫy trong chiếc áo dài. “Trên đời tôi chưa thấy ai
đẹp như cô. Tôi muốn cưới cô,” ba nói sau nửa giớ nói chuyện.
Sau khi chị Lên bỏ nhà ra đi một thời
gian ngắn, lúc đó tôi bắt đầu học lớp năm tiểu học, ba tôi quen bà Bodil mà ba
bảo tôi phải kêu bằng tata. Không có một thỏa thuận nào, dù thầm kín, nhưng tôi
vẫn coi những buổi đi chơi nhà tata là việc hoàn toàn riêng tư giữa ba con tôi
với tata, không liên quan gì tới mẹ, không cần kể với mẹ. Nhà tata lại hấp dẫn
hơn, sẵn đồ chơi, nhiều phim hoạt họa, và có con chinchilla. Khi tata mua thêm
con nữa thì hai con làm chuyện trống mái tự nhiên. Một lần, vuốt ve bồng bế con
chinchilla mềm mại lù đù mãi cũng chán, tôi định xin ra ngoài đạp xe với lũ trẻ
trong xóm. Mở cửa phòng ngủ, tôi thấy ba nằm chung giường với tata. Tata một
tay kéo mền che ngực, tay vẫy tôi lại, mi một cái, rồi xua ra ngoài. “Người lớn
không khác gì mấy con chinchilla,” tôi nghĩ trong khi thả xe phăng phăng xuống
giốc.
Khi tôi lớn ba ít rủ tới chơi nhà tata,
nhưng tôi biết hai người vẫn đi lại mật thiết. Tôi cũng bắt đầu cảm nhận ra
rằng mối liên hệ giữa ba và tata là một việc thầm lén, nhưng không có cam đảm
mách mẹ, sợ mẹ rầy sao không nói sớm. Tôi bỏ qua câu chuyện một bên luôn. Ông
nội tôi rất giầu, có để lại cho ba một hòn đảo riêng, trên có hai cái nhà nghỉ
mát, có bến tầu riêng. Ba nói sẽ chia đôi, cho tôi một nửa, một nửa cho hai
người anh cùng cha khác mẹ của tôi. Mùa hè năm đó, ba hỏi mẹ có ra đảo chơi không,
mẹ bận đi ăn thôi nôi con một gia đình Việt Nam. “Vậy anh đi với con Cecilia,”
ba nói, và sửa soạn lên đường ngay. Ba hối hả quẹo xe lên đón tata cùng đi. Tôi
thấy tata làm tóc mới và diện quần áo đẹp, trông trẻ trung như một cô gái. Đi
hơi vội, nên mặc dầu mẹ có chuẩn bị đồ ăn cho cha con, nhưng lại quên nhét theo
cái áo thung của mẹ. Tôi có cái tật phải kề mũi vào cái áo thung có hơi mẹ mới
ngủ được, dù đã mười lăm mười sáu tuổi đầu. Tối hôm đó, không có cái áo thung,
tôi nằm trằn trọc hoài, nghe con thuyền va kềnh kệch vào cầu tầu. Mặt trời
không chịu lặn, mấy con hải âu cũng không chịu đi ngủ, cứ kêu réo ngoài ghềnh.
Cuối cùng tôi nghĩ ra một điều: tôi đổi sang cái phòng ngủ bữa trước mẹ nằm, có
thể còn hơi mẹ. Phòng này sát vách phòng ba và tata. Qua vách gỗ, tôi nghe rõ
hai người trửng dỡn bên kia và trong những lời trửng dỡn có câu nói của ba
“Giết vợ để lấy em, anh cũng sẵng sàng!” Tôi giật mình.
“Nếu không lấy được em, anh thà chết
dưới hồ này!” Gunnar cột giây buồm, lại ngồi bên tôi, nói.
Hai người đàn ông quan trọng nhất trong
đời tôi, người thì đòi giết vợ để đi phiêu lưu, người thì đòi chết nếu không
được gắn bó. Bề nào chăng nữa, tình yêu của họ là giông bão, hủy diệt. Lòng tôi
không yên ổn. Một lần nữa tôi trì hoãn:
“Vậy mình sang bên kia hồ đi, Gunnar
nhé!”
Tôi nhích sang bên, nhường tay lái cho
anh. Dẫy núi bên kia thấp nhô trên đám mây như con tầu khổng lồ trôi trên sóng
bạc.
Thuyền buồm băng qua hồ và trở về bình an; như thường lệ. Sự bình an này trước nay tôi không để ý. Thấy tôi về mẹ ôm chầm lấy mà khóc:
“Con đi đâu vậy? Ba bị bệnh vô nhà
thương rồi!”
“Ba bị gì vậy, mẹ?” tôi hoảng hốt.
“Mẹ không biết. Ba mẹ đi phố về, ba kêu
mệt đi nằm. Mẹ làm bếp xong vào phòng coi ba thì nghe ba ú ớ, rồi im luôn, mẹ
hỏi, lay không trả lời. Mẹ kêu xe cứu thương...”
Chúng tôi vào nhà thương, thấy ba đã
tỉnh, nhưng sút hẳn người đi, như bệnh từ nhiều tháng nay. Mẹ khóc, vuốt vuốt
những chấm đỏ trên mu bàn tay ba, nói:
“Bác sĩ nói sao, ông?”
“Ung
thư máu.”
“Ông
ơi! Ông đừng chết nghe!”
Nhìn ánh mắt mẹ khi đút xúp cho ba, nhìn
nụ cười của mẹ khi cắt móng chân cho ba và đưa bàn chân ông lên mũi hửi, tôi
thương mẹ quá, và hối hận xưa nay coi bà Bodil là tata.
Bà Bodil cũng biết tin dữ. Bà ngang nhiên vào thăm ba như một người thân. Mẹ hỏi ba:
“Ai vậy, ông?”
Bà Bodil cũng biết tin dữ. Bà ngang nhiên vào thăm ba như một người thân. Mẹ hỏi ba:
“Ai vậy, ông?”
“Người quen.”
“Quen ra sao? Sao chưa bao giờ tôi gặp
mặt?“
Mặt ba sượng trân, trông rất kỳ cục,
tránh nhìn mẹ, quay sang tôi, như cầu cứu. Tôi không hiểu sự cầu cứu đó có
nghĩa gì - tôi nói ra sự thật giùm ba hay giấu biệt. Cuối cùng, chán ngán sự
giả dối, tôi kể hết sự thật cho mẹ nghe khi chỉ có hai mẹ con ở nhà. Mẹ nghe
một cách bình tĩnh khiến tôi phát sợ. Tôi giấu không nhắc câu nói “Giết vợ để
lấy em anh cũng sẵn sàng”. Bởi vì tôi biết nếu tôi nói ra mẹ có thể chết được,
không cần ai giết.
Hôm sau chúng tôi lại chạm mặt bà Bodil
trong nhà thương. Mẹ nhịn nhục không nói gì. Ngược lại bà Bodil còn khiêu
khích:
“Ở đây dư một người đàn bà!”
Mẹ không mau mồm miệng như người ta,
không biết trả lời sao cả. Lúc đó bà Bodil ngồi trên ghế kê sát giường bệnh, mẹ
đứng cuối giường, tay xách giỏ đồ ăn. Tôi nắm tay mẹ để xác định vị trí của
mình, nói:
“Người dư là bà!”
Mẹ xiết chặt tay tôi hơn nữa. Bodil
không ngờ phản ứng của con bé mà lâu nay bà tưởng đặt lòng trung thành nơi
‘tata’ hơn người mẹ ngoại quốc.
“A! Thì ra rau nào sâu nấy!” Bodil nói
giọng khinh khỉnh, tay nắm tay bệnh nhân, tay vuốt mái tóc hoa râm của ông.
Tôi cho rằng chỉ mẹ tôi mới có quyền
vuốt tóc ba. Tôi định tiến tới kéo tay Bodil ra, nhưng mẹ biết ý, trì tay tôi
lại, nói:
“Để
cho ba con yên!”
Rồi mẹ kéo tay tôi ra ngoài hành lang,
ngồi chờ. Chờ cho tối mịt bà Bodil vẫn không ra, mẹ xách giỏ cơm đi về.
Sáng hôm sau, xảy ra một điều không bao
giờ mẹ chờ đợi -- ba yêu cầu mẹ ký giấy xin ly dị.
Mẹ và tôi theo Công giáo, ba theo Quốc
giáo Tin lành. Hơn nữa mẹ tôi là người đàn bà Việt Nam xưa cũ. Tôi biết rằng mẹ
dễ dàng chấp nhận cái chết nhưng không bao giờ chấp nhận và tưởng tượng có ngày
mình phải ly dị. “Chồng bỏ mình cứ bám lấy, bỏ được sao?” Mẹ lý luận như thế
đó. Mặc dù thống kê nói cứ một trăm cặp lấy nhau thì có gần năm chục cặp thôi
nhau, mẹ thường nói rằng năm mươi phần trăm đó rơi béng đi nơi khác, không bao
giờ rơi vào giữa mẹ với ba.
“Ly
dị à?” mẹ ngẩn ngơ. “Sao ông không chờ khỏe đã?”
“Bà
thông cảm cho tôi,” ba thiểu não.
Mẹ
cầm cây bút có huy hiệu quen thuộc ngân hàng của ba.
“Mà
tôi đã làm gì nên tội?” mẹ khóc.
Tôi cực kỳ bối rối. Vừa thương mẹ vừa
thương ba. Nhưng hình như tôi lo sợ ba chết quá đến nỗi quên nỗi đau đớn của
mẹ, quên tức cho sự khờ dại nhu nhược của mẹ. Và dường như chính mẹ cũng quên
nỗi đau đớn của mình, hoặc không lường được tầm quan trọng của ngòi bút sắp sa
xuống. Như một cái máy, mẹ nức nở đặt bút xuống tờ giấy:
“Xưa
ông đã ký bảo đảm cho tôi là người lương thiện!”
“Kìa
ba! Kìa má!” tôi rên rỉ, trong tuyệt vọng.
Ba làm như không nghe, không thấy. Ba
quay mặt vào tường. Dường như ba cũng đau lòng, nhưng không đau lòng đủ để đổi
ý, cản má lại. Tôi tưởng tượng nếu bây giờ má đau lòng mà chết, ba cũng lừng
lững mà đi con đường của mình. Có phần nào thật trong câu nói ghê gớm của ba.
Của đàn ông!
Má ký xong, oà khóc chạy ra ngoài, tôi
theo dìu má ra xe.
“Mẹ để con lái xe cho,” tôi nói.
Trên đường về, tôi cứ bị ám ảnh vì câu
nói của ba “Giết vợ để lấy em anh cũng sẵn sàng”. Người như ba, nhu nhược ngay
trong tình yêu, chắc không giết ai được; nhưng ông giết niềm tin của tôi vào
tình yêu.
Suốt thời gian ly thân, mẹ như sống
trong mơ, cứ tưởng ba sẽ đổi ý. Lâu lâu mẹ lấy quần áo sạch của ba đem giặt,
ủi, xếp ngay ngắn. Mẹ làm chả giò bỏ tủ đá chờ ba về bất ngờ. Đêm mẹ không khóa
cửa, ngày đi làm để chìa khóa nhà trong thùng thư. Mỗi tối mẹ bắt tôi quỳ trước
bàn thờ cầu nguyện, xin Chúa can thiệp soi lòng soi dạ cho ba hồi tâm. Nhưng ba
không quay lại. Ba nhất định ly dị.
Ly dị xong, ba làm lễ cưới với Bodil
liền. Trên giường bệnh. Lễ cưới xong, Bodil không tới nhà thương nữa.
Một
tuần sau, ba chết trong tay mẹ.
Bà quả phụ Bodil chỉ xuất hiện để nghe
luật sư công bố chúc thư. Theo di chúc, hòn đảo của gia đình chia hai, một nửa
phía nam với nhà nghỉ mát trên đó thuộc hai người anh cùng cha khác mẹ với tôi,
nửa phía bắc cũng có nhà nghỉ mát và bến tầu thuộc về người vợ chính thức hiện
tại, Bodil. Biệt thự mà ba mua để ở với Bodil trong những tháng cuối đời thuộc
về bà, đương nhiên, vì đứng tên bà. Mẹ con tôi được tiếp tục ở và làm chủ ngôi
nhà bờ hồ.
Ba mất được ba tháng thì bà Bodil đi lấy chồng khác, nghe đâu hôn lễ cũng cử hành trên giường bệnh. Người hằng ngày ra thắp nến trước mộ ba là má. Tôi giận ba không thắp nến, má nói “Ở Trên Đó cái lòng người ta không như dưới dương thế này nữa đâu con ơi.” Tuy bị ruồng rẫy mẹ định để tang chồng ba năm. Trong thời gian để tang, mẹ không son phấn, và rất giữ gìn trong việc giao thiệp với đàn ông. Mỗi lần ông thuyền trưởng tới, mẹ bắt tôi ngồi cạnh. Lần đầu tiên thấy mặt người đã đeo đuổi mẹ mình trước khi mình ra đời, tôi có cảm giác rất lạ. Như là tôi nằm trong bụng mẹ mà dòm ra thế giới. Lạ lùng hơn nữa là tôi thấy gần gũi ông ngay, như một người cha.
Tôi bưng cà-phê ra, ông nhìn một cách
thân ái, nói cám ơn. Cái nhìn của ông dành cho tôi khác hẳn cái nhìn trước đây
ba dành cho chị Lên, mặc dù tình cờ ông ngồi đúng cái ghế da ba ngồi. Còn mẹ
ngồi trên cái ghế chị Lên ngồi hôm đó. Tôi định bỏ vào bếp thì bị mẹ kéo lại
ngồi kề bên. Miễn cưỡng tôi phải ‘làm chứng’ cho một lời tỏ tình:
“Tôi sắp về hưu,” ông ngập ngừng. “Ước
nguyện duy nhất của tôi là được nắm tay bà đi vòng quanh thế giới những năm còn
lại.”
Tôi nhìn hai bàn tay ông đan nhau để
trong lòng, và mường tượng hai mươi lăm năm trước chúng đan ‘cái giỏ thơm’ để
chờ đợi. Tưởng chờ vài tiếng mẹ đi học về đã đủ, lại chờ một phần tư thế kỷ.
Bây giờ ông vẫn đan tay chờ đợi.
Mẹ lặng đi hồi lâu, mặt đỏ hồng không
son phấn. Tay mẹ vò chéo áo không vắt xổ. Mẹ cố lấy giọng bình thản:
“Ông đi đây đi đó cả đời chưa thỏa sao?”
“Đi một mình có tới đâu đâu...”
Thấy câu chuyện tới hồi đậm đà, tôi gỡ
tay mẹ, khoác áo ra khỏi nhà. Tôi xuống bờ hồ ngồi trên tảng đá quen thuộc nhìn
sang bên kia. Đám mây thiên thu như xây bằng cẩm thạch.
Tâm Thanh
Tâm Thanh
Trích trong tuyển tập Thiên Hương Về
Trời
Xuất bản tháng 10-2010
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire