Không
biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi
dường như chùng xuống. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn
chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi
trường của tôi, cũng như thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư
và viết bài hoặc đi đó đi đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó
trong tôi. Nhưng bây giờ, mặc dù đã giã từ nợ áo cơm, nhưng niềm u uẩn trên vẫn
tiếp tục còn trong tôi ngày càng…dai dẳng hơn thêm.
Tại sao
lại có hiện tượng như vậy trong tôi?
Có
lẽ, vì tuổi đời ngày càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên
quê hương còn xa vời vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và điểm thêm
đôi nét tuyệt vọng trong tâm tư?
Bỏ
qua những ngày tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên sau
30/4/1975, phải thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để
“buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu
nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa con dại…
Bỏ qua
những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì
mấy cũng như không có thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm
dung nơi xứ người.
Nhưng chỉ
trong vòng 25 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt
đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực
sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi
hơn.
Buồn
để mà buồn một mình!
Không thể nào
nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi
buồn thực sự của tôi vì hai lý do: – Đất Nước còn điêu linh, – và Bà
con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế
độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
Nhìn lại
những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn
đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình…mặc dù biết rằng
miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ.
Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi tiền, làm…áp phe, hay
do là tin tức tìm đường ra đi.
Tin tức đồn
đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.
Nhưng nỗi buồn
của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ
tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết,
mà khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt
Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ
tư 09/4/1975.
Tới thứ hai
tuần sau đó vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây
Ninh, tôi lại được mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi
Bà cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê
hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như
người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại
thêm một lần “phiêu diêu” nữa.
Đi?
hay Ở?
Hai
chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm
đó.
Hình ảnh Ba
tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm
cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi,
sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gữi đi cho kịp chuyến máy bay Air France
bay về Pháp, để cho con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy
ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên
Pháp cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhựt và thứ hai sau đó tôi vẫn
nhận được thư ba viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.
Còn Má tôi.
Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…Mà cũng chính trong
thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, chuẩn bị cho
con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han
đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng
không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật
có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong tôi. Và giờ
đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh mẹ để sám
hối.
Trở lại thời
gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.
Đi không
đành cũng vì mẹ già đơn côi.
Đi không
đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một “cái gì” cho
quê hương.
Và
đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiểu người suy
nghĩ như tôi), đó là “Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước
khi họ là cộng sản, họ cũng là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy
mình có thể hợp tác được”.
Khi đã biết
sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam
dưới chế độ nầy. Biết là sai lầm trong giai đoạn đó, nhưng tôi không bao giờ
hối hận vì quyết định trên. Vì sao? Vì chính cái sai lầm oan nghiệt nầy
đã làm cho tôi hiểu được người cộng sản Bắc Kỳ như thế nào…và chính điều
sau nầy làm cho tôi dứt khoát hơn là chúng ta, những người con Việt
hiền hòa không thể nào sống chung với những người luôn mang não trạng chuyên
chính vô sản và không có tình người.
Cái
sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký khi đi học tập
về cùng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại
góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới
biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”
Chiều thứ hai
28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao
tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó
lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong
niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức.
Tôi đã
chứng kiến được gì và đã học được gì?
Xin ghi
lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những đứa con Việt
trước cảnh quốc phá gia vong. Đó là:
Hình ảnh một
Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình
ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng
như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và
trong từng tiếng nấc “Anh xem như em đã chết ngày hôm nay”.
Hình ảnh từng
đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư
xá trong lúc tháo chạy và chở người đi ra hạm đội.
Hình ảnh những
người lính tôi không còn nhớ Dù hay Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục chiến đấu ở
cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Xanh. Tiếng súng bắt đầu
ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Và
tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến
đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.
Chuyện ĐI
và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy, không khác chi khúc
quành của nhân vật Thiệu “phải” rời bỏ khúc quành của con sông Đuống đầy kỷ
niệm tuổi thơ với Yến, người bạn thời trẻ thơ mà sau nầy trở thành…người tình
muôn thuở cho đến cuối đời, để di cư vào Nam tìm tự do. (trong quyển
tiểu thuyết “Dòng sông định mệnh” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ).
Qua ngày thứ
năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến
trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa
trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên
tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.
Mọi sự có vẻ
êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương
thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đão lộn những suy nghĩ tốt đẹp
trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách
đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn
chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là
những người nầy ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương
tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẻn.
Có những chị
giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí
còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga xe nữa. Và hơn nữa, có giáo sư
trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngũi của tôi, đã xem tôi như “thần
tượng” mặc dù biết tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung; thậm
chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của
chế độ.
Làm sao
tôi quên được lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1đ tiền “chính phủ
cách mạng lâm thời miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500 đ tiền Việt
Nam Cộng Hòa hay “tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi
gia đình 100.000 đ mà thôi.
Làm
sao tôi quên được lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1 đ “tiền
thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân hàng nhà nước” lấy 1 đ tiền “ngân hàng Việt
Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi 100 đ mà thôi.
Làm
sao tôi quên được lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1 đ tiền
ngân hàng nhà nước cũ lấy 1đ tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc
Nam).
Làm sao
tôi quên đượt lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch
thu nhà những người được cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến địch
nầy gọi là X1.
Làm sao
tôi quên được lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới
cuối năm 1990 nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công
nghệ, ước tính trên 14.000 gia đình tại Sài Gòn.
Làm sao
tôi quên được lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành
với chiến dịch X2 tại Sài Gòn nhằm mục đích trục xuất người củ ra khỏi nời ở và
điền khuyết vào bằng gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm
mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Tính đến tháng
9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi Sài Gòn, và có khoảng
150.000 gia đình cán bộ Bắc kỳ được điền khuyết vào.
Làm sao
tôi quên được những đợt học tập cải tạo, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng
vào tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực
cho một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một
hai năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp
của Việt Nam Cộng hòa….
Trên đây, xin
diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý
nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong. Xin chia xẻ cùng
bà con.
Đây không phải
là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.
Nơi đây tôi
chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.
Đó là:
Truyết,
mầy đừng bao giờ mơ tưởng những người Việt cộng sản Bắc kỳ là người Việt Nam.
Và để thoát
khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều
hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:
Đứng trước quá
khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY
ÁO (H.L.Mencken) và chúng ta phải tiếp tục giữ lửa Quê
Hương trong lòng mãi mãi.
Lời ca của cố
nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang đã kéo tôi về với thực tại, bài “Không
phải là lúc”, bắt đầu bằng “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề”,
để rồi kết thúc bằng một quyết tâm dứt khoát “…Làm việc đi không lo
khen chê, làm việc đi hãy say và mê, cứ bắt tay gan lỳ, chúng ta giải quyết.
Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi đây nghĩ lo viễn vông, thắc mắc ngại
ngùng biết khi nào mới làm xong!”
Và cũng
chính vì mang quyết tâm trên mà tôi vẫn “Không đặt vấn đề với anh em, nhưng
chắc chắn đứa con Việt nầy dứt khoát đặt vấn đề những người đang tàn phá Đất và
Nước của Ông Cha để lại.
Tôi ”đặt
vấn đề” với người Cộng sản Bắc Kỳ, kẻ thù ở phương Bắc đang tiếp tay đóng
vai trò “thái thú biết nói tiếng Việt” cho Trung Cộng thực thi “Đại Họa
Mất Nước” để hoàn tất công cuộc Bắc thuộc lần thứ V.
Nhưng tôi cũng
không quên dứt khoát đặt vấn đề với những kẻ cuối đời vẫn còn
bon chen danh
lợi, bất kể cố ý hay vô tình, bị rơi vào cái bẫy lợi danh của Cộng
sản, cái bẫy của “cây gậy và củ cà rốt” với cây gậy đập trên đầu mà
củ cà rốt vẫn không cho ăn, cái bẫy của Cộng sản muốn mượn tay người Quốc gia
“bôi đen” người Quốc gia chống Cộng, cái bẫy “gây rối cộng đồng” do những
tay ăn bã của cộng sản; những kẻ dễ đánh mất thân phận làm “người” của mình,
bất kể đó là loại “người” gì; lắm khi đó là những con “ếch” muốn làm con “bò”,
cho dầu “ếch” hay “bò”, “nhỏ” hay “lớn”, vẫn không phải là... “người”.
Xin ghi lại và góp
phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư của những người con đất Việt./
* Mai Thanh
Truyết
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire