Kính chuyển,
Xem
khí khái của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương sau 1975 đối với các văn nghệ sĩ miền
Bắc.
HS
Năm
1975 miền Nam bị bỏ rơi và Cộng Sản thắng đại cái “đại thắng mùa xuân”, Huy Cận
được cử vào Sai Gon cùng với một phái đoàn với mục đích thăm dò và chiêu dụ các
văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ
nhiên người mà Huy Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ Hoàng Chương, cũng vì tình bạn
cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì mình lập được công
lớn.
Vì vậy Huy Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ
Hoàng Chương gồm một chai rượu quy, một lọ đầy thuốc phiện và cũng không quên
mang theo một bức hình hồ chí minh.
Rượu
và thuốc thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy Cận ước mong sẽ được Vũ Hoàng
Chương đề tặng cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.
Cuộc
gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ Hoàng Chương đón Huy Cận như một
bạn cố tri nồng nàn vui vẻ.
Sau
khi Huy Cận ngỏ ý muốn Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy Cận khi ra
về có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ Hoàng Chương cũng
chỉ ậm ừ tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ Hoàng Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với ông là rất quy hiếm.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ Hoàng Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với ông là rất quy hiếm.
Còn
bức hình thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới, không một nét chữ đề. Được
báo cáo lại, dĩ nhiên là Huy Cận tím mặt. Nhưng ông biết tính họ Vũ là người
không dễ lung lạc nên cũng đành thôi.
Vũ
Hoàng Chương, ông quả là một người có khí phách. Ông có một cơ hội an thân
nhưng ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng ông “một tấc thành” nên ông phải giữ tiết
tháo, không a dua theo thời cuộc.
Thế
là lại có thêm một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Chê thơ Tố Hữu và dạy Cộng Sản cách làm thơ.
Theo
một bài đăng trên “net” của tác giả Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét
thơ Tố Hữu, được biết phái đoàn từ Bắc vô Nam cùng với Huy Cận như đã nói ở đoạn
trên còn có nhiều nhân vật sáng giá khác như Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Vũ
Đình Liên,..
Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm ”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối.
Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm ”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối.
Buổi
họp này Vũ Hoàng Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy
câu thơ của Tố-Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga Sô này chết vào
năm 1953.
Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với tên trùm văn nghệ Cộng Sản này là câu:
Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với tên trùm văn nghệ Cộng Sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương
chồng
Thương mình thương một, thương
ông thương mười “
Thanh
Nghị với tư cách nằm vùng theo Cộng Sản từ lâu, coi như đại diện miền Nam, dĩ
nhiên ca ngợi thơ Tố Hữu hết mình.
Rồi
lần lượt đến Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Đình Liên từ ngoài Bắc vào lên diễn đàn thì
khỏi nói.
Cũng
cần có một tiếng nói miền Nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản mời Vũ
Hoàng Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng vốn
người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì nghịch ý.
Xin trích nguyên văn sau đây một đoạn của Sông Lô:
“Ai
đã biết Vũ Hoàng Chương ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp
ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành nhảy vào ưỡn ngực “hò kéo pháo”,
nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất
thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái ‘sáng giá’
của đêm họp ‘văn nghệ đặc biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”
Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:
“Thi
nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng
theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào
đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu
chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm
xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh
mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật
khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài
của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao.
Lời
thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có
thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào,
và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải
là hay.
Thơ
hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của
tình tự phổ diễn nên lời.
Tình
tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở
đây, có nghĩa là thơ phải thực.
Tố Hữu
đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u
hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng
chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ
Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi
biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời
Đời Nhớ Ông’ Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi
Stalin.”
Chắc
chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu, mà thốt được những lời
như vậy một cách chân thành.
Cái
không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ.
Một
tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến
đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ
thợ chứ không phải là thơ tiên.
Loại
thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm.
Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó.
Tố Hữu
nếu tự khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong
bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.
Vẫn
theo lời kể của Sông Lô thì lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả
có mặt hôm đó.
Muốn
phản bác luận điệu của Vũ Hoàng Chương, có người đã yêu cầu ông nói về thơ để
hòng bắt bẻ này nọ, nhưng ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ
vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự
thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang.
Có
khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn
tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không
chối bỏ sự thực.
Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi
xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho
riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời,
sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”
Sau
đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật then chốt” cộng
sản, và Vũ Hoàng Chương đã bị bắt.
Như
vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba : bắt đầu
từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn
cho kẻ đang thắng thế.
Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải quy lụy trước bất cứ một áp lực nào.’’
Trích đoạn trên đây nói lên khí phách của nhà thơ miền Nam trước sự thấp hèn của những kẻ dối lòng, tự biến thành ông cai văn nghệ, ra oai tác quái với những cây bút chân chính.
Nhưng không chỉ có thế. Di ngôn của thi bá họ Vũ còn là bản tuyên ngôn của các nhà văn, nhà thơ chân chính, không bẻ cong ngòi bút, chỉ nói lên những điều mắt thấy tai nghe, cho dù vì nói thật, nói thẳng mà phải mất mạng.
Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải quy lụy trước bất cứ một áp lực nào.’’
Trích đoạn trên đây nói lên khí phách của nhà thơ miền Nam trước sự thấp hèn của những kẻ dối lòng, tự biến thành ông cai văn nghệ, ra oai tác quái với những cây bút chân chính.
Nhưng không chỉ có thế. Di ngôn của thi bá họ Vũ còn là bản tuyên ngôn của các nhà văn, nhà thơ chân chính, không bẻ cong ngòi bút, chỉ nói lên những điều mắt thấy tai nghe, cho dù vì nói thật, nói thẳng mà phải mất mạng.
Vũ
Hoàng Chương thẳng thắn phê bình bài thơ của Tố Hữu nịnh bợ Stalin vốn là đồ tể
trời tây.
Theo
sử gia Norman M. Naimark chuyên về thời kỳ xô viết của Đại Học Stanford, trong
thập niên 30, Stalin ra lệnh cho cục Goulag bắt giam rồi hạ sát từ 15 đến 20
triệu người vô tội trong các trại tập trung ở miền băng giá Sibérie.
Con
gái Stalin là Svetlana cảm thấy nhục nhã, từ bỏ họ cha, lấy họ mẹ Allilouïeva,
tỵ nạn chính trị ở Hoa Kỳ.
Vậy
mắc mớ gì mà Tố Hữu bẻ cong ngòi bút, thương vay khóc mướn đao phủ thủ giết người
không gớm tay:
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.
Ta
hãy so sánh giữa vần thơ giả tạo của Tố Hữu và bài thơ nói lên thực trạng miền
Nam vào ngày tết âm lịch đầu tiên vắng bóng cờ vàng:
“Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh”
* GS.Lê Đình Thông
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire