Vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên (CN), nền văn minh Hy
Lạp đã phát triển rất nhanh vì hai động
lực chính, đó là sự khai triển của các thành phố (poleis) như là một định chế
trung tâm của đời sống tại Hy Lạp và sự thuộc địa hóa miền Địa Trung Hải và Bắc
Hải.
1/ Thành Phố Hy
Lạp (Polis).
Polis (số nhiều
là poleis) là một thị trấn, một thành phố hay một làng với dân quê chung quanh
nhưng đây là một trung tâm mà người dân có thể tụ họp lại vì các hoạt động
chính trị, xã hội hay tôn giáo. Tại một vài thành phố (poleis), trung tâm tụ họp
có thể là một ngọn đồi giống như đồi Acropolis tại Athens, nơi này người dân có
thể dùng làm nơi trú ẩn khi có chiến tranh lan tới, hay là một trung tâm tôn
giáo với các đền đài, đài tưởng niệm được xây dựng. Phía dưới của ngọn đồi là
nơi hội họp của người dân hay một nơi họp chợ.
Vào thế kỷ thứ 5
trước CN, dân số của thành phố Athens vào khoảng 300,000 người với số công dân
nam trưởng thành là 43,000 người. Cộng đồng các cư dân trong thành phố gồm có
các công dân nam có quyền đi bầu cử, các công dân không có quyền đi bầu cử là
các phụ nữ và trẻ em, và các người không phải là công dân gồm có các dân nô lệ
và các người nước ngoài.
Đội hình phalanx
Các công dân có
quyền lợi thì cũng có các bổn phận, họ phải trung thành với thành phố. Khi
thành phố phát triển thì một hệ thống quân sự mới cũng phát triển. Vào thuở ban
đầu tại Hy Lạp, các chiến sĩ là các nhà quý tộc trên lưng ngựa, họ là các kỵ
binh nhưng vào đầu thế kỷ thứ 7 trước CN, các bộ binh là các toán quân
(hoplites) có mũ sắt bằng đồng hay bằng da, đeo tấm che ngực (breastplates), ống
chân có phần giáp che (greaves). Mỗi chiến binh được trang bị một tấm lá chắn
tròn (round shield), một gươm ngắn và một cây giáo dài khoảng 9 feet (3 mét). Các chiến binh này khi ra trận mạc,
đi theo đội hình chữ nhật (phalanx) gồm có 8 hàng người, nếu các chiến binh giữ
nguyên được đội hình này thì họ ít bị thương tổn và dễ dàng chiến thắng, nếu đội
hình bị phá vỡ thì các chiến binh sẽ bỏ chạy.
2/ Sự Thuộc Địa
Hóa Tại Cổ Hy Lạp.
Thời gian giữa
các năm 750 và 550 trước CN, một số lớn người Hy Lạp đã bỏ quê hương để đi định
cư tại các miền đất xa lạ. Nạn nghèo khó và tình trạng thiếu đất đai đã tạo nên
khoảng cách giữa người giàu và kẻ nghèo, nạn dân số quá đông và sự phát triển mậu
dịch là các yếu tố khiến cho có sự thiết lập các xứ thuộc địa. Các thuộc địa Hy
Lạp là các trung tâm mậu dịch để chuyển các hàng hóa về Hy Lạp. Cũng có xứ thuộc
địa là các phần đất canh nông tốt do người Hy Lạp chiếm đoạt của dân bản xứ rồi
mỗi thuộc địa thành lập nên một polis hay thị trấn.
Các nơi định cư
mới của người Hy Lạp là miền bờ biển phía nam của xứ Ý Đại Lợi, phần đất phía
đông của xứ Tây Ban Nha và phần đất miền bắc của châu Phi nhưng ở về phía tây của
Ai cập. Về phía bắc, người Hy Lạp thiết lập các thuộc địa tại Thrace, đây là
nơi có đất canh tác rất tốt để trồng ngũ cốc, tại các bờ biển của Biển Đen (the
Black Sea), tại Hellespont và Bosphorus. Công việc thuộc địa hóa đã làm tăng trưởng
mậu dịch và kỹ nghệ. Người Hy Lạp ở chính quốc gửi đi các đồ gốm, rượu vang, dầu
olive tới các xứ thuộc địa, họ nhận về ngũ cốc và kim loại từ miền tây, cá, lúa
mạch, gỗ, kim loại và dân nô lệ từ miền Biển Đen.
Sự bành trướng mậu
dịch và kỹ nghệ tại Hy Lạp đã tạo ra các người giầu mới, những người này mong
muốn các đặc quyền chính trị tương ứng với tài sản của họ. Tham vọng của họ đã
khiến cho sinh ra các bạo chúa (tyrants) trong thế kỷ thứ 7 và thứ 6 trước CN.
Các bạo chúa này không phải là những kẻ gian ác hay đàn áp như danh từ xử dụng
ngày nay, họ là những kẻ chiếm quyền lực bằng sức mạnh mà không tuân theo luật
pháp. Nhiều bạo chúa Hy Lạp là những kẻ chống lại các nhà quý tộc đang kiểm
soát quyền hành, họ thường dùng các binh lính đánh thuê, thiên vị các nhà buôn,
ưa thích xây dựng nên các đền đài và các tường thành để làm tăng thêm uy tín của
họ.
Lý tưởng căn bản
của xã hội Hy Lạp là tinh thần luật pháp nhưng trong một số xã hội thời đó, chế
độ dân chủ đã bị thay thế bằng thể chế quý tộc hoạt đầu hẹp hòi (narrow
aristocratic oligarchies). Cấu trúc dân chủ trong chính quyền cổ Hy Lạp đôi khi
đã thay đổi khi xét tới hai quốc gia thành phố (city-states) là Sparta và
Athens.
3/ Xứ Sparta.
Sparta nằm tại
phía đông nam của hòn đảo Peloponnesus. Giống như các thành phố khác, Sparta
cũng cần thêm đất đai để canh tác nhưng thay vì đi chinh phục các miền đất thuộc
địa, Sparta lại nhắm tới các miền đất bên cạnh. Vào khoảng năm 740 trước CN,
Sparta đã xâm lăng xứ Messenia mặc dù xứ sở này rộng lớn hơn và đông dân cư
hơn. Sau khi bị chinh phục, người dân xứ Messenia trở thành các nông nô (gọi
tên là helots) phải canh tác cho người Sparta. Vào thế kỷ thứ 7, các người
Messenians này nổi loạn rồi cũng bị dẹp tan. Vì vậy các người Spartans đã quyết
định rằng họ phải tạo ra một xứ sở quân nhân (a military state) để đàn áp
các người Messenians trong các năm tới.
Nhân viên chính
quyền xem xét và quyết định về đứa trẻ sơ sinh Tranh của Jean-Pierre
Saint-Ours, vẽ năm 1785.
Sau năm 600 trước
CN, xứ Sparta trở nên một thứ trại lính, đời sống của người dân đã được tổ chức
chặt chẽ. Từ khi sinh ra đời, một đứa bé được nhân viên chính quyền cứu xét xem
nó có xứng đáng được sinh sống hay không, các đứa bé không đủ điều kiện sẽ bị để
cho chết đi. Từ khi lên 7 tuổi, các đứa trai được tách ra khỏi người mẹ rồi được
sinh sống dưới sự kiểm soát của chính quyền, chúng sinh hoạt trong các trang trại
giống như trại lính và phải chịu kỷ luật gắt gao, chúng được huấn luyện quân sự
và phải vâng lời giới cầm quyền.
Người lính Soartan
Vào tuổi 20, các
thanh niên Spartans tham gia vào trong quân đội chính quy, mặc dù được kết hôn
nhưng họ vẫn làm việc trong các trại lính và ăn uống chung với các đồng đội.
Các bữa ăn rất đơn giản, thường chỉ gồm một tô nước súp đen nấu bằng một miếng
thịt heo, huyết heo, muối và dấm. Vào tuổi 30, các thanh niên Spartans được quyền
đi bầu cử trong các buổi hội họp và sinh sống tại nhà nhưng vẫn phải ghi tên phục
vụ quân đội cho tới tuổi 60.
Trong khi người
chồng ở trong quân ngũ, người đàn bà Spartans ở nhà nên họ có nhiều tự do hơn
và nhiều quyền hành hơn. Họ chăm tập thể dục và sẵn sàng có con và nuôi con. Giống
như các người nam, phụ nữ Spartans tham gia vào các cuộc thi thể thao mà không
mặc quần áo. Người phụ nữ Spartans rất hãnh diện khi có các con cháu chết ngoài
mặt trận vì phục vụ đất nước.
Chính quyền
Spartan do hai nhà vua cai trị, một người trông coi quân đội. Mỗi năm, người
dân bầu lên 5 đại biểu, gọi là ephors, chịu trách nhiệm huấn luyện giới trẻ và
giáo dục mọi công dân. Một hội đồng gồm 2 nhà vua và 28 công dân trên 60 tuổi,
quyết định những đề tài sẽ được đưa ra thảo luận tại các buổi họp. Trong các buổi
họp này, các công dân không có quyền tranh luận mà chỉ có quyền bỏ phiếu chấp
thuận hay bác bỏ.
Các công dân
Spartans không được khuyến khích học hỏi các môn học như triết học, văn chương,
nghệ thuật… bởi vì các môn học này có thể khuyến khích tìm hiểu các tư tưởng mới.
Lý tưởng của họ là nghệ thuật chiến tranh và cai trị.
Vào năm 500 trước
CN, các người Spartans đã tổ chức được một quốc gia quân sự hùng mạnh để duy
trì trật tự và ổn định tại miền Peloponnesus.
4/ Xứ Athens.
Vào các năm về
trước, một chế độ quân chủ đã cai trị thành phố Athens nhưng tới thế kỷ thứ 7
trước CN, quyền lực tại Athens rơi vào tay các nhà quý tộc. Vào lúc này, Athens
là một thành phố (polis) thống nhất trên bán đảo Attica. Các nhà quý tộc tại
Athens là những người sở hữu các mảnh đất màu mỡ nhất, họ cũng kiểm soát đời sống
chính trị và xã hội bằng một hội đồng của các người giàu có, phụ giúp hội đồng
này là một ủy ban gồm 9 pháp quan (archons) và mặc dù có một đại hội đồng gồm
các công dân nhưng đại hội đồng này có rất ít quyền lực.
Vào cuối thế kỷ
7 trước CN, Athens bị khủng hoảng chính trị vì các vấn đề kinh tế. Nhiều nông
dân Athenians bị bán làm nô lệ vì họ không trả nổi nợ cho các chủ đất quý tộc.
Nhiều tiếng kêu than đòi hỏi phải hủy bỏ nợ nần và giao đất cho các kẻ nghèo
khó. Xứ Athens vì vậy sắp sửa đứng trên bờ nội loạn. Các nhà quý tộc quyền thế
đã phản ứng lại cuộc khủng hoảng này bằng cách chọn lựa Solon, một nhà quý tộc
có đầu óc cải tiến, lãnh chức vụ pháp quan duy nhất (archon) vào năm 594 trước
CN và giao cho Solon toàn quyền thực hiện các thay đổi.
Solon đã hủy bỏ
mọi món nợ vì đất đai, cấm đoán các món nợ mới và trả tự do cho tất cả các người
bị bắt làm nô lệ vì nợ nần, nhưng Solon đã từ chối không phân phối lại đất đai
vì thế đã không giải quyết được vấn đề căn bản của cuộc khủng hoảng kinh tế.
Giống như các cải
cách về kinh tế, các biện pháp chính trị của Solon cũng theo cách hòa giải. Để
giảm đi quyền lực của giới quý tộc, Solon đã cho phép các người giàu có không
quý tộc tham gia vào chính quyền, nhưng giải pháp này chưa thực sự giải quyết
được các trở ngại bởi vì các người quý tộc vẫn thèm muốn quyền lực và giới
nghèo vẫn đòi hỏi cách phân phối đất đai. Các bất hòa nội bộ đã dẫn tới thể chế
chuyên chế (tyranny), đây là thứ mà Solon muốn tránh né.
Cleisthenes
Vào năm 560 trước
CN, Pisistratus, một nhà quý tộc lên nắm quyền hành. Pisistratus đã giúp đỡ nền
ngoại thương của Athens nhưng về sau, khi quyền hành về người con trai của ông
ta thì người dân Athenians đã nổi lên, chấm dứt chế độ chuyên chế vào năm 510
trước CN. Vào lúc này, các nhà quý tộc của Athens muốn thiết lập chế độ hoạt đầu
quý tộc (an aristocratic oligarchy) nhưng Cleisthenes, một nhà quý tộc khác với
tinh thần cải cách, đã chống đối chương trình đó vào năm 508 trước CN. Các cải
cách của Cleisthenes đã thiết lập nên căn bản của chế độ dân chủ (democracy) tại
xứ Athens.
Mục tiêu chính của
Cleisthenes là làm giảm quyền lực của các địa phương bởi vì nơi đây là nền móng
của sức mạnh của giới quý tộc, tập trung tất cả dân chúng vào 10 bộ lạc để phản
ảnh ý kiến của tất cả miền Attica và làm gia tăng lòng trung thành đối với
polis là thành phố Athens. Mỗi bộ lạc chọn ra 50 người để tham gia hội đồng mới
gồm 500 đại biểu và các người này chịu trách nhiệm cả về đối ngoại lẫn tài
chánh.
Các cải tiến của
Cleisthenes đã tạo nên các nền móng cho nền dân chủ của quốc gia kinh thành
(city-state) Athens rồi nhiều cải cách khác được thực hiện vào thế kỷ thứ 5 trước
CN khi người Athenians dùng chữ “dân chủ” (democracy) để mô tả hệ thống chính
trị của họ, với chữ Hy Lạp “demos” là “nhân dân” (people) và “kratia” là “quyền
lực” (power). Vào năm 500 trước CN, thành phố Athens trở nên đoàn kết hơn và
đóng vai trò quan trọng hơn trong các vấn đề của xứ Hy Lạp.
5/ Đối Đầu Với Xứ
Ba Tư.
Từ năm 500 trước
CN tới năm 338 trước CN khi xứ Hy Lạp bị Vua Philip II chinh phục, thời gian
này được gọi là “thời đại Hy Lạp Cổ Điển” (Classical Greece). Đây
là thời đại với các thành quả rực rỡ phối hợp với nền dân chủ đâm hoa kết trái
tại Athens dưới sự lãnh đạo của Pericles. Rất nhiều đóng góp lâu dài của xứ Hy
Lạp đã được thực hiện trong giai đoạn này. Thời đại này bắt đầu bằng sự xung đột
giữa các xứ Hy Lạp với Đế Quốc Ba Tư (the Persian Empire) hùng mạnh và to lớn.
Khi nền văn minh
Hy Lạp bành trướng và phát triển tới khắp vùng Địa Trung Hải, không tránh sao
khỏi có sự xung đột với Đế Quốc Ba Tư (the Persian Empire) ở phía đông. Vào giữa
thế kỷ thứ 6 trước CN, các thành phố Hy Lạp tại phía tây miền Tiểu Á (Asia
Minor) (the Ionian Greek cities) đã suy sụp vì Đế Quốc Ba Tư, họ nổi lên chống
lại người Ba Tư nhưng không thành công dù cho họ được Hải Quân Hy Lạp giúp đỡ.
Nhà cai trị xứ Ba Tư là Darius tìm cách báo thù bằng cách tấn công vào chính xứ
Hy Lạp vào năm 499 trước CN. Quân đội Ba Tư đổ bộ lên cánh đồng Marathon chỉ
cách Athens 26 dậm. Tại nơi này, quân đội Athens dù ít người hơn, nhưng đã đánh
bại quân Ba Tư một cách quyết liệt.
Sau khi Darius
qua đời vào năm 486 trước CN, vị vua mới của xứ Ba Tư là Xerxes thề sẽ báo thù
và sẽ xâm lăng Hy Lạp. Để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lăng, các quốc gia thành
phố Hy Lạp đã lập nên một liên minh dưới quyền chỉ huy của xứ Sparta, trong khi
người Athens làm phát triển hải quân. Khi quân đội Ba Tư xâm lăng vào năm 480
trước CN, các người Athens đã có một hạm đội gồm khoảng 200 chiến thuyền.
Trận chiến ở hẻm núi Thermopylae
Xerxes đã chuẩn
bị xâm lăng Hy Lạp bằng một đạo quân hùng hậu gồm 150,000 bộ binh, 700 chiến
thuyền và hàng trăm thuyền chở lương thực để tiếp tế. Lực lượng Hy Lạp gồm
9,000 quân dưới quyền chỉ huy của 1 vua Spartan cùng với 300 chiến binh
Spartans và họ chọn lựa nơi giáp trận là hẻm núi Thermopylae. Do quân Ba Tư
đánh vào sườn đạo quân Hy Lạp, đội quân Spartans đã chiến đấu cho đến người
lính cuối cùng rồi sau đó, quân Ba Tư đã tiến vào Athens và đốt cháy thành phố
này. Trong khi đó tại ngoài biển, các chiến thuyền Hy Lạp đã đánh bại các chiến
thuyền Ba Tư. Cuối cùng vào đầu năm 479 trước CN, quân Hy Lạp đã toàn thắng
quân Ba Tư tại Plataea, phía tây bắc của miền Attica. Từ nay, người Hy Lạp đã
thắng trận và họ được hoàn toàn tự do để theo đuổi định mệnh riêng của họ.
6/ Sự Phát Triển
Đế Quốc Athens Vào Thời Đại Pericles.
Sau khi đánh bại
người Ba Tư, các người Athens tổ chức một thứ lãnh đạo mới gọi là Liên Minh
Delian (the Delian League) vào mùa đông năm 478-477 trước CN. Bộ chỉ huy của
Liên Minh này đặt tại đảo Delos nhưng các nhân viên chính kể cả các thủ quỹ và
chỉ huy hạm đội đều là người Athens. Từ nay các miền đất của xứ Hy Lạp trong biển
Aegean đều không bị người Ba Tư cai trị và Liên Minh Delian trở nên hạt nhân của
Đế Quốc Athens.
Pericles
Sau năm 461 trước
CN, xứ Athens ở dưới quyền điều hành của một nhà quý tộc trẻ tên là Pericles rồi
chính sách dân chủ của Pericles đã được bành trướng tới cả các xứ thuộc địa của
Hy Lạp. Các sử gia đã gọi thời kỳ có nền văn minh sáng lạn này là “thời
đại của Pericles”.
Vào thời đại
Pericles, người dân Athens đã theo đuổi hệ thống dân chủ (the democratic
system). Chủ quyền của người dân được thể hiện tại các đại hội đồng gồm có các
nam công dân trên 18 tuổi. Đã có các buổi họp mỗi 10 ngày tại đồi phía đông của
Acropolis, với số người tham dự ít nhất là 6,000 người. Các đại hội đồng này
thông qua các đạo luật, quyết định cuối cùng về chính sách ngoại giao và chủ
trương hòa hay chiến. Pericles còn cho phép các công dân thuộc giai cấp thấp
(lower-class citizens) được giữ các chức vụ công, nơi mà trước kia họ bị ngăn cấm,
chính quyền trả lương cho các công chức và cho các nhân viên tòa án, các công
dân nghèo từ nay được phép tham dự vào các vấn đề công cộng.
Tại các thành phố
có các quan tòa được chọn lựa không theo giai cấp, chính sách chung quyết định
do 10 nhân viên được gọi là “nhân vật tham mưu” (generals), những
người này do bầu cử công cộng và thông thường họ là các nhà quý tộc giàu có.
Chính ông Pericles đã được bầu lại 30 lần từ năm 461 tới năm 429 trước CN. Tất
cả các công chức đều bị cứu xét cẩn thận và có thể bị loại bỏ nếu không đạt được
miền tin của dân chúng. Chế độ đế quốc của xứ Athens là điều đe dọa cho các xứ
sở khác, vì vậy Hy Lạp sớm phải đương đầu với một trận chiến tranh mới
7/ Trận Chiến
Tranh Peloponnesian Và Sự Suy Tàn Của Các Xứ Hy Lạp.
Bốn mươi năm sau
khi quân Ba Tư bị đánh bại, thế giới Hy Lạp bị chia ra làm hai phe chính: phe
Sparta và các đồng minh và phe Đế Quốc Athens. Trong cuốn sách “Lịch Sử
của Trận Chiến Tranh Peloponnesian” (The History of the Peloponnesian War),
sử gia vĩ đại người Hy Lạp là Thucydides đã cho biết rằng nguyên do chính của
cuộc chiến tranh này là vì xứ Sparta và các ðồng minh ðã e sợ sự bành trướng của
Đế Quốc Athens, vì Sparta và Athens đã xây dựng nên hai loại xã hội khác nhau
và xứ sở này không thể dung thứ xứ sở kia. Một loạt các tranh chấp cuối cùng dẫn
tới cuộc chiến tranh bùng nổ vào năm 431 trước CN.
Trận Chiến Tranh Peloponnesian
Vào lúc đầu, cả
hai phe đều cho rằng mình đã có chiến thuật để chiến thắng. Người Athens trù
tính ẩn náu sau các bức tường thành trong khi hạm đội và các thuộc địa sẽ tiếp
tế cho họ. Pericles biết rõ rằng người Sparta và các đồng minh sẽ đánh thắng
người Athens trong các trận dàn quân nên quân đội Athens cố thủ trong thành trì
và cho hạm đội đánh phá các bờ biển của miền Peloponnesus.
Vào năm thứ hai
của cuộc chiến, một bệnh dịch đã tàn phá thành phố Athens đông người, đã giết
đi 1/3 dân số rồi chính ông Pericles cũng bị chết vào năm sau (429 trước CN),
đây là một mất mát lớn cho phe Athens. Mặc dù bệnh dịch, quân đội Athens đã cầm
cự được 27 năm, nhưng tới năm 405 trước CN, hạm đội của Athens bị tàn phá tại
Aegospotami thuộc miền Hellespont. Thành phố Athens bị vây hãm rồi phải đầu
hàng vào năm 404 trước CN. Các tường thành bị phá hủy, hạm đội Athens bị giải
tán và Đế Quốc Athens bị tàn phá.
Trận chiến tranh
Peloponnesian đã làm suy yếu các xứ sở Hy Lạp, làm tiêu tan sự cộng tác giữa
các xứ sở đó rồi trong vòng 70 năm sắp tới, lực lượng đang phát triển của xứ
Macedonia ở miền bắc sẽ tràn xuống miền nam và lập ra một thế giới mới.
8/ Nền Văn Minh
Của Thời Đại Hy Lạp Cổ Điển.
Thời đại Hy Lạp
Cổ Điển (Classical Greece) là giai đoạn phát triển trí thức và văn hóa rất quan
trọng trong suốt thế giới Hy Lạp. Các sử gia đồng ý rằng thời kỳ xứ sở Athens
dưới quyền lãnh đạo của Pericles (Periclean Athens) là giai đoạn trung tâm quan
trọng nhất của nền văn hóa cổ điển Hy Lạp. Thực vậy, nhà triết học kiêm nhà văn
người Pháp vào thế kỷ 18 là Voltaire đã liệt kê thời đại Athens dưới quyền điều
hành của Pericles là một trong bốn thời đại sung sướng nhất “khi các
nghệ thuật được đưa lên trình độ hoàn hảo, đánh dấu một trình độ cao của trí tuệ
con người và là một thí dụ cho hậu thế” (when the arts were brought to
perfection and which, marking an era of the greatness of the human mind, are an
example to posterity).
Giống như các
dân tộc thời cổ xưa, người Hy Lạp cũng gây chiến tranh, tàn sát và bắt làm nô lệ
các dân tộc khác, họ có thể là tàn nhẫn, tự phụ và dị đoan, họ có thể vi phạm
các lý tưởng của họ nhưng các thành quả của họ thì chắc chắn là có các ý nghĩa
lịch sử sâu xa. Các tư tưởng của phương Tây bắt đầu với người Hy Lạp, họ là những
người đầu tiên định nghĩa cá nhân do khả năng biết suy nghĩ. Các thành quả tư
tưởng của người Hy Lạp đã vượt lên trên các pháp thuật, các huyền diệu, các bí ẩn,
các quyền lực và tập quán để khám phá thứ tự hợp lý của thiên nhiên và xã hội.
Các phương diện văn minh của người Hy Lạp, gồm có triết học, khoa học, nghệ thuật,
văn chương, viết lịch sử…, tất cả liên hệ tới lý trí của con người và giảm đi sự
phụ thuộc vào các thần linh.
Tại các miền
Mesopotamia và Ai Cập, người dân đã không có các quan niệm rõ ràng về giá trị của
cá nhân và không hiểu biết về tự do chính trị. Họ không phải là các công dân mà
là các thần dân bước đi theo lệnh của một nhà cai trị và quyền lực của nhà cai
trị này bắt nguồn từ các thần linh (gods). Dân chúng đã tuân theo quyền hành của
nhà vua do chấp nhận và tôn kính tôn giáo.
Trái lại, các
người Hy Lạp cổ xưa đã tạo nên nền tự do chính trị (political freedom). Họ đã
coi quốc gia là một cộng đồng của các công dân tự do và những người này đã làm
ra luật pháp vì quyền lợi của chính họ. Người Hy Lạp cho rằng con người có thể
tự quản trị và họ đánh giá cao quyền công dân tích cực.
Đối với người Hy Lạp, quốc gia phải để cho người dân sinh sống một cuộc
đời tốt đẹp và các nhà tư tưởng chính trị đã đi tới quan niệm một quốc gia thuần
lý (rational state) hay theo luật pháp (legal state) trong đó luật pháp là sự
biểu lộ của lý trí (reason) mà không phải là mệnh lệnh của thần linh, công lý
phải là sự tốt lành tổng quát cho cộng đồng mà không phải do lòng ích kỷ.
Các người Hy Lạp
cổ xưa cũng cho chúng ta quan niệm tự do hợp đạo lý (ethical freedom). Mọi người
được tự do chọn lựa giữa danh dự và điều ô nhục, giữa bổn phận và sự hèn nhát,
giữa điều độ và sự thái quá. Các anh hùng Hy Lạp đã gặp các bi kịch của đời sống
không phải do các quyền lực trên cao mà vì họ có tự do chọn lựa và ý tưởng về tự
do hợp đạo lý lên tới điểm cao nhất với nhà triết học Socrates. Hình thức cao
nhất của tự do khi con người hình thành chính mình theo các lý tưởng của mình,
khi phát triển thành một con người tự lập và tự điều khiến (a self-directed
person).
Do khám phá ra
lý trí, do định nghĩa tự do chính trị và do xác nhận giá trị và khả năng của cá
nhân, các người Hy Lạp cổ xưa đã thiết lập nên truyền thống thuần lý và nhân bản
của phương Tây.
9/ Viết Lịch Sử.
Herodotus
Lịch sử là cách
phân tích theo hệ thống các sự việc của quá khứ (History is the systematic
analysis of past events). Herodotus (v.k. 484 – v.k. 425 trước CN) là
một người Hy Lạp thuộc miền Ionia trong miền Tiểu Á (Asia Minor), và cũng là
tác giả của cuốn sách “Lịch Sử của các Trận Chiến Ba Tư” (The History
of the Persian Wars), tác phẩm này được coi là cuốn lịch sử thực sự đầu
tiên của nền văn minh Tây phương (the first real history in the Western
civilization). Danh từ Hy Lạp “historia” mà ngày nay chúng ta
dùng chữ “history”, có nghĩa là “tìm tòi” (research) hay “điều
tra nghiên cứu” (investigation).
Đề tài chính của
tác phẩm của Herodotus là sự xung đột giữa các người Hy Lạp và các người Ba Tư
mà tác giả coi là sự đấu tranh giữa nền tự do của người Hy Lạp và nền độc tài của
người Ba Tư (Persians). Herodotus đã đi du khảo tới rất nhiều nơi để thu thập
các dữ kiện và cuốn sách “Lịch Sử” của ông là một nguồn tin tức
quan trọng về các người Ba Tư và về chính các cuộc chiến tranh Ba Tư với Hy Lạp.
Thucydides
Thucydides (v.k.
460 – v.k. 400 trước CN) được coi là sử gia bậc nhất của thế giới cổ xưa.
Thucydides là một người Athens, đã tham dự cuộc chiến tranh Peloponnesian và đã
được bầu là một vị tướng nhưng ông bị tố cáo là đã không bảo vệ được kinh thành
Amphipolis nên bị đầy ra khỏi kinh thành Athens. Trong khi sinh sống lưu vong,
Thucydides đã viết ra cuốn sách “Lịch Sử của trận Chiến Tranh
Peloponnesian” (The History of the Peloponnesian War).
Không giống
Herodotus, Thucydides không quan tâm tới các sức lực thần linh hay của các
thiên thần (gods) là những yếu tố gây nên lịch sử, ông đã coi chiến tranh và
chính trị theo thuần lý, là các hành động của con người. Thucydides đã khảo cứu
các nguyên nhân của trận chiến tranh Peloponnesian một cách rõ ràng và khách
quan, nhấn mạnh vào sự chính xác của các dữ kiện (facts). Thucydides còn nhìn
vào bên trong của hoàn cảnh con người và cho rằng các hoàn cảnh chính trị xẩy
ra giống nhau và sự học hỏi lịch sử thì rất giá trị trong việc tìm hiểu hiện tại.
10/ Viết Bi Và
Hài Kịch.
Người Hy Lạp viết
ra các vở kịch không phải chỉ vì mục tiêu giải trí mà còn được dùng để giáo dục
các công dân và vì lý do này, được chính quyền ủng hộ. Các vở kịch được trình
diễn trong các rạp hát ngoài trời như là một phần của các đại hội tôn giáo
(religious festivals). Nội dung của các vở kịch thường được căn cứ vào các thần
thoại hay các huyền thoại mà khán giả đã biết rõ.
Các vở kịch đầu
tiên của xứ Hy Lạp là các bi kịch (tragedies) được viết ra căn cứ vào sự đau khổ
của một anh hùng và thường kết thúc trong thảm cảnh. Các vở kịch Hy Lạp thường
được trình bày với một bộ “3 vở” xây dựng trên một chủ đề
chung.
Aeschylus
Aeschylus (525-456
trước CN) là bi kịch gia đầu tiên mà chúng ta biết rõ. Ông ta đã viết ra 80 bi
kịch nhưng nay chỉ còn lại 7 tác phẩm. Các vở kịch này chứng tỏ tác giả là một
nghệ sĩ có tinh thần rất ái quốc và tôn giáo, và tác giả Aeschylus đã đưa nền
bi kịch của Hy Lạp tới độ trưởng thành. Trước Aeschylus, bi kịch chỉ có một diễn
viên đáp lại các câu hỏi của ban nhạc. Aeschylus đã tăng sổ diễn viên lên 2 người,
tạo ra cuộc đối thoại khiến cho có phản ứng tương quan giữa các nhân vật trong
vở kịch.
Nội dung các vở
kịch của Aeschylus thì đơn giản, phần lớn đặt trọng tâm vào sự tương phản giữa
lòng mong muốn của cá nhân và quyền lực thần linh đang ngự trị thế giới. Các vở
bi kịch của Aeschylus thì rất giàu về ngôn ngữ và phức tạp về tư tưởng.
Tác phẩm lớn nhất của Aeschylus là bộ kịch
Oresteia (458 trước CN), gồm có 3 phần là các vở Agamemnon, The Libation
Bearers và The Eumenides (The Furies). Trong các vở kịch này, Aeschylus đã diễn
tả sự nổi giận của Vua Agamemnon sau khi từ kinh thành Troy trở về và vở kịch
là sự hòa giải của sự đau khổ của con người với quyền lực thần linh. Vở kịch
cũng mô tả mối hận thù từ lâu đời đã được xóa bỏ và luật pháp được tôn trọng.
Lý trí đã thắng các sức mạnh của tội ác.
Các tác phẩm còn
sót lại của Aeschylus là các vở kịch The Persians (472), Seven Against Thebes
(467), The Suppliants (463?) và Prometheus Bound, vở kịch sau cùng này có lẽ được
tác giả viết vào cuối đời.
Sophocles
Một nhà viết kịch
danh tiếng khác của kinh thành Athens là Sophocles (v.k.496 – 406 trước
CN) với vở kịch “Nhà Vua Oedipus” (Oedipus the King). Một lời tiên
tri của Apollo đã báo trước rằng có một người (Oedipus) sẽ giết cha của mình và
kết hôn với mẹ của mình. Mặc dù nhiều cố gắng để phòng ngừa, các sự việc bi
thương vẫn xẩy ra, Oedipus đã chịu đau khổ vì số mạng quyết định do các thiên
thần và Oedipus cũng chấp nhận rằng anh ta là một con người tự do nên phải nhận
lãnh trách nhiệm vì các hành động của mình.
Euripides
Nhà viết kịch xuất
sắc thứ ba của kinh thành Athens là Euripides (v.k. 485 – 406 trước
CN). Euripides đã tạo ra các nhân vật hiện thực hơn. Cốt truyện của ông ta thì
phức tạp hơn với cách quan tâm tới các hoàn cảnh đời sống thực. Vở kịch nổi
danh nhất của Euripides là vở “The Bacchae” (Thần Rượu), nhân vật
này liên hệ với Dionysus là thần rượu chát (the god of wine). Euripides được
coi là một người bi quan, ông ta thường hay đặt câu hỏi liên quan tới nền luân
lý cổ truyền và các giá trị tôn giáo, chỉ trích quan điểm cổ truyền coi chiến
tranh là vinh quang. Đối với Euripides, chiến tranh thì tàn bạo và man rợ và
ông thương cảm các đàn bà và trẻ em đã bị đau khổ vì chiến tranh.
Các bi kịch Hy Lạp
thường đề cập tới các đề tài phổ biến ngay cả trong đời sống hiện nay. Các kịch
bản này cứu xét các vấn đề như bản chất của tốt và xấu, sự xung đột giữa các
giá trị tinh thần với các đòi hỏi của gia đình và quốc gia, các quyền của cá
nhân, bản chất của các sức mạnh thần linh và bản chất của con người. Bài học bi
thương trong các vở kịch thường được lặp lại là con người được tự do nhưng lại
hành động trong các giới hạn do các thiên thần và nhiệm vụ thực sự của con người
là phải cân bằng và điều độ như vậy con người sẽ biết được vị trí thực sự của mình.
Aristophanes
Tại Hy Lạp, các
hài kịch phát triển sau các bi kịch. Các vở kịch của Aristophanes (v.k.
450 – v.k. 385 trước CN) đã dùng tới các khôi hài thô tục để làm vui nhộn đám
thính giả của kinh thành Athens. Các vở kịch của ông đã phối hợp nhiều đặc tính
như tính kỳ lạ (fantasy), sự thông thái vui vẻ, các lời văn thơ trữ tình duyên
dáng… để chỉ trích nặng nề các vấn đề chính trị, phong cách, giáo dục, âm nhạc
và văn chương. Aristophanes cũng là một bậc thầy về bài hát và nhịp điệu do ông
có một trí tưởng tượng phong phú.
Các hài kịch của
Aristophanes đã cung cấp các hình ảnh trung thực nhất của đời sống tại kinh
thành Athens vào thời đại rực rỡ nhất. Các hài kịch này cũng cung cấp cho chúng
ta các thí dụ sớm nhất và tốt nhất về cách khôi hài chính trị và xã hội.
Aristophanes đã bắt đầu viết ra các hài kịch khi ông chưa đầy 20 tuổi. Ông đã
viết hơn 40 kịch bản, 11 kịch bản còn lưu lại tới ngày nay.
11/ Ngành Triết
Học Của Cổ Hy Lạp.
Theo từ ngữ Hy Lạp, triết
học có nghĩa là “yêu thích sự khôn ngoan” (love of wisdom). Các
nhà triết học đầu tiên của xứ Hy Lạp đã quan tâm tới sự phát triển của tư tưởng
thuần lý (rational thought) liên quan tới bản chất của thiên nhiên và nơi nào
là các sức mạnh thần thánh.
Vào thế kỷ thứ 5
trước CN, các “nhà ngụy biện” (the Sophists) là một nhóm các bậc
thầy triết học đã bác bỏ các điều tìm hiểu thiên nhiên, họ cho rằng tìm hiểu
thiên nhiên thì ở bên ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ con người. Quan trọng
hơn, đó là con người phải cải tiến chính mình và chỉ có một đề tài đáng nghiên
cứu là hành vi của con người (human behavior).
Các nhà ngụy biện
là các học giả đi lưu động, họ giảng dạy cho giới trẻ của xứ Hy Lạp, đặc biệt
là tại kinh thành Athens và họ nhấn mạnh vào tu từ pháp (rhetoric) tức
là nghệ thuật thuyết phục (the art of persuasive speech) để thắng
lý trong các cuộc tranh luận, làm đổi hướng thính giả, đây là một kỹ năng đặc
biệt giá trị tại xứ Athens theo đường lối dân chủ. Theo các nhà ngụy biện,
không có tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai, việc này đúng với một người thì có
thể là sai với người khác, sự khôn ngoan đích thực là ở khả năng nhận biết và
theo đuổi điều tốt lành của chính cá nhân. Vì các ý tưởng này, nhiều người cho
rằng các nhà ngụy biện thì có hại cho xã hội và đặc biệt có hại cho giá trị của
lớp người trẻ tuổi.
Socrates
Một trong các
nhà triết học chỉ trích các nhà ngụy biện là Socrates (469 – 399 trước
CN). Do bởi Socrates đã không để lại các tài liệu viết nên người ta chỉ hiểu biết
về ông qua các học trò của ông, đặc biệt là qua Plato, người học trò nổi
tiếng nhất. Về nghề nghiệp, Socrates là một người thợ đục đá nhưng ông yêu
thích triết học. Socrates đã dạy cho một số học trò nhưng không lấy học phí bởi
vì ông tin tưởng rằng mục đích của giáo dục là cải thiện cá nhân. Socrates đã
dùng tới một phương pháp giảng dạy mang tên của ông, đó là “phương pháp
Socratic” (Socratic method). Phương pháp này dùng tới kỹ thuật hỏi và trả lời
để dẫn dắt người học trò tự nhìn ra sự vật bằng cách dùng chính lý luận của
chính họ. Socrates tin tưởng rằng tất cả kiến thức thực sự thì ở bên trong mỗi
người và cách cứu xét tường tận sẽ làm lộ ra thứ hiểu biết đó, đây là nhiệm vụ
thực sự của môn triết học bởi vì “một đời người không cứu xét thì không
đáng sống” (the unexamined life is not worth living).
Socrates đã đặt
các câu hỏi về thẩm quyền (authority) và chứng minh cho nhiều người thấy rõ giới
thẩm quyền thì thiếu kiến thức. Kinh thành Athens có truyền thống tư tưởng tự
do và chất vấn tự do nhưng vì sự thất bại trong trận chiến tranh Peloponnesian
đã khiến cho người dân của địa phương này không còn dung thứ đối với các tranh
luận công khai và trong việc tìm hiểu linh hồn. Socrates đã bị tố cáo và bị kết
tội đã làm hư hỏng giới trẻ của kinh thành Athens bằng các lời giảng dạy của
ông. Một hội đồng xét xử đã kết án ông bị tử hình.
Plato
Một trong các
môn đệ của Socrates là Plato (v.k.429 – 347 trước CN), được nhiều người
coi là triết gia vĩ đại bậc nhất của nền văn minh Tây Phương. Không giống như
Thầy Socrates, Plato viết rất nhiều. Trong các cuốn sách đối thoại, Plato đã
dùng Socrates là nhà tranh luận triết học chính. Tư tường triết học của Plato
chuyên chú vào bản chất của hiện thực (the essence of reality) và
vào các ý tưởng (Ideas) và các hình thức (Forms).
Ý tưởng về chính quyền được Plato viết ra trong cuốn sách “Nền Cộng
Hòa” (The Republic). Căn cứ vào các kinh nghiệm tại Athens, Plato không tin
tưởng vào các việc làm của nền dân chủ và ông đang tìm kiếm một quốc gia lý tưởng.
Plato quan tâm tới các nhu cầu của cộng đồng hơn là hạnh phúc của cá
nhân.
Plato đã thiết lập
nên một trường học tại Athens với tên là Academos. Một trong các đệ tử của
ông là Aristotle (384 – 322 trước CN) đã theo học tại ngôi trường
Academos trong 20 năm và sau này là thầy dạy kèm cho Đại Đế Alexander.
Giống như Plato,
Aristotle tin tưởng vào các nguyên tắc tổng quát hay hình thức (forms) nhưng
Aristotle cho rằng hình thức và vật chất (matter) thì không thể
tách rời được. Aristotle đặt căn bản cho việc phân tích và xếp loại các sự
vật (things) căn cứ vào sự khảo cứu và điều tra kỹ càng. Aristotle đã
viết nhiều bài khảo cứu về rất nhiều đề tài: luân lý, luận lý, chính trị,
thơ phú, thiên văn, địa chất, sinh học và vật lý. Aristotle cũng đề cập tới
thứ hình thức hữu hiệu của chính quyền. Trong tác phẩm “Chính Trị” (The
Politics), Aristotle đã cứu xét các hiến pháp của 158 quốc gia và đã đưa ra
3 loại chính quyền là: quân chủ (monarchy), quý tộc
(aristocracy) và theo hiến pháp (constitutional government) và
ông đã cảnh cáo rằng chính quyền quân chủ dễ đưa tới nền độc tài
(tyranny), chính quyền quý tộc dẫn tới hình thức “hoạt đầu”
(oligarchy) còn chính quyền dân chủ có thể biến thành “vô
chính phủ” (anarchy) và Aristotle ưa thích chính quyền theo hiến
pháp.
12/ Tôn Giáo Của
Xứ Hy Lạp.
Tôn giáo của xứ
Hy Lạp thì liên hệ tới mọi khía cạnh của đời sống hàng ngày với các tính cách
xã hội và thực tế. Các cuộc liên hoan công cộng bắt nguồn từ cách thực hành tôn
giáo, đã được dùng vì các nhiệm vụ đặc biệt: các trẻ em trai sẽ là các
chiến sĩ còn các trẻ em gái sẽ là các người mẹ. Các đền đài thờ một vị
thần nam hay một vị thần nữ là các tòa nhà chính trong xã hội Hy Lạp, tại nơi
đây không có giới tu sĩ chính thức đặt ra các giáo điều và nghề làm tu sĩ cũng
giống như làm công chức.
Qua thời gian,
các người Hy Lạp công nhận một thứ tôn giáo chung căn cứ vào 12 vị thần nam và
nữ, và người dân tin tưởng rằng các vị thần này sinh sống trên ngọn núi
Olympus, đây là ngọn núi cao nhất tại Hy Lạp. Trong số 12 vị thần, Zeus là vị
thần chính và là cha của các vị thần kia, Athena là nữ thần của sự khôn ngoan
và tài thủ công, Apollo là thần mặt trời và thơ phú, Aphrodite là nữ thần của
tình yêu, Poseidon là em của thần Zeus và thần của biển cả và các động đất. Một
trong các vị thần trên núi Olympus là thần hộ mệnh của mỗi cộng đồng, thí dụ
Athena là nữ thần bảo vệ của kinh thành Athens. Cũng như thế, mỗi gia đình có một
thần hộ mệnh riêng. Trong việc thờ phượng các vị thần, người dân cầu nguyện và
cúng dường. Trong việc tế lễ, người dân cũng giết súc vật hay dâng đồ ăn. Các
con vật hy sinh bị thiêu trên ban thờ ở trước đền đài hay tại ban thờ nhỏ ở trước
cửa nhà.
Các lễ hội
(festivals) cũng được tổ chức để vinh danh các thần nam hay thần nữ. Lễ hội đặc
biệt để thờ Thần Zeus được thực hiện tại Olympia và để thờ Thần Apollo tại
Delphi. Các người Hy Lạp cũng tổ chức các cuộc tranh tài thể thao và Thế Vận Hội
Olympic đầu tiên diễn ra vào năm 776 trước CN, rồi sau mỗi 4 năm lại có một kỳ
Thế Vận mới.
* Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica
Encyclopedia; World Civilizations by F. Roy Willis, D.C.Heath &Co.,
Lexington, Mas. 1982.
Ancient Greece
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire