Tuy
bị thất bại nặng nề trong cuộc xâm lược năm 1258, nhưng triều Nguyên vẫn ỷ vào
sức mạnh của đế quốc Nguyên Mông nên cử sứ giả Sài Thung sang nước ta đòi vua
Trần sang chầu. Vua Trần tìm cớ thoái thác nên cử Trần Di Ái là chú họ của vua
sang Tàu nhưng vua Nguyên không chịu. Vua Nguyên
xuống chiếu thành lập “Tuyên
Phủ Ty Giám Trị” nước ta. Khi viên quan triều Nguyên đến biên giới thì bị quân
ta đuổi về. Vua Nguyên tức giận phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương rồi sai
Sài Thung hộ tống về nước. Quân Trần bắn Sài Thung mù một mắt và bắt Trần Di Ái
phải làm lính như một quân sĩ bình thường, sách sử gọi là “Tội Đồ”.
Vua Nguyên tức
giận cử con là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương cùng với 2 bộ tướng Toa Đô và Ô Mã
Nhi mượn đường nước ta để đem quân sang
đánh Chiêm Thành. Biết rõ ý đồ của giặc nên vua Trần Nhân Tông phong cho Trần
Quốc Tuấn làm Tiết Chế thống lĩnh toàn quân.
Tiết Chế Hưng Đạo
Vương ban lệnh cho các Vương Hầu hội 20 vạn quân thủy bộ tại Đông Bộ Đầu để ban
Hịch Tướng sĩ trong buổi lễ duyệt binh. Đồng thời nhà vua cho triệu tập các bô
lão trên toàn quốc về điện Diên Hồng để bàn việc “Hòa hay chiến” nên sách sử gọi
là hội nghị Diên Hồng. Toàn thể bô lão đồng thanh hô vang "Quyết chiến",
"Quyết chiến đấu chống quân Mông cổ xâm lược cho tới người Việt Nam cuối
cùng để bảo vệ đất nước".
Cuối năm 1284,
quân Nguyên lấy cớ mượn đường đánh Chiêm Thành để chia quân làm 2 mũi thủy-bộ
tiến công nước ta theo thế "Gọng kìm". Thoát Hoan chỉ huy bộ binh tiến
vào nước ta và Toa Đô chỉ huy đại quân theo đường biển đánh chiếm Nghệ An rồi
đánh ngược lên phía Bắc. Thế giặc mạnh như vũ bão, tràn vào đánh chiếm Thăng
Long. Quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy đoàn chiến thuyền tiến vào cửa bể đánh
chiếm các bến sông Hồng để đóng quân, từ khúc sông Đại Hoàng ở Hà Nam lên tới bến
Thăng Long. Hưng Đạo Vương rước xa giá nhà vua xuống Thiên Trường rồi sai Thượng
tướng Trần Quang Khải đem quân vào chặn đánh quân Toa Đô ở Nghệ An. Dũng tướng
Trần Bình Trọng được giao nhiệm vụ đánh chặn quân giặc và tử thủ Thiên Trường,
chiến đấu để cầm chân quân địch tại đây để Hưng Đạo Vương đưa vua Trần ra Hải
Dương.
Trần Quang Khải
bị quân của Toa Đô từ trong Nam đánh ra, quân của Ô Mã Nhi từ mặt bể đánh vào
nên phải lui quân ra mặt ngoài. Quan Trấn Thủ Nghệ An là Trần Kiện chống cự
không nổi phải đầu hàng. Tại mặt trận Thiên Trường, Trần Bình Trọng anh dũng chống
cự với hàng hàng lớp lớp quân Nguyên cho đến khi kiệt sức bị bắt sống, không chịu
ăn uống thức ăn của quân thù cho đến khi bị chém đầu. Thoát Hoan chiêu dụ Trần
Bình Trọng theo quân Nguyên sẽ phong tước Vương nhưng anh hùng Trần Bình Trọng
đã khẳng khái chửi thẳng vào mặt giặc “Các ngươi cứ giết ta đi. Ta thà làm quỷ
nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.
Thoát Hoan tức giận lệnh cho quân sĩ chém đầu Trần Bình Trọng nhưng
trong lòng hết sức kính phục danh tướng nước Nam. Tấm gương hào hùng dũng liệt
với câu nói khí phách anh hùng đã đi vào lịch sử muôn đời của Việt Nam.
Hưng Đạo Vương lại
hộ tống xa giá nhà vua ra Quảng Yên rồi cho thuyền tiến thẳng ra cửa bể Ngọc
Sơn để nghi binh, đưa vua lên bộ rồi lại xuống thuyền vào Thanh Hoá.
CHIẾN THẮNG HÀM TỬ QUAN 1285
Quân của Toa Đô
và Ô Mã Nhi bị quân của Trần Quang Khải chặn đánh nên không tiến ra Bắc được,
bèn đem quân vượt biển ra Bắc hội quân với Thoát Hoan. Được mật tin, vua Trần
sai tướng Trần Nhật Duật và Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem binh ra mai phục
chờ đánh đạo quân của Toa Đô ở Hải Dương. Khi quân Toa Đô vừa đến bến Hàm Tử
thì Trần Nhật Duật cho đội quân của Triệu Tung, nguyên là một tướng của triều Tống
về theo quân ta mặc quân phục Tống triều ra đánh quân Nguyên. Quân Nguyên tưởng
rằng triều Tống đã đánh chiếm lại Trung Quốc nên hoang mang tháo chạy. Quân ta
thừa thắng xông lên đánh giết quân giặc, Toa Đô tháo chạy ra cửa biển Thiên Trường.
CHIẾN THẮNG CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ
Tin chiến thắng
Hàm Tử Quan làm nức lòng quân dân nhà Trần. Tiết Chế Hưng Đạo Vương biết quân
giặc đã mỏi mệt suy kiệt, tinh thần sa sút nên trình lên vua Trần Nhân Tông cho
lệnh tổng phản công. Hưng Đạo Vương sai tướng Trần Nhật Duật đóng quân chặn đường
đánh không cho quân của Toa Đô tiến lên Thăng Long. Đồng thời ra lệnh cho đại
quân của Thượng tướng Trần Quang Khải vừa từ Nghệ An kéo ra phối hợp với Trần
Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hoá vòng theo đường biển tiến vào
đánh bản doanh quân Nguyên ở bến Chương Dương.
Quân ta khí thế
dâng cao ngùn ngụt, hàng hàng lớp lớp tấn công ào ạt khiến quân Nguyên tháo chạy.
Quân ta bỏ thuyền lên bộ truy đuổi quân giặc chạy về đại bản doanh của Thoát
Hoan đóng ở Thăng Long. Thoát Hoan đem quân ra nghênh chiến bị lọt vào trận địa
mai phục của danh tướng Trần Quang Khải. Quân ta từ bốn phiá đổ ra tấn công,
quân giặc chết vô số kể nên Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long tháo chạy sang bờ bên
kia sông Hồng. Đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long khí thế ngút trời.
Trong tiệc khao quân mừng chiến thắng, Thượng tướng Trần Quang Khải sang sảng
ngâm 4 câu thơ đi vào văn học sử nước nhà:
“Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức
Non nước rạng ngàn thu”
CHIẾN THẮNG TÂY KẾT
Toa Đô đóng quân
ở bến sông Thiên Mạc để tiến về Thăng Long. Sau khi biết đại quân đã tháo chạy,
Toa Đô vội cho lui quân về Tây Kết nghe ngóng tình hình. Tiết Chế Hưng Đạo
Vương sai Thượng Tướng Trần Quang Khải và Tướng Trần Nhật Duật đóng binh chia cắt
quân của Thoát Hoan và Toa Đô, rồi thân chinh đem quân tiêu diệt đại quân Toa
Đô. Quân của Ô Mã Nhi và Toa Đô tháo chạy lên bờ chạy ra hướng biển thì bị phục
binh vây đánh. Toa Đô trúng tên chết tại trận, Ô Mã Nhi lẻn xuống thuyền chạy
vào Thanh Hóa rồi trốn về nước. Hưng Đạo Vương bắt sống hơn 3 vạn quân Nguyên,
tịch thu toàn bộ quân trang vũ khí giặc chỉ trong một thời gian ngắn. Hưng Đạo
Vương mở tiệc khao quân rồi huy động toàn lực tiến đánh Thoát Hoan.
CHIẾN THẮNG VẠN KIẾP
Biết Thoát Hoan
sẽ tìm đường tháo chạy về nước nên trước khi xuất quân, Quốc Công Tiết Chế ra lệnh
cho Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái đem 3 vạn quân theo đường núi lên mai phục ở 2
bên rừng sậy ở Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương sai 2 con là Hưng Võ Vương và Hưng Hiếu
Vương dẫn 3 vạn quân tiến ra Quảng Yên chặn đường giặc chạy về châu Tư Minh
Trung Quốc. Hưng Đạo Vương thân chinh chỉ huy đại quân tiến đánh quân giặc.
Đại quân Nguyên
tháo chạy về Vạn Kiếp lọt vào trận địa mai phục của quân ta. Tướng giặc Lý Hằng
chết tại trận, Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán mở đường máu thoát
thân. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trên đường tháo chạy về gần đến châu Tư
Minh thì lại lọt vào ổ phục kích của Hưng Võ Vương và Hưng Hiếu Vương, tướng giặc
Lý Quán tử trận còn Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu.
Lịch sử Việt ghi
thêm một chiến thắng lẫy lừng của quân dân Đại Việt. Chỉ trong 6 tháng từ cuối
năm 1284 đến tháng 6 năm 1285, một đạo quân thiện chiến đã bị đánh tan tành
không còn manh giáp bởi lòng yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng của vua
tôi nhà Trần dưới sự chỉ huy tài ba của Tiết chế Hưng Đạo Vương.
Đại danh tướng
Hưng Đạo Vương đã đi vào lịch sử không riêng của dân tộc mà còn là đại danh tướng
của cả nhân loại nữa.
ANH HÙNG DÂN TỘC HƯNG ĐẠO
VƯƠNG
CHIẾN THẮNG NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ BA 1288
Hốt Tất Liệt quyết
tâm chiếm Đại Việt bằng mọi giá để rửa mối nhục cho đế quốc Nguyên Mông. Đầu
năm 1287, vua Nguyên lại cử Thoát Hoan làm Đại Nguyên Súy đem 30 vạn quân sang
đánh phục thù. Để thực hiện ý đồ này, Hốt Tất Liệt hủy bỏ ý định tấn công Nhật
Bản để dốc toàn bộ lực lượng vào chiến trường Đại Việt. Ngoài bộ binh và kỵ
binh còn huy động lực lượng thủy binh hùng hậu gồm 600 chiến thuyền chở vũ khí
lương thực đầy đủ cho một cuộc chiến lâu dài.
Ngày 25 tháng
12, đại quân Mông vượt biên giới tiến vào nước ta để phục hận. Cánh quân Vân
Nam do A Lỗ chỉ huy vượt biên giới tiến xuống Bạch Hạc rồi hội quân với Thoát
Hoan ở Phú Lương. Đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi thẳng tiến vào cửa Quảng Ninh.
Tướng Trần Khánh Dư được lệnh chặn đánh lấy lệ rồi giả thua khiến quân giặc ỷ
y, ào ạt tiến vào cửa vịnh. Khi đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi mở đường tiến
nhanh đi trước, đoàn binh lương của Trương văn Hổ vừa vào vịnh cửa Lục thì bị
đoàn binh thuyền của Trần Nhật Duật phục sẵn nhất loạt tấn công tiêu diệt toàn
binh thuyền hộ tống, tịch thu toàn bộ vũ khí lương thực. Tướng giặc chỉ huy
đoàn binh lương Trương văn Hổ bỏ chạy sang đảo Quỳnh Châu.
Trước đó, Hưng Đạo
Vương đã sai Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên trấn giữ Lạng Sơn,
Trần Quốc Toản và Lê Phụ Trần dẫn 3 vạn quân trấn giữ Nghệ An. Đích thân Hưng Đạo
Vương thống lĩnh đại binh đóng ở núi Phù Sơn trấn giữ Quảng Yên. Thế giặc mạnh
tiến như vũ bão, quân ta chống cự không nổi phải rút về Vạn Kiếp. Thoát Hoan điều
động Trịnh Bằng Phi đánh Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi và A Bát Xích đem quân từ sông Lục
Đầu tiến đánh dọc lưu vực sông Hồng. Để bảo toàn lực lượng, Hưng Đạo Vương lại
rút quân về giữ Thăng Long.
Quân Nguyên Mông
dưới sự chỉ huy của Lý Hằng và Khoan Triệt đang truy đuổi đoàn binh thuyền chở
vua Trần tới sông Tam Trì thì Hưng Đạo Vương rước vua lên bờ rồi xuống thuyền của
Dã Tượng đậu sẵn ở sông Bạch Đằng khúc Hải Dương để vượt qua cửa bể Đại Bàng
vào Thanh Hóa. Tiết Chế Trần Hưng Đạo cử danh tướng Trần Nhật Duật đem đại quân
chặn đánh Toa Đô ở Hải Dương. Ô Mã Nhi tức giận không bắt được vua Trần nên quật
mồ vua Trần Thái Tông, phá nát lăng miếu nhà Trần ở Long Hưng cho hả giận để trả
mối thù ô nhục năm xưa. Quân Nguyên đốt nhà cướp của, giết chồng hiếp vợ, tàn
sát bất kỳ già trẻ lớn bé đến nỗi Nguyên sử cũng phải ghi lại tội ác tầy trời
như sau: “Đốt phá chùa chiền, đào bới lăng mộ, giết người già cả lẫn trẻ em, cướp
của tàn phá sản nghiệp của trăm họ, không có điều gì mà không làm khiến một dải
đồng bằng từ Thăng Long đến các lộ xơ xác tiêu điều”.
Thoát Hoan đem đại
quân đánh chiếm Thăng Long mãi không được bèn rút về giữ Vạn Kiếp, Chí Linh và
Phả Lại. Hưng Đạo Vương đem đại binh tới bao vây quân giặc. Từ thế tiến công,
quân Nguyên bị dồn vào thế phòng ngự, lương thực cạn kiệt dần, tinh thần binh
sĩ sa sút …Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi dẫn thủy quân ra cửa bể Đại Bàng đón thuyền
binh lương của Trương văn Hổ. Trần Nhật Duật chặn đánh Ô Mã Nhi nhưng bị thua
nên quay đầu bỏ chạy. Chờ mãi không thấy đoàn quân lương, Ô Mã Nhi dẫn đoàn chiến
thuyền ra biển tìm kiếm nhưng vừa đến cửa Đại Bàng thì bị quân ta chặn đánh bắt
giữ hơn 300 chiến thuyền.
Biết tin đoàn
quân lương bị tiêu diệt, Thoát Hoan hoảng sợ vội bỏ Thăng Long lui về Vạn Kiếp.
Sử triều Nguyên chép “Ở Giao Chỉ không có thành trì để chống giữ, không còn
lương thực để ăn. Khí trời nóng nực, lương hết quân mệt mỏi thì làm sao mà chống
giữ nổi. Thật là hổ thẹn cho triều đình, chi bằng rút quân về là thượng sách”.
Thoát Hoan vội vã ra lệnh rút chạy theo 2 đường: Đại quân do Thoát Hoan chỉ huy
rút theo đường Lạng Sơn, Tướng A Bát Xích cho kị binh đi trước mở đường. Quân
thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, Thân vương Tích Lệ Cơ, Vạn Hộ Thủy quân Trương
Ngọc rút theo đường thủy có kị binh đi dọc 2 bờ sông để bảo vệ cho thủy quân.
Quân Nguyên Mông
tháo chạy đúng như tiên liệu của Hưng Đạo Vương nên khi giặc đến Vạn Kiếp rồi
tiến về Thăng Long thì quân ta được lệnh vừa đánh để tiêu hao sinh lực địch, vừa
kềm chế để bảo toàn lực lượng rồi rút về hướng Đông Bắc chờ lệnh tổng phản
công. Đây là trận chiến mở đầu cho chiến dịch tổng phản công của quân ta. Quốc
Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương phân công cho các danh tướng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn
Soái và Nguyễn Chế Nghĩa dẫn quân lên phối hợp với dân quân thiểu số địa phương
mai phục sẵn ở ải Nội Bàng Lạng Sơn.
Ngày 30 tháng 3
năm 1288, thủy binh của giặc với kị binh hộ tống bắt đầu rút chạy nhưng quân ta
đã cho phá hết các cầu nên kị binh phải quay trở lại Vạn Kiếp. Trong khi đó,
đoàn thuyền vẫn di chuyển chậm chạp mãi đến ngày 8 tháng 4 mới đến sông Bạch Đằng.
Khi thuyền giặc vừa tiến vào trận địa mai phục thì tướng Nguyễn Khoát dẫn chiến
thuyền ra nghênh chiến rồi giả vờ thua quay thuyền bỏ chạy. Ô Mã Nhi thừa thắng
cho chiến thuyền đuổi theo, đúng lúc thủy triều xuống nên chiến thuyền giặc lao
nhanh theo dòng nước đụng phải những hàng rào chông, những bãi cọc ngầm khiến
chiến thuyền giặc thủng vỡ tan tành chìm xuống dòng sông.
Giữa lúc quân giặc
còn đang hoảng hốt bối rối không biết xoay trở làm sao thì quân ta gồm cả thủy
bộ do nhà vua cùng với Quốc Công Tiết Chế chỉ huy tấn công ào ạt tứ phía. Cuộc
chiến diễn ra hết sức ác liệt, cuối cùng quân ta đại thắng, đạo thủy binh của
giặc bị tiêu diệt toàn bộ, xác giặc chết máu loang đỏ ngầu cả một khúc sông. Tướng
giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ bị quân ta bắt sống, trên 400 chiến thuyền
cùng với những chiến lợi phẩm bị tịch thu. Chính lời thề của Hưng Đạo Vương
cùng toàn thể quân sĩ “Trận này mà không phá tan giặc Nguyên thì quyết không về
đến sông này nữa” đã tạo nên kỳ tích Bạch Đằng Giang lịch sử.
Nhận được hung
tin đạo thủy quân đã bị tiêu diệt, Thoát Hoan hồn vía lên mây hốt hoảng lên ngựa
tháo chạy. Đoàn kị binh của Trịnh Bằng Phi, A bát Xích, A Lỗ Xích chạy trước mở
đường, bộ binh chạy theo sau về hướng Lạng Sơn. Vừa đến ải Nội Bàng thì đạo
quân của danh tướng Phạm Ngũ Lão từ các ngõ ngách đổ ra vây đánh tới tấp, quân
giặc hoảng loạn mạnh ai nấy chạy về Nữ Nhi, Khâu Cấp thuộc Bắc Giang Lạng Sơn bị
phục kích tiêu diệt gần hết.
Thoát Hoan quát
tháo thúc giục tàn binh mở đường máu tháo chạy, viên tướng hộ tống Thoát Hoan tử
trận, xác giặc nằm chết ngổn ngang suốt từ Ải Nội Bàng đến Tư Minh. Thoát Hoan
cởi bỏ võ phục, len lỏi trong đám tàn quân may mắn thoát chết, chạy thục mạng về
đến nước rồi mà vẫn chưa hoàn hồn. Quân Nguyên Mông tan rã hoàn toàn chạy về nước
hú hồn vừa thoát chết, lòng còn run sợ nên không trình diện mà mạnh ai nấy bỏ về
nhà. Cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông lần thứ ba đã thất bại hoàn toàn,
quân dân nhà Trần vang ca khúc khải hoàn.
Sau chiến thắng
Mậu Tý tháng 3 năm 1288, Hưng Đạo Vương cùng các tướng sĩ dẫn quân rước xa giá
Thượng Hoàng và vua Trần Nhân Tông về kinh đô. Khi về đến Long Hưng, vua Trần
đem bọn tướng Nguyên gồm Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào quỳ chịu tội
làm lễ “Hiến Phù” trước Chiêu Lăng.
Với đức hiếu
sinh, lòng từ bi độ lượng, vua Trần quỳ lạy Chiêu Lăng rồi xin tha tội chết cho
những kẻ thù đã đốt nhà cướp của, tàn sát dân Việt dã man. Với đức từ bi nhà
vua cũng tha tội chết cho Ô Mã Nhi, kẻ
đã cho lính quật mồ vua Trần Thái Tông, phá nát lăng miếu nhà Trần ở
Long Hưng.
Về đến Thăng
Long, nhà vua cho mở tiệc khao thưởng tướng sĩ. Nhân dân vui hội Thái Bình Diên
Yến suốt 3 ngày đêm bù lại những tháng ngày chiến đấu gian khổ với bao tang
thương chết chóc của toàn quân toàn dân Việt. Nghĩ tới đất nước vừa trải qua
cơn binh lửa nay lại thanh bình, Thái Thượng Hoàng cảm khái làm 2 câu thơ đi
vào lịch sử Việt:
“Đất nước hai phen chồn ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vang…”.
ĐẠI ĐẾ TRẦN THÁI TÔNG BIỂU TƯỢNG SÁNG NGỜI
VIỆT NAM
Chiến thắng oanh
liệt hào hùng của Đại Đế Trần Thái Tông đã xóa bỏ danh hiệu “Bách chiến Bách thắng”
của đạo quân khét tiếng thế giới. Chiến thắng oanh liệt 1258 đạo quân Mông Cổ
thiện chiến đã mở đầu cho sự suy tàn của đế quốc Mông Cổ. Lần đầu tiên trong lịch
sử, đế quốc Mông Cổ đã nếm mùi thất bại trước sức sống Việt Nam được biểu tượng
qua người anh hùng dân tộc Đại Đế Trần Thái Tông, văn võ toàn tài, khoan dung đức
độ, biểu tượng ngời sáng của bậc đại nhân, đại trí, đại tài của Việt Nam. Trên
phương diện tâm linh, Đại Đế Trần Thái Tông chính là hóa thân của Bồ Tát Cứu Khổ
Cứu Nạn trong đời sống bình thường của một con người, trọn nghĩa vẹn tình, chu
toàn bổn phận của một con dân đất Việt trước đại họa mất nước. Các vị vua đời
Trần thì suốt một đời sống thực, trải nghiệm qua những khổ đau mất mát đời thường
để tuốt gươm lên ngựa xông pha ngoài chiến trận, bảo vệ giang sơn bờ cõi rồi
giác ngộ thể hiện một tinh thần nhập thế, một triết lý nhân sinh Phật giáo đáp ứng
nhu cầu tri thức hiện thực thời đại của nhân loại.
Ngoài chiến công
hiển hách, Đại Đế Trần Thái Tông còn là một người thông tuệ, có trí huệ của bậc
thiện tri thức ngay từ thế kỷ thứ 13. Đại Đế Trần Thái Tông là “Bó Đuốc của nền
Thiền Học Việt Nam”. Thời Lý Trần là thời kỳ cực thịnh của dân tộc nói chung và
cũng thời kỳ rực rỡ của Phật Giáo Việt Nam với những vị vua nhân từ đức độ,
không màng danh lợi, rời bỏ tột đỉnh quyền uy, cao sang phú quý để trở thành những
thiền sư thông tuệ đạo hạnh.
Ngay từ thời
trai trẻ, nhà vua đã lãnh hội được tinh hoa của môn phái Đông A của dòng họ Trần
nên nhà vua tinh thông võ nghệ hơn người. Nhà vua đã cho thành lập Giảng Võ Đường
ngay kinh đô để đào tạo quan võ nên nhà nho Ngô Thời Sĩ đã viết trong Việt Sử
Tiêu Án “Vua lập ra nhà học, tôn chuộng nghề văn, dựng nên ngôi nhà giảng tập
việc võ. Cả văn lẫn võ có vẻ rực rỡ lắm cho nên có các ông Hán Siêu, Trung Ngạn,
Nhật Duật, Ngũ Lão nối nhau xuất hiện, Văn Trinh và Hưng Đạo là bậc danh tướng
lẫy lừng thời bấy giờ, là kết quả của sự tôn trọng văn võ đó…”.
Vua Trần Thái
Tông hết sức quan tâm tới nền quốc học của nước nhà. Năm 1232, vua Trần Thái
Tông cho tổ chức khoa thi Thái Học sinh là khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của nước
ta. Nhà vua tuy là một Thiền Sư Phật Giáo nhưng lại chủ trương chấn hưng quốc học
trên nền tảng tinh thần “Tam Giáo” nên ra lệnh cho mở kỳ thi Tam giáo vào mùa
Thu năm 1247. Sách Cương mục chép: “Trước đấy, những nhà nho theo Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo mà có con nối nghiệp nhà đều được cho vào thi. Nay lại cho thi
tất cả những ai thông hiểu các khoa về 3 tôn giáo…”. Trong kỳ thi này, nhà vua
đặt ra lệ Tam khôi, chọn 3 người đậu cao theo thứ tự là Trạng nguyên, Bảng nhãn
và Thám hoa.
Đặc biệt ở vào
thời kỳ phong kiến mà nhà vua lại có tinh thần dân chủ nên năm 1250, xuống chiếu
cho thiên hạ gọi vua là “Quốc Gia” nghĩa là nhà vua không xem nặng ngôi vị
thiên tử mà tự xem mình là người đại diện cho nước nhà thì thật là cách mạng,
thật là dân chủ không thấy ở bất cứ nước nào trên thế giới vào thời đó.
Sách sử cũng
chép lại việc Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc Mẫu sắp đặt ép buộc vì quyền lợi dòng
họ Trần khiến Trần Liễu tức giận tụ tập đại quân ở Đại Giang chống lại triều
đình nhưng nhà vua đã hành xử hết sức nhân nghĩa, không vì bảo vệ ngôi vua mà
giết anh như vua Đường Thái Tông đã đang tay giết em rồi lại lấy vợ em trong một
đất nước lấy Hán Nho làm đích điểm trị quốc an dân như Trung Quốc.37 Tất cả đã
nói lên ý nghĩa cao đẹp chuẩn mực đạo đức của Trần Thái Tông không vì ngôi vua
và một người phụ nữ mà chối bỏ tình anh em ruột thịt…
Bàn về cách ứng
xử của Đại đế Trần Thái Tông qua việc gả vợ cũ là công chúa Thiên Cực cho tướng
tài Lê Phụ Trần là người có công bảo vệ mạng sống của nhà vua thì quả là hành xử
của một một bậc đại nhân đại nghĩa, trọn nghĩa vẹn tình. Trong “Thiền Học Việt
Nam”, Học giả Nguyễn Đăng Thục viết về chuyện này như sau: “Nhà vua cũng có một
cử chỉ đặc biệt nhân bản này là sau khi vì quyền lợi của triều đại phải lấy chị
dâu như tục Levirat cổ xưa, để có người nối nghiệp mà phải bỏ Chiêu Thánh và phế
xuống làm công chúa. Bấy giờ là năm 1237.
Cách 21 năm sau,
vào năm 1258, sau khi thắng quân Mông Cổ, vào sinh ra tử, nhờ có Phụ Trần can đảm
và trung thành bảo vệ thoát chết. Một mặt nhớ ơn người trung thần, một mặt cũng
nhớ tới tình xưa nghĩa cũ với Chiêu Thánh nên sang ngày mồng một tết năm 1258,
nhà vua ngự triều ở Chính Điện, định công đánh giặc để ban thưởng, phong cho Lê
Phụ Trần chức Ngự Sử Đại Phu, rồi lại gả Chiêu Thánh Công chúa chp Phụ Trần.
Nhà vua bảo Lê Phụ Trần rằng “Nếu Trẫm không có nhà ngươi giúp sức, thì làm gì
có được ngày nay. Nhà ngươi nên cố gắng để cùng làm tròn sự nghiệp sau này…”.
Cử chỉ trên đây
chứng tỏ nhà vua vẫn có quan điểm về giá trị nhân sinh không hoàn toàn thuộc về
hệ thống giá trị nho giáo. Trong thâm tâm nhà vua lúc ấy hẳn là quý trọng và biết
ơn bầy tôi Lê Phụ Trần coi như chính bản thân mình vì nhờ Trần đem thân che cho
mình khỏi mưa tên giữa trận tiền đang nguy ngập. Vậy nhà vua ở bình diện người
đối với người cũng phải đề cao cái giá trị hy sinh cao cả và anh dũng ấy rồi.
Huống chi hành động hy sinh ấy của Phụ Trần lại là đối với chính mình. Như thế,
ngoài việc nhà vua phải thưởng cho Tước vị cao, mà còn phải đền ơn cứu sống nữa.
Lấy gì mà đền ơn ấy cho xứng đáng giữa người với người?
Nhà vua hy sinh
mối tình đầu của mình cho ân nhân, vì Chiêu Thánh tuy bị phế xuống làm Công
chúa do áp lực của triều đình, nhưng dù sao vẫn là người yêu ban đầu của nhà
vua. Nhà vua hẳn bất an trong lòng khi phải chia tay với mối tình đầu, để người
phụ nữ bỗng trở nên người góa phụ bất đắc dĩ. Do đấy mà xét, chúng ta có thể thấy
được chỗ tế nhị u uẩn của con người Trần Thái Tông vậy…”.38
Đọc lại sách sử
xưa, suy ngẫm về những ứng xử, những hành động của người xưa để lại những bài học
ý nghĩa giá trị mãi tới muôn đời sau. Viết về Trần Thái Tông, Sử thần Ngô Sĩ
Liên viết trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Vua khoan dung nhân từ, đại độ,
có cái lượng của bậc Đế Vương cho nên khai sáng nghiệp lớn để lại truyền thống,
lập ra kỷ cương phép nước đó là chế độ nhà Trần vĩ đại vậy…”.
37. Sử thần Ngô
Sĩ Liên viết “Dụ Tông tán dương Thái Tông bài thơ… Đường Việt khai cơ lưỡng
Thái Tông, Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong. Kiến thành chu tử, An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng… nghĩa là triều Đường và nhà Việt mở nước có 2
vua Thái Tông… Miếu hiệu tuy có giống nhau mà đức độ khác nhau…”.
38. Nguyễn Đăng
Thục: Thiền Học Trần Thái Tông 1996 tr 32.
Sau khi đánh thắng
quân Mông, truyền ngôi cho con lên làm Thái Thượng Hoàng sống đời tu trì đạo hạnh
khi mới 40 tuổi… Sử thần Ngô Thời Sĩ phải hết lời ca ngợi: “Nghiên cứu nội điển làm ra sách Khóa Hư Lục,
mến cảnh sơn lâm, xem sống chết như nhau, tuy ý tứ gần với đạo Phật “Không tịch”
mà chí thì rộng xa cao siêu, cho nên bỏ ngôi báu như trút bỏ giép nát vậy…”.
Thời đại Lý-Trần
là thời thịnh trị của dân tộc Việt về văn học và võ công. Năm 1054, vua Lý Thái
Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt và với chiến thắng năm 1075, danh tướng Lý Thường
Kiệt mở ra một kỷ nguyên Đại Việt lẫy lừng hiển hách đánh tan tành Trung Quốc.
Đại Đế Trần Thái
Tông, sau khi xóa sổ danh hiệu bách chiến
bách thắng của đạo quân Mông Cổ, đã truyền ngôi vua cho con rồi lên làm Thái
Thượng Hoàng lo việc tu trì. Đến đời cháu nội là vua Trần Nhân Tông sau khi
cùng với Hưng Đạo Vương đánh thắng quân Nguyên, năm 1293 đã truyền ngôi cho
thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau
đó vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm đại
sĩ (竹林大士) nhưng vẫn tham gia
điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về
phương Nam bằng phương pháp ngoại giao. Đặc biệt, vua Trần Nhân Tông là vị tổ
sáng lập của Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa
Việt Nam và tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam.
Trong Chiếu Truyền
Ngôi tuyên cáo với thần dân, Nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng đã viết với lòng tự hào
dân tộc về Trần Cảnh: “Nay Trẫm suy đi tính lại một mình, chỉ có Trần Cảnh, văn
chất rực rỡ, thật là thể cách thánh hiền quân tử. Uy nghi lẫm liệt, có tư bẩm
văn võ Thánh Thần, dầu vua Cao Tổ đời Hán, Thái Tông đời Đường cũng không hơn
được…”.
Vua Trần Thái
Tông đã cho mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử Việt trên nền tảng “Tam
Giáo Đồng Nguyên”, nhà vua cũng cho mở Giảng Võ Đường đầu tiên nên thời Trần nền
văn học rực rỡ, võ học xiển dương nhất trong lịch sử Việt.
* PM ANH PHAM TRAN
TẠI SAO MỘT NƯỚC
ĐẠI VIỆT NHỎ BÉ LẠI CHIẾN THẮNG ĐẠO QUÂN MÔNG CỔ KHÉT TIẾNG?
Cho đến ngày nay
rất nhiều nhà nghiên cứu quốc tế vẫn chưa hiểu được là tại sao một nước Đại Việt
nhỏ bé lại có thể xóa sổ danh hiệu “Bách Chiến Bách Thắng” của đạo quân Mông Cổ
khét tiếng? Thật vậy, kể từ khi trở thành đế quốc thì đạo quân Mông Cổ chưa một
lần thất bại. Thế mà Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 3 vạn kỵ binh thiện chiến và 3
vạn quân Thoán Bặc Đại Lý tiến đánh Đại Việt, lúc trở về chỉ còn 3 ngàn kỵ binh
sống sót và 1 vạn quân Thoán Bắc nước Đại Lý.1 (Theo Ngột Lương Hợp Thai truyện
của Nguyên sử và Kinh Thế Đại Điển Tự Lục chép rằng sau khi bỏ Thăng Long, quân
Mông Cổ đã lui về thành Áp Xích, trên đất của 37 bộ Quỷ Phương (Đại Lý) thì chỉ
còn 3 ngàn kỵ binh sống sót và 1 vạn quân Thoán Bắc nước Đại Lý). Như vậy tổn
thất của quân Mông Cổ hết sức nặng nề, quân Đại Việt đã tiêu diệt 27.000 kỵ
binh Mông Cổ thiện chiến cùng với 2 vạn quân Thoán Bặc là một chiến thắng oanh
liệt chưa từng có trong lịch sử, một chiến thắng thần kỳ lần đầu tiên xoa sổ
danh hiệu bách chiến bách thắng của đạo quân Mông Cổ của dân tộc Việt Nam nói
riêng và của cả nhân loại nói chung. Vấn đề đặt ra là tại sao quân Mông Cổ thất
bại tại Việt Nam và không phải 1 lần mà cả 3 lần đều thảm bại nhục nhã?
1 . Lý do đầu tiên là
Lòng yêu nước thương nòi, ý chí quyết chiến quyết thắng để sống còn của quân
dân Đại Việt. Cái Gen yêu nước thương nòi lưu truyền trong huyết quản từ hàng
ngàn năm trước để Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay. Sau gần một ngàn năm bị Tầu
Hán thống trị nhưng toàn dân Việt vẫn vùng lên giành độc lập dân tộc khiến Sử
gia G Buttinger trong tác phẩm The smaller Dragon, NewYork, Praeger 1958 đã phải
thốt lên rằng: “ Một việc phi thường mà không một sử gia nào có thể giải thích
được một cách thỏa đáng, mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều là tại sao sau hơn 1
ngàn năm bị đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hóa và Việt Nam vẫn giành
lại nền độc lập dân tộc”.
Trong suốt trường
kỳ lịch sử, dân tộc chúng ta đã liên tục vùng lên giành tự chủ mãi đến năm 938,
Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng Giang đã mở ra thời kỳ độc lập của dân tộc.
Nhà Đông phương học Paulmus đã nhận định: “Ngay từ ngày lập quốc, tất cả then
chốt của lịch sử Việt Nam đều ở cái tinh thần đối kháng kết hợp một cách kỳ lạ,
một bên là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên kia là ý chí quật khởi quốc gia không
chịu khuất phục mặc dầu bị thua trận, bị phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn
năm bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên đến
thế kỷ thứ mười sau kỷ nguyên, thay vì làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì
ngược lại đã làm cho dân tộc Việt trở nên hùng cường. Việt Nam đầy rẫy những
triết gia hiểu biết theo nghĩa là những con người có chiều sâu tư tưởng, biết
suy nghĩ trăn trở. Càng về đồng quê, thôn cùng xóm vắng thì càng nhiều, đó là
xã hội lý tưởng của Platon mơ ước đã hiện thực ở Việt Nam từ lâu rồi”.
Bộ Bách Khoa
Toàn Thư của thế giới với ban biên tập là những học giả, các nhà nghiên cứu
trong đó học giả Phillipe Devilère đã đặt vấn đề “Lịch sử Việt là gì?”, thế rồi
Phillipe Devilière đã tự trả lời như sau: “Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử,
dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ có một sức sống phi thường. Suốt mười thế kỷ bị
Trung Quốc thôn tính, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản sắc dân tộc và liên tiếp
nổi dậy đánh đuổi kẻ xâm lược ỷ vàosức mạnh tưởng có thể khuất phục được dân
tôc này. Lịch sử đã đặt lòng tin vào dân
tộc ấy và họ đã chứng minh khả năng đề kháng, óc sáng tạo, tính kiên trì và sự
thích ứng với mọi cuộc chiến gian khổ nhất, khó khăn nhất và kể cả không cân sức
nhất... Người Việt Nam tự hào với quá khứ của mình, tôn vinh những bậc vĩ nhân
đã tô điểm rạng rỡ quá khứ đó và quá khứ dù xa xăm hay gần đây luôn luôn có mặt
khắp nơi trên đất Việt Nam, tác động mạnh mẽ vào hiện tại và tương lai.
2 . Lý do thứ hai khiến
đạo quân Mông Cổ khét tiếng phải chịu thảm bại nhục nhã đó là Đại Việt đã biết
vận dụng địa hình để thực hiện chiến lược “Vườn không nhà trống - Tiêu thổ
Kháng chiến” từ thời An Dương Vương đánh tan 50 vạn quân Tần. Đại Đế Trần Thái
Tông biết rõ ưu thế của kỵ binh Mông Cổ tốc chiến tốc thắng, lấy sức mạnh vũ
bão chiến thắng áp đảo đối phương nên sau trận thư hùng đầu tiên, nhà vua đã
cho lệnh lui quân, bỏ trống cả thành Thăng Long để quân giặc tiến vào kinh đô dễ
dàng thì sẽ chủ quan khinh địch. Đồng thời nhà vua đã ra lệnh cho quân địa
phương nơi kinh thành phân tán lực lượng, cất giấu lương thực nên khi quân Mông
vào Thăng Long thì thành không nhà trống. Số lương thực mỗi chiến binh mang
theo đã hết mà đi cướp phá lấy lương thực cũng không có nên lâm vào hoàn cảnh
bi đát thiếu thốn lương thực trầm trọng.
3 . Nếu so sánh lực lượng
3 vạn kỵ binh và 2 vạn quân Thoán Bạt Đại Lý của Đạo quân Mông Cổ và 2 vạn Cấm
quân chủ lực của Đại Việt còn 8 vạn Sương quân là quân địa phương không huy động
ngay được thì quân số tương đương. Mặt khác, chúng ta phải biết rằng Kỵ binh là
binh chủng lợi hại bậc nhất thời trung cổ, là những chiến binh cả đời sống trên
lưng ngựa, bắn tên bách phát bách trúng và chuyển đội hình cơ động cho phép quân
Mông Cổ nhanh chóng tập trung lực lượng đánh vào chỗ mỏng yếu của đối phương,
hoặc sẽ rút lui nhanh nếu thấy bất lợi. Kỵ binh Mông Cổ cũng rất giỏi bắn cung
trên lưng ngựa, họ có thể phi ngựa rồi bắn đối phương từ xa mà không sợ bị đánh
trả. Lịch sử đã chứng minh có những trận mà quân Mông Cổ chỉ đông bằng 1/4 đối
phương mà vẫn chiến thắng (như Trận sông Kalka, trận Mohi...). Đặc biệt, cuộc
chiến tranh Mông-Kim, Mông Cổ chỉ có khoảng 12 vạn quân mà đã đánh bại quân đội
gần 1 triệu người của nhà Kim.
Quân đội Đại Việt
tuy chỉ có 2 vạn Cấm Binh nhưng là lực lượng chủ lực đã được vua Trần Thái Tông
huấn luyện tác chiến thuần thục. Quân sĩ Cám Binh tuyệt đối trung thành với nhà
vua, trên trán có xâm chữ “Thiên Tử Quân” được tuyển chọn những tráng đinh lực
lưỡng võ nghệ trên cả nước. Dòng dõi Nhà Trần là những cư dân sống trên biển,
thường xuyên phải chống lại bọn giặc biển thảo khấu nên phải giỏi võ nghệ. Vua
Trần Thái Tông xuất thân từ môn phái võ Đông A của dòng họ Trần nổi tiếng khắp
miền duyên hải Đông Nam Trung Quốc nên ngay từ năm 1253, nhà vua đã cho thành lập
“Giảng Võ Đường” tại kinh đô lần đầu tiên đào tạo những võ quan và trong những
Thái Ấp của quý tộc Trần đều có những lò luyện võ nên hầu hết các Võ Tướng đời
Trần đều là những danh tướng trong lịch sử Việt Nam.
4 . Vũ khí độc đáo của
Đại Việt: Một lý do nữa khiến quân Mông Cổ đại bại đó là lợi hại của cái Qua,
Câu Liêm, cái Dáo, mũi Lao của quân dân nhà Trần. Quân Mông Cổ đã gặp kỳ phùng
địch thủ, nếu nói là kỵ binh Mông Cổ thạo nghề bắn tên thì những chiến binh Đại
Việt, hậu duệ của tiền nhân Việt Cổ Hậu Nghệ đã sáng chế ra cung nỏ đầu tiên của
nhân loại và ngay từ thời An Dương Vương đã đánh thắng quân Tần với hàng ngàn
mũi tên đồng, với nỏ Liên Châu độc đáo. Thêm vào đó, người Việt cổ từ xa xưa đã
sáng tạo ra một thứ vũ khí độc đáo là cái Qua còn gọi là Câu Liêm, cái Lao (ngọn
Dáo) khắc tinh của kỵ binh du mục. Khi xáp chiến để chống lại vó ngựa Nguyên
Mông, quân Đại Việt ném Qua vừa để chém đầu giặc, vừa để móc vào vó ngựa khiến
ngựa té bổ nhào rồi tiện tay phóng ngọn Lao (Dáo) vào ngực quân thù.
Hoàng Đế Trần
Thái Tông đích thân cầm quân đánh tan đạo quân Mông Cổ xâm lược, xóa bỏ danh hiệu
“Bách Chiến Bách Thắng” của đế quốc Mông Cổ lừng lẫy một thời. Đây là chiến
công oanh liệt nhất đã tiêu diệt 27 ngàn kỵ binh Mông Cổ lần đầu tiên trong
quân sử thế giới. So với chiến thắng của đạo quân Ai Cập Macmeluk năm 1260 chỉ
tiêu diệt được 1.500 kỵ binh Mông Cổ mà thôi. Trước đây người ta sai lầm khi ca
tụng những Đại Đế đem quân đi xâm lược những quốc gia khác như Alexandre,
Cesar, Thành Cát Tư Hãn, Napoleon... Thế nhưng, chiến tích oai hùng của Hoàng Đế
Trần Thái Tông của quốc gia Đại Việt nhỏ bé đã chiến thắng một đạo quân xâm lược
khét tiếng chiếm 1/6 diện tích thế giới mới thật sự xứng đáng với danh hiệu Đại
Đế trong lịch sử nhân loại.
“Hào Khí Đại Việt”
kiêu hùng lại thể hiện qua 2 chiến thắng liên tiếp của quân dân Đại Việt dưới sự
lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông và tài chỉ huy của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo
Đại Vương năm 1285 và 1288. Đại Đế Trần Thái Tông và Hưng Đạo Vương quả là Đại
Danh Tướng không những của Việt Nam mà còn của cả nhân loại nữa.
* ANH PHAM TRAN
Gửi bạn hiền
tóm tắt về 3 lần chiến thắng của nhà Trần Nhà Trần nổi tiếng trong lịch sử với
3 lần đại thắng quân Mông Nguyên 1258, 1285 và 1288. Trong lịch sử chiến tranh
xâm lược, vó ngựa Mông Cổ
chưa một lần thất bại. Trong nửa thế kỷ 13, một đế chế rộng lớn chưa từng thấy
Đế quốc Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia bờ Hắc
Hải châu Âu. Lịch sử Việt Nam huy hoàng chói lọi với chiến thắng đạo quân Mông
Cổ khét tiếng của Đại Đế Trần Thái Tông năm 1258. Chiến thắng oanh liệt này
không chỉ riêng của Việt Nam mà là chiến thắng đầu tiên, xóa sổ danh hiệu Mông
Cổ “Bách chiến Bách thắng” của nhân loại. Quân sử thế giới cũng ghi thêm 2 chiến
thắng lẫy lừng của Hưng Đạo Vương và quân dân Đại Việt năm 1285 và 1288.
Hoàng Đế Trần
Thái Tông không những quan tâm tới nền văn học với chính sách giáo dục mà còn
chú trọng tới nền võ học dân tộc để xây dựng một quân đội hùng mạnh để bảo vệ
giang sơn bờ cõi Đại Việt. Chính vì vậy Sử gia Lê Tung đã phải ca ngợi "chế
độ nhà Trần do đấy hưng thịnh". Vua Trần Thái Tông rất chú trọng việc xây
dựng quân đội thiện chiến, gồm cấm quân và quân các lộ. Năm 1239 ban lệnh tuyển
đinh tráng trong nước gia nhập quân đội với
3 bậc thượng, trung, hạ. Năm 1241, tuyển chọn trai tráng khỏe mạnh và thạo
võ nghệ gia nhập quân Thượng Đô Túc Vệ gọi là Cấm Quân. Năm 1246 Triều đình lập
ra 3 vệ Cấm quân, tên là Tứ thiên, Tứ thần, Tứ thánh.
Cuối năm 1241,
các trại của giặc cướp (thổ phỉ) ở trên đất Tống lại quấy phá biên giới Đại Việt. Vua Trần sai
đốc tướng Phạm Kính Ân mang quân dẹp loạn, phá được quân Thổ, Mán. Vua Trần
Thái Tông thân chinh đánh vào đất Tống, hòng truy diệt các toán cướp Thổ Mán và
nối lại đường giao thông giữa Đại Việt với Tống. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
đã thuật lại cuộc hành quân này rằng: "Vua thân hành cầm quân đi đánh các
trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu
Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền
nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ
hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường
thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về.". Năm 1242, vua
Thái Tông lại sai Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đưa quân lên đóng tại biên ải
Việt-Tống. Trần Khuê Kính thúc quân đánh chiếm lộ Bằng Tường (Trung Quốc), từ
đây các tuyến giao thông giữa Đại Việt với Tống hoàn toàn được khôi phục.
Tháng 8 âm lịch
năm 1253, Thái Tông thành lập Giảng Võ đường để huấn luyện cho quan võ. Ngô
Thì Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án đã ca tụng chính sách xem trọng văn, võ của vua
sáng lập triều Trần: “Vua [Thái Tông] lập ra nhà học, tôn chuộng nghề văn, dựng
lên ngôi nhà, giảng tập việc võ, cả văn và võ có vẻ rực rỡ lắm, cho nên có các
ông Hán Siêu, Trung Ngạn, Nhật Duật, Ngũ Lão nối nhau xuất hiện, Văn Trinh và Hưng Đạo là bậc danh nho, danh tướng lừng lẫy
thời bấy giờ, là kết quả của sự tôn chuộng văn võ đó”. Ở biên giới phía
Nam, kể từ cuối thời Lý, Chiêm Thành thường xua quân cướp phá vùng ven biển của Đại Việt. Sau khi Nhà Trần thành lập,
vua Thái Tông đã sai sứ sang thông hiếu với Chiêm. Người Chiêm một mặt dâng triều
cống, mặt khác cho quân đánh phá Đại Việt và đòi vua Trần trả lại lãnh thổ bị mất
năm 1069. Tháng 1 âm lịch năm 1252, Thái Tông cử em là Trần Nhật Hiệu làm Lưu
Thủ Kinh Sư, rồi thân chinh đánh Chiêm Thành. Quân Đại Việt thắng trận. Kể từ
đó cho đến năm 1285, Chiêm Thành sai sứ sang triều cống Đại Việt.
ĐẠI ĐẾ TRẦN THÁI TÔNG
ĐẠI THẮNG QUÂN MÔNG CỔ 1258
Nhà Trần nổi tiếng
trong lịch sử với 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông 1258, 1285 và 1288, một đạo
quân bách chiến bách thắng trong lịch sử chiến tranh xâm lược. Trong nửa thế kỷ
13, một đế quốc Mông Cổ rộng lớn chưa từng thấy trải dài từ Á sang Âu. Lịch sử
Việt Nam nói riêng và lịch sử thế giới ghi thêm chiến thắng lẫy lừng góp phần
làm suy tàn đế quốc Mông Cổ của quân dân Đại Việt. Cả 3 lần xâm lược, một đạo quân "Bách Chiến Bách Thắng" đã bị
đánh tan tành không còn manh giáp bởi lòng yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng
của quân dân Đại Việt.
Hầu như các sách
sử trước đây đều chép là Tiết Chế Hưng Đạo Vương đã 3 lần chiến thắng quân
Nguyên Mông. Đây là một sai lầm lịch sử mà chúng ta phải phục hồi sự thật lịch
sử. Chính Đại Danh Tướng Đại Đế Trần Thái Tông, với Quốc sư Trần Thủ Độ và danh
tướng Lê Phụ Trần và quân dân nhà Trần đã đánh tan đạo quân Mông Cổ hung hãn
thiện chiến nhất năm 1258. Chiến thắng oanh liệt này đã đi vào lịch sử không
riêng của dân tộc mà còn là của cả nhân loại nữa.
Trong lịch sử
chiến tranh xâm lược, vó ngựa Mông Cổ chưa một lần thất bại. Trong nửa đầu thế
kỷ 13, một đế chế rộng lớn chưa từng thấy “Đế quốc” Mông Cổ trải dài từ Á sang
Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia bờ Hắc Hải châu Âu. Năm 1257, Hốt Tất Liệt
và Ngột Lương Hợp Thai đem quân Mông Cổ đánh thẳng xuống Tây Nam Trung Quốc,
tiêu diệt nước Đại Lý chiếm toàn bộ vùng Vân Nam uy hiếp trực tiếp nước ta.
Sử gia của đế quốc
Mông Cổ là Rasid-ud Din và Lê Tắc (tác
giả An Nam chí lược) đều viết rằng Mông Kha muốn chiếm Đại Việt làm bàn đạp để
đánh thọc vào châu Ung, châu Quế phía nam nước Tống. Chính vì vậy, Mông Kha đã
cử 50 chư vương của triều đình Mông Cổ, trong đó có cả phò mã Mông Cổ tên là
Quaidu tham gia chỉ huy đội quân này.
Đạo kỵ binh Mông
Cổ thiện chiến đánh thẳng xuống nước ta rồi đánh ngược lên Ung Châu và Quế Châu
(Quảng Tây) hợp với đạo quân của Khubilai ở Ngạc Châu, tạo thành thế gọng kìm
chiếm toàn bộ Nam Tống. Trước khi tiến công, Hốt Tất Liệt cử sứ giả sang chiêu
dụ buộc nước ta phải thần phục nhưng vua Trần Thái Tông cương quyết chống trả.
Vua Trần cho bắt sứ giả và cử Trần Quốc Tuấn đem đại binh trấn giữ cửa ải phía
Bắc. Quân Mông chia làm 2 mũi tiến xuống dọc sông Thao để hội quân ở Việt Trì.
Trận huyết chiến
xảy ra bên dòng sông Thao, đích thân nhà vua chỉ huy nhưng trước sức tiến công
như vũ bão của đội quân thiện chiến, nhà vua phải cho lệnh phá cầu Phù Lỗ rồi
rút lui để bảo toàn lực lượng. Thừa thế, quân Mông Cổ tiến công thẳng về Thăng
Long. Vua Trần cho bỏ ngỏ thành Thăng Long rút quân về đóng ở khúc sông Thiên Mạc
khiến một số quần thần lo sợ nhưng Thái sư Trần Thủ Độ vẫn vững tâm tâu với vua
rằng: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ chớ lo”.
Quân Mông tràn
vào kinh thành chỉ thấy thành không nhà trống. Theo Nguyên sử thì khi Ngột
Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long thấy 3 tên sứ giả đang bi giam cầm trong
ngục. Hợp Thai tức giận cho lệnh tiêu hủy kinh thành, giết hết những người già
cả ốm đau bệnh tật vô tội còn ở lại Thăng Long. Sau đó quân Mông Cổ lâm vào
tình trạng thiếu thốn lương thực trầm trọng.
Biết giặc đang
lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, ngày 29 tháng 1, vua Trần Thái Tông ra lệnh Tổng
phản công.
* ANH PHAM TRAN
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire