Tôi
được may mắn quen biết Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát khi hai vị này còn rất trẻ và còn
dưới hai mươi tuổi. Bây giờ hai vị đã được 45 tuổi (cả hai đều sinh năm 1943).
Lúc
tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa; bây giờ thì
hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc và lại cũng là Anh Hùng Dân Tộc của
Lịch Sử Việt nam hiện đại. Tại sao “gọi là Anh Hùng Dân Tộc” thì rất dễ nhận thấy
(mà cụ thể nhất là cái án tử hình về tội “phản cách mạng và bạo động vũ khí lật
đổ chế độ”, vân vân)
Nhưng
tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là “hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh
nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất" của Việt nam hiện nay”? “Thiền sư”
à? Chỉ nội cái danh hiệu “thiền sư” đã là mệt rồi, lại còn thêm mấy chữ mơ hồ
như “lỗi lạc nhất, thông minh nhất..”?
Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với
tất cả thận trọng và suy nghĩ chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi trách nhiệm
về cái nhìn khác thường của tôi đối với nhị vị.
Tại sao là “thiền sư”? Và “thiền
sư” là thế nào? Không cần trả lời trực tiếp về những câu hỏi bất thường này.
Nơi đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đôi điều gián tiếp và ai muốn hiểu gì thì cứ hiểu.
Không ai có thể tự nhận đủ thẩm quyền tôn giáo và tâm linh để trả lời dứt khoát
những câu hỏi bất thường trên. Chỉ có những kẻ bỏ cả trọn đời mình lặng lẽ sống
chết với cái gọi là “Bồ Ðề tâm” hay “Phát Bồ Ðề Tâm” thì may ra mới trực nhận
đâu đó khí phách và thần dụng bảng lảng của “nghịch hạnh thiền”.
Mấy
chữ “thiền sư” đã bị người ta lạm dụng để tự truy tặng một cách lố bịch hay
truy tặng kẻ khác với nông nổi dễ dãi tự mãn phè phỡn nông cạn, nhất là từ lúc Thiền
hay Zen trở thành cái mốt trí thức đốn mạt. Bất cứ người nào tỏ vẻ “kiêu ngạo
khác thường” một chút và có những hành động cử chỉ “ngược đời trái đạo” một
chút thì tự gán hay bị gán là “thiền sư’.
Lê
Mạnh Thát và Tuệ Sỹ không bao giờ tự nhận là “thiền sư” và cũng không bao giờ
nghĩ mình là cái gì cả trên mặt đất này. Hai người này chỉ là những kẻ lễ độ
khiêm tốn một cách tự nhiên và không bao giờ biết giả vờ “hạ mình” với ý đồ kín
đáo chà đạp lên trên kẻ khác.
Có
sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những
hoàn cảnh khác nhau, thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín
đáo toát ra một cách tự nhiên và một cách “vô công dụng hạnh” từ đời sống thường
nhật và tinh thần “diệu nhập” của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là “thiền sư”
với tất cả đắn đo thận trọng và với tất cả ý nghĩa cao đẹp và “như thực” của một
danh xưng “xung thiên chí”…
Giữa
dòng thác lũ ào ạt và địa chấn thường trực của sinh mệnh, thế mệnh, và tính mệnh
của quê hương, một sớm hôm nào đó, tôi đã được xô đẩy lặn hụp với Tuệ Sỹ và Lê
Mạnh Thát; tất cả ba anh em chúng tôi đều xuất thân từ Viện Phật Học miền Trung
mà vị cha già của chúng tôi là Hòa Thượng Trí Thủ (người đã bị Cộng sản Hà Nội
thủ tiêu ngay lập tức sau khi Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị bắt giam vào ngày 1
tháng 4 năm 1984, vì “tội tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản
cách mạng, lật đổ chế độ Cộng sản”).
Ðối
với tôi, từ lúc nào cho đến lúc nào thì Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát cũng như và hơn
cả “những đứa em ruột thịt” (mang vị thế “đàn anh” thì chỉ thực sự là “anh” khi
mình có đủ sức mạnh và sở kiến xô đẩy cho những đứa em vượt xa hơn mình, và sự
thực hiện nay là Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đã vượt xa hẳn tôi đến nghìn trùng biên
tế trong việc cưu mang trọn vẹn Tính Mệnh Việt Nam mà hậu quả bi đát là cái án
tử hình do Hà Nội tàn nhẫn thực hiện bao nhiêu lần đối với bao nhiêu bộ óc siêu
việt và bao nhiêu Anh hùng Liệt sĩ bất khuất của Dân Tộc.
Cả
ba anh em đều lớn lên, trưởng thành và làm việc với Viện Ðại Học Vạn Hạnh mà
chúng tôi coi như mái nhà gia đình trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; chúng tôi
đều là thành phần chính yếu nhất của Ban Biên Tập Tạp chí Tư Tưởng do tôi chủ
trương thành lập, cùng với Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Trí Hải (Phùng Khánh), Chân Hạnh,
Lê Mạnh Thát.
Tất
cả ý thức dẫn đạo cho cả Viện Ðại Học Vạn Hạnh là do chính tất cả anh em chúng
tôi quyết định, vị Viện Trưởng đương thời chỉ có thế lực về mặt hành chánh quản
trị đại học, còn tất cả đường hướng tư tưởng triết lý dẫn đạo đều do chúng tôi
khai thông và thể hiện trong những năm từ 1966 đến 1970, sau đó, tôi xa lìa Việt
Nam cho đến nay và tôi không còn biết rõ tinh thần Vạn Hạnh như thế nào từ 1970
cho đến khi bị Cộng sản đóng cửa vào khoảng sau năm 1975.
Thực
sự từ những năm 1966 cho đến 1970, Lê Mạnh Thát đang còn du học tại Hoa Kỳ, học
ban tiến sĩ tại Viện Ðại Học Wisconsin, Madison, hình như mãi đến năm 1973 mới
về Ðại Học Vạn Hạnh, nhưng chúng tôi vẫn liên lạc với nhau thường xuyên, nhất
là qua bài vở của tạp chí Tư Tưởng.
Tuệ
Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sinh năm 1943 (Thát sinh quán tại Quảng Trị và Tuệ Sỹ
thì nguyên quán tại Quảng Bình và ra đời ở Paksé tại Lào). Tên thực của Tuệ Sỹ
là Phạm Văn Thương và pháp hiệu Tuệ Sỹ do chính mình tự đặt ra, có lẽ vì muốn
theo gương của vị Ðại Thiền sư đời Trần Tuệ Trung Thượng Sỹ? Cũng như Lê Mạnh
Thát đã tự đặt pháp hiệu là Trí Siêu để gợi lại tên tuổi của hai vị Trưởng lão
Thiền sư có tài và có đức nhất thời hiện đại?
Tuệ
Sỹ và Trí Siêu đều tu ở chùa từ lúc rất bé nhỏ; cả hai đều rất giỏi chữ Hán, và
rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc hiểu chữ Ðức, đọc được chữ Pali và chữ Phạn (Lê Mạnh
Thát cũng biết đôi chút chữ Tây Tạng); cả hai đều có kiến thức uyên bác về những
kinh luận chính yếu của Phật giáo Nguyên Thủy và Ðại Thừa.
Ít
có nhà Phật học nào ở Việt nam có thể am hiểu tường tận về tư tưởng Vasubandhu
và cả tư tưởng Asanga cho bằng Lê Mạnh Thát; cũng như có ít người hiểu được tư
tưởng Abhidharma (hệ thống phức tạp nhất của Phật giáo Nguyên Thủy) và tư tưởng
Nagarjuna một cách sâu sắc cho bằng Tuệ Sỹ.
Chẳng
những thế, Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đều có kiến thức sâu rộng về Triết học Tây
Phương. Tuệ Sỹ đọc rất kỹ Heidegger và Michel Foucault; bài diễn thuyết đầu
tiên về Michel Foucault tại Việt Nam dạo đó là do Tuệ Sỹ thuyết trình tại giảng
đường Ðại Học Vạn Hạnh; còn Lê Mạnh Thát rất thông thạo về Marxism, đọc cặn kẽ
bộ Recherches logiques của Husserl, hiểu biết rành rọt Wittgenstein và Bertrand
Russell và Merleau-Ponty.
Tuệ
Sỹ thì có tâm hồn thi sĩ chơi vơi, sống trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật và
thi ca, thổi sáo, chơi dương cầm, làm thơ, say mê thi sĩ Ðức Hoelderlin, đọc hết
toàn tập Đường thi trong nguyên tác, viết một tác phẩm sâu sắc thơ mộng nhan đề
“Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng”; còn Lê Mạnh Thát thì không biết làm
thơ và chẳng hề để ý đến nghiên cứu văn chương nghệ thuật, mà chỉ say mê luận
lý học, khoa học và toán học, nghiên cứu sâu rộng về kinh tế, chính trị, và
quân sự, nhất là lịch sử thế giới, đặc biệt nhất là lịch sử những cuộc cách mạng
ở thế giới.
Trong
thư viện của tôi ngày xưa tặng cho Phật Học Viện Nha Trang có bộ sách
Révolution Russe của Trotski. Hồi đó vào khoảng năm 1962 hay 1963, tôi thấy Lê
Mạnh Thát thường mượn đi mượn lại bộ sách ấy. Lê Mạmh Thát rất nặng tính thực
nghiệm duy lý khoa học. Tôi còn nhớ vào năm 1968, nhân dịp được Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ (US State Department) mời qua thăm viếng một số trường đại học Hoa Kỳ,
tôi có dịp gặp Lê Mạnh Thát tại Wisconsin và không ngờ đó là lần cuối cùng và
mãi đến bây giờ là 20 năm rồi mà chúng tôi vẫn chưa gặp lại nhau. Đêm cuối cùng
ấy, chúng tôi đã thức suốt đêm nói chuyện, và Thát đã làm tôi tức cười một cách
khó quên khi Thát đề nghị sử dụng computer để hệ thống hóa tư tưởng bao la của
Bát Nhã Ba La Mật. Còn nói riêng về mặt lịch sử Phật giáo bộ Chân Nguyên toàn tập
(2 cuốn) và bộ Sơ thảo Lịch Sử Phật giáo Việt Nam (mới in được 2 cuốn) của Lê Mạnh
Thát là những sử liệu quý báu nhất chưa từng thấy xuất hiện tại Việt Nam từ cả
thế kỷ nay.
Chính
Thát là người đầu tiên đã phát hiện ra “Sáu Bức Thư” quan trọng ở thế kỷ thứ V ở
Việt Nam giữa Ðạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu. Trong Nghiên Cứu Lịch Sử năm 1981 ở
Việt Nam .
Trần Văn Giàu đã trích dẫn tài liệu của Lê Mạnh Thát về “bằng chứng sáng tỏ của
một số sinh hoạt văn hóa của nhân dân Giao Châu hồi thế kỷ thứ V… rằng sinh hoạt
văn hóa đó đã phát triển đến một trình độ đáng tự hào, mang nhiều đặc sắc dân tộc,
yêu nước, là “cả một kho tàng chờ đợi chúng ta khai thác”...
Lý
thuyết gia cộng sản Trần Văn Giàu đã tận lực khai thác sự phát hiện của Lê Mạnh
Thát để xuyên tạc một cách ngu xuẩn tất cả nội dung tư tưởng cao siêu của Việt
Nam vào thế kỷ thứ V. Cộng sản Việt Nam cũng sử dụng và khai thác triệt để những
công trình nghiên cứu độc đáo của Lê Mạnh Thát về Nguyễn Trãi, nhân dịp UNESCO
tổ chức kỷ niệm lần thứ 600 ngày sinh nhật của Nguyên Trãi. Ðiều này ít ai biết.
Nếu
không bị giam từ ngày 1 tháng 4 năm 1984 thì chắc chắn Lê Mạnh Thát còn tiếp tục
phát hiện biết bao điều bí ẩn dấu kín “đã chôn vùi trong bóng tối ngàn năm” như
lời của Trần Văn Giàu nói về sự phát hiện tư liệu lịch sử về thế kỷ thứ V ở Việt
Nam do Lê Mạnh Thát khai quật ra từ “Hoằng Minh Tập” (弘明集) và sau cùng mới đây khi Lê Mạnh
Thát và Tuệ Sỹ bị Hà Nội kết án tử hình thì đó chính là sự phát hiện lỗi lạc nhất
của nhị vị để cho cả thế giới thấy rằng Cộng sản Việt Nam đã lạnh lùng tàn phá
tiêu diệt tất cả những gì là tinh ba, là trí tuệ thượng đẳng tâm linh siêu việt
của dân tộc.
Từ
lúc hãy còn rất nhỏ cho tới lớn khôn trưởng thành, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sống
một đời tu hành khắc khổ và trong sạch hoàn toàn, không bao giờ ham mê danh vọng
thế tục, không bao giờ để ý đến địa vị xã hội và chẳng bao giờ biết đến tiền bạc
lợi lộc cho chính bản thân.
Trong lòng nhị vị vẫn thường trực hừng hực thệ nguyện vô biên đến Giác ngộ vì lợi cho tất cả và giải thoát cho tất cả, mà bước đi hùng dũng đã dược thể hiện oanh liệt nhất hiện nay là dâng hiến cả sinh mệnh mình để giải phóng quê hương thoát khỏi cái chủ nghĩa ngu xuẩn nhất, tàn bạo nhất và vô minh nhất của thế kỷ XX.
Trong lòng nhị vị vẫn thường trực hừng hực thệ nguyện vô biên đến Giác ngộ vì lợi cho tất cả và giải thoát cho tất cả, mà bước đi hùng dũng đã dược thể hiện oanh liệt nhất hiện nay là dâng hiến cả sinh mệnh mình để giải phóng quê hương thoát khỏi cái chủ nghĩa ngu xuẩn nhất, tàn bạo nhất và vô minh nhất của thế kỷ XX.
Chúng
ta chỉ đủ sức nhìn thấy được những Thiền sư đúng nghĩa mỗi khi nào chúng ta có
đủ sức mạnh tâm linh để tự quên mình, cũng như Ðại sư Ðạo Cao đã dạy thống thiết
trong sách “Sáu Bức Thư ở thế kỷ thứ V” mà Lê Mạnh Thát đã phát hiện cho toàn
dân tộc:
“Nếu
quên mình mà hết lòng thành thì tất có cảm và có cảm thì tất có thấy: không cảm
thì không thấy. Thánh nhân đâu phải không thường ở với quần sinh, đâu phải là
ta không thường thấy.”
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đã quên mình và hết lòng thành thì tất nhiên nhị vị cảm được tất cả những đổ vỡ bi đát của quê hương và kiếp người: Hai người đã được hết tất cả tính mệnh của Việt Nam thì tất nhiên nhìn thấy được những gì vẫn giữ lại Việt tính, và họ đã lên đường trở thành những Ðạo sư dẫn đường cho cả dân tộc. Lúc Hà Nội kết án tử hình Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát hay bất cứ kẻ nào khác vô danh đã tranh đấu cho quyền làm người Việt Nam thì chính Hà Nội đã kết án tử hình toàn thể dân tộc.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đã quên mình và hết lòng thành thì tất nhiên nhị vị cảm được tất cả những đổ vỡ bi đát của quê hương và kiếp người: Hai người đã được hết tất cả tính mệnh của Việt Nam thì tất nhiên nhìn thấy được những gì vẫn giữ lại Việt tính, và họ đã lên đường trở thành những Ðạo sư dẫn đường cho cả dân tộc. Lúc Hà Nội kết án tử hình Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát hay bất cứ kẻ nào khác vô danh đã tranh đấu cho quyền làm người Việt Nam thì chính Hà Nội đã kết án tử hình toàn thể dân tộc.
Khi
mà toàn thể dân tộc Việt nam bị một chế độ tàn bạo kết án tử hình thì đó cũng
là lúc chế độ ấy đang tự hủy diệt trong lòng địa chấn linh diệu của Ðại mệnh Việt
Nam .
* Phạm
Công Thiện
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire