Có
người bạn văn email hỏi tôi: Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau chỗ nào.
Câu hỏi khá bất ngờ và, kỳ thực, tôi không biết rõ lắm, bèn tìm kế hoãn binh, bảo
chị đợi tôi trả lời trong một bài viết, thay vì vài câu email sơ sài cho qua.
Nhận lời xong, tôi mới biết mình dại, vì không dễ dàng trả lời cho thỏa đáng
câu hỏi này chút nào. Thôi thì, đành cố tới đâu hay tới đó, có chi bất cập, sai
trái, mong các bạn góp ý và chỉnh sửa lại cho đúng.
Giữa
ba thể loại, có lẽ Ký dễ phân biệt nhất. Ký cũng là một thể loại văn học phổ biến
trong văn học Tây phương, nên tôi có nhiều phương tiện tra cứu hơn. Vì thế, xin
nói trước về Ký.
Ký
là tên gọi chung cho một nhóm thể tài chữ nghĩa văn xuôi nằm ở phần giao nhau
giữa văn học và ngoài văn học, như báo chí, chính luận, ghi chép… Chủ yếu của
Ký là ghi chép theo dạng tự sự, miêu tả nhiều hơn là phân tích nội tâm.
Ký có
nhiều thể loại: Hồi ký, Bút ký, Du ký, Ký sự, Phóng sự, Nhật ký, v.v…
Ký
nói chung khác với Truyện ở chỗ Ký không đưa ra một xung động nội tại. Phần
khai triển của tác phẩm chủ yếu mang tính miêu thuật. Đề tài và chủ đề Ký trình
bày cũng khác, so với Truyện. Trong khi Truyện khai triển tính cách cá nhân con
người (bằng cách xây dựng nhân vật) trong tương quan với hoàn cảnh và bối cảnh,
thì Ký chỉ chú trọng đến chính bản thân môi trường, mà xem nhẹ tính cách của
nhân vật (nếu có) trong đó.
Bởi
thế, Ký chủ ý miêu tả tính cách xã hội hoặc dân tộc, nghiêng nhiều về mặt báo
chí, chính luận, biểu thị bởi sự quan tâm mang tính thời sự, chính trị. Đặc điểm
của Ký là tính tư liệu, tái hiện tính chính xác của sự kiện, của hiện tượng có
thực; (Hồi ký chiến tranh Tháng ba gãy súng của nhà văn quá cố Cao Xuân Huy là
một thí dụ.) Nội dung của Ký ở đây không hẳn chỉ có những miêu thuật khách
quan, mà còn bao gồm những lý giải, đánh giá chủ quan, thậm chí tâm tình riêng
của tác giả. Ở đây, Ký giao thoa với Truyện, và bởi thế, có thể xem những tác
phẩm như vậy là Ký Văn học.
Bây
giờ hãy thử nói đến Tùy bút.
Định
nghĩa cơ bản của Tùy bút là một thể tài văn xuôi không đề tài nhất định, theo
dòng cảm hứng mà viết, tùy hứng mà phóng bút. Theo Từ điển Nguyễn Quốc Hùng,
Tùy Bút 隨筆
là “Theo bút mà viết. Lối văn không gò bó ý tứ.” Nói chung là gặp gì viết nấy,
nghĩ sao nói vậy, tự do tuyệt đối. Tiền tố “tùy,” tiếng Hán, có nghĩa là
“theo,” “thuận theo,” như trong các chữ “tùy nghi,” “tùy cơ ứng biến,” “tùy thế,”
v.v… Với định nghĩa này, nếu bạn ra đường đi bộ thấy một hòn đá tầm thường, về
nhà viết một bài dài năm nghìn chữ về hòn đá, thì đó là một Tùy bút. (Kỳ thực,
viết về một hòn đá mà thú vị, thu hút người đọc thì bạn là thiên tài văn chương
chứ chẳng chơi đâu.) Ngoài ra, bạn có thể viết về tiếng ếch nhái, mùi hoa dạ
lý, cái ngon của bát phở, mái tóc cô thiếu nữ thanh xuân, cặp đùi thon dài trắng
muốt của cô hàng xóm người Mỹ nằm tắm nắng một ngày đầu Xuân, tật hay nhậu nhẹt
của ông bạn họa sĩ dở hơi, thậm chí, tật nói nhiều của bà vợ trong nhà, v.v… Nó
tựa như nghị luận mà không phải nghị luận, bởi nó tùy hứng và đầy cảm xúc chủ
quan chứ không có tính cách biện biệt, phải trái hơn thua. Lô-gích của nó là một
lô-gích phi-biện-luận, không cao kỳ, mà hấp dẫn, thân mật như câu chuyện tâm
tình giữa hai người tri kỷ.
Suốt
thời kỳ Trung đại, văn học Việt Nam chỉ có duy nhất một tập Tùy bút đáng ghi nhận
là cuốn Vũ Trung Tùy Bút (Tùy bút trong mưa) của danh sĩ Phạm
Đình Hổ [1768-1839].
Vì
đề tài phóng túng, tùy cảm hứng mà viết nên Tùy bút rất thích hợp với những tâm
hồn văn chương yêu chuộng tự do, không thích cái cương tỏa của hàn lâm, cái chiết
tỏa của giáo điều. Ví dụ như Nguyễn Tuân trước Cách mạng Tháng Tám. Cái “ngông”
của Nguyễn Tuân đã khiến ông trở thành người viết Tùy bút hay nhất Việt Nam
trước 1945.
Nhưng
phải đợi đến sau 1954 Tùy bút mới có cơ hội bung nở thành một nghệ thuật dưới
ngòi bút tuyệt luân của nhà văn Võ Phiến. Theo tôi, chính ông Võ đã đẩy thể tài
Tùy bút đến một cương vực nghệ thuật mới với tài nhận xét tinh tế, miêu thuật sắc
bén, dùng chữ tài tình, đúng chỗ, hợp tình. Ngoài ra, giọng văn dí dỏm, nhẹ
nhàng cũng khiến Tùy bút Võ Phiến chinh phục biết bao triệu con tim người đọc
Việt Nam .
Viết
Tùy bút tưởng dễ mà không dễ, bởi nó không phải nơi cho bạn khoe kiến thức. Nó
là mối giao cảm tuyệt hảo giữa bạn với sự vật; chỉ khi nào bạn đi vào linh hồn
của sự vật thì lúc đó bạn mới có thể thành công trải lòng mình trên trang viết
Tùy bút. Võ Phiến viết tùy bút sở dĩ thành công là vì ông đã đi vào linh hồn của
sự vật, từ “Ăn uống sự thường,” “Của mắm và người” cho đến “Đô
thị hoang sơ,” “Giã biệt mùa nắng,” quy tụ trong hai tập, tập nào cũng
trên 300 trang, và bài nào cũng thấm đẫm cái phong vị thấm thía của chữ nghĩa
và sự vật ông miêu thuật. Đọc Tùy bút Võ Phiến, bạn chỉ có thể thốt lên một câu
rất ư bình dân: Trời, đọc “đã” quá!
Thế
còn Tản văn?
Ý
nghĩa nguyên thủy của Tản văn là “văn xuôi không có vần,” dịch từ la
prose của Pháp hay prose của Anh. Cuốn Từ điển Việt Nam
của cụ Lê Ngọc Trụ ghi, “Tản văn (danh từ): Văn xuôi, văn viết không cần ăn vần,
cân đối, hay theo một khuôn khổ nào cả.” Từ điển Nguyễn Quốc Hùng thì ghi Tản
Văn 散文
là: “Văn xuôi không có vần điệu gì.” “Tản” còn là cách gọi thơ không vần, tự
do, gần giống văn xuôi, không theo quy tắc thi pháp chặt chẽ nào. Cụm từ Prose
Poem thường được dịch là thơ xuôi, hay “tản thi.” Thời cổ ở Trung quốc
có một thể loại thơ gọi là “tản hành” với tính cách không hạn vần và niêm luật,
tương tự thơ Tự do hay thơ Tân Hình thức ngày nay.
Nhà
thơ Nguyễn-Hòa Trước có một tập thơ xuôi – prose poems – tuyệt
vời, nhan đề (gửi) em, mùa xuân sơ sinh, do NXB Văn Học Press xuất
bản năm 2018.
Nhà
thơ Nguyễn Thị Khánh Minh cũng có một tập thơ tuyệt vời không kém, nhan đề Tản
Văn Thi – có thể dịch là prose poems, cũng do NXB Văn Học
Press xuất bản năm 2019.
Văn
hào Alexander Solzhenitsyn, bên cạnh những tác phẩm tiểu thuyết nghìn trang nặng
ký, cũng có một tập Prose Poems, xuất bản đầu thập niên 70.
Xem
thế, cái gì không phải thơ nhưng cũng không phải văn thì người ta gọi là Tản
văn? Người xưa, cả Đông lẫn Tây, xem trọng văn vần, xem thường văn xuôi, nên chữ
“tản” / prose hàm ngụ một ý nghĩa tiêu cực.
Tuy
vậy, tôi nghĩ Tản văn, theo thời gian, ý nghĩa có biến đổi phần nào. Ngày nay
người ta hiểu Tản văn như một thể tài văn xuôi nghiêng về Tùy bút nhưng phóng
túng hơn, có quyền vung bút “lạc đề” thoải mái, và có tính thơ. Yếu tính sau
cùng có lẽ quan trọng hơn cả. Nói thế bởi tôi nghĩ đến hai cuốn tản văn Bóng
bay gió ơi và Lang thang nghìn dặm của nhà thơ Nguyễn
Thị Khánh Minh.
Trong
bài “điểm sách” cuốn Bóng bay gió ơi, tôi viết như sau:
“Đọc
cuốn tản văn Bóng bay gió ơi của Nguyễn Thị Khánh Minh, chúng
ta nên đọc thật chậm. Như đọc thơ. Bởi đấy là thơ. Bởi chị viết văn như làm
thơ, chữ nghĩa nuột nà tung tỏa, lôi cuốn như có bùa phép – hay bùa hương, chữ
của chị – làm mê hoặc người đọc. Đọc chậm để có thể thẩm thấu tầng chữ nghĩa của
văn chương và qua đó họa may chúng ta hòa nhập lên tầng cảm xúc và phần nào nhận
ra tâm hồn của tác giả…”
Đó
là câu chữ viết về một tập thơ chứ không phải văn xuôi.
Phân
biệt giữa Tùy bút, Tản văn, và Ký, điều đó có lẽ không cần thiết lắm đâu, bạn ạ.
Cái cần thiết cho chúng ta ngày nay là đôi lúc nên tạm quên cuộc sống bình nhật
để tâm hồn lắng đọng, thả lỏng thần trí để thưởng thức nghe một khúc nhạc, ngắm
nhìn một bức tranh, hay đọc một áng văn chương, bất kỳ thể tài nào, Truyện,
Thơ, Ký, Tùy bút, hay Tản văn. Đó là ý nghĩa muôn đời của cuộc sống, xưa cũng
như nay, đơn giản vô cùng mà sao chúng ta gần như quên lãng.
(Cảm
ơn chị ND đã giúp tra cứu vài từ tiếng Hán. – TYT)
Nguồn: Diễn Đàn Thế Kỷ
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire