Một ngày tháng 8 năm 1992, tôi nhận được một bài thơ của
một người bạn tin cẩn gởi từ trong nước. Anh chép tám câu thơ của Hòa Thượng
Thích Quảng Độ nhưng không có tựa.
Tôi đọc và rất cảm động. Qua từng câu thơ tôi hình
dung cảnh cô đơn, trống vắng, quạnh hiu mà Thầy đang sống trong thời gian lưu đày
ở Thái Bình trong một buổi chiều đông.
Trong đêm tối giữa nhà lao Phan Đăng Lưu hay trong buổi
chiều mưa tầm tã tay dắt bà mẹ già 90 tuổi trên đường lưu đày từ Sài Gòn ra Vũ Đoài,
Thái Bình, Thầy vẫn một tấm lòng son sắt với quê hương và đạo pháp.
Chúng ta sống trên đất tự do, dễ dàng nói với nhau về
yêu nước, yêu đạo, dễ dàng nói với nhau về hy sinh, đại nguyện. Nhưng nếu chúng
ta sống một đêm, một đêm thôi, trong đau thương trăn trở giữa ngục tối Hàm Tân
như HT Thiện Minh, một đêm mang nặng ưu tư đau nhức tại nhà tù Phan Đăng Lưu như
HT Quảng Độ, một đêm trầm mặc suy tư trên mỗi bước thiền hành ở Quảng Ngãi như
HT Huyền Quang, chắc chắn chúng ta sẽ hiểu ra rằng Bồ Tát giống tất cả chúng ta
nhưng chúng ta không phải dễ dàng là Bồ Tát.
Ngày đó không có mạng xã hội Facebook như bây giờ.
Chúng tôi là một nhóm vài trăm người sinh hoạt với nhau trong giai đoạn
Internet còn rất phôi thai.
Tôi gởi bài thơ cho cả nhóm đọc. Nhưng bài thơ thì phải
có tựa. Tôi không nói với ai, chỉ im lặng và mạo muội đặt tựa là Chiều Đông,
phía dưới viết tên tác giả HT Thích Quảng Độ. Luôn dịp tôi họa lại bài thơ của
Thầy đặt tựa Tấc Lòng Son, và sau đó in trong tập Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười
xuất bản lần đầu tại San Jose cuối năm 1992.
Trước ngày Thầy bị bắt và tôi chưa rời Việt Nam, mỗi
tuần tôi thường gặp Hòa Thượng đi bộ từ chùa Giác Minh trên đường Lý Thái Tổ xuống
ngã sáu Trần Quốc Toản, để từ đó đón xe Lam qua Thanh Minh Thiền Viện giảng thiền
học. Dáng Thầy thanh cao, vầng trán rộng, miệng Thầy luôn mỉm cười như chúng tôi
thường bắt gặp trong những ngày trước 30-4-1975 ở Đại Học Vạn Hạnh. Phải chăng
ngay cả trong lúc mang nặng ưu tư về tiền đồ dân tộc và đạo pháp, tâm Hòa Thượng
Quảng Độ vẫn an nhiên, tự tại.
Thầy dạy Triết Đông và tư tưởng Phật Giáo cho sinh
viên các khoa Khoa Học Nhân Văn và Phật Khoa. Tôi không trực tiếp được học Thầy.
Nhưng những buổi giảng chuyên đề của các thầy thường mở rộng cho sinh viên các
ban khác. Ngày đó tôi còn nhỏ nhưng may mắn được nhiều lần ngồi nghe các thầy dạy
bảo. Hòa thượng Quảng Độ, Hòa thượng Minh Châu, Hòa thượng Mãn Giác, Hòa thượng
Thuyền Ấn v.v.. Mỗi thầy một nét. Cao siêu nhưng gần gũi. Giản dị nhưng thâm trầm.
Những hạt giống nhân duyên các thầy gieo xuống tâm hồn
tôi nay đã lớn lên. Kỷ niệm không bao giờ chết. Kỷ niệm lớn như cây. Nếu biết
chăm sóc, kỷ niệm cũng nở hoa như những loài hoa tươi đẹp khác.
Ba mươi tháng Tư, 1975, chúng tôi như bầy chim bay tán
loạn bốn phương trời. Dù phải sải cánh bao xa, chúng tôi đều mang theo trong
tâm hồn mình những bóng mát của một thời tuổi trẻ. Thời của tuổi mười tám với
buồng phổi căng đầy sức sống. Bóng mát đó là các thầy. Bóng mát đó là thiền viện,
thư viện, giảng đường, và bóng mát đó là lý tưởng Duy Tuệ Thị Nghiệp.
Hành trình đầy bi tráng của Thầy trong suốt 10 năm bị
bắt giam, tra tấn và lưu đày cùng với bà mẹ già 90 tuổi ở Thái Bình đã để lại một
niềm thương yêu và kính phục sâu xa, không những trong lòng nhiều triệu Phật
Giáo đồ Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cả trong cộng đồng nhân loại.
Bài thơ của Thầy:
CHIỀU ĐÔNG
Nghe lòng xa
vắng những chiều đông
Nhìn nước
mênh mông khắp mặt đồng
Bát ngát núi
xa mờ bóng cọp *
Thăm thẳm trời
cao bặt cánh hồng **
Bao độ cà tan
cà nở nụ
Mấy mùa lúa rụng
lúa đơm bông
Năm tháng mỏi
mòn đầu đã bạc
Còn chút lòng
son gởi núi sông
(HT Thích Quảng Độ, Thơ
Tù HT Thích Quảng Độ, trang 165)
*Mơ bóng “hùm” xám (tức Hoàng Hoa Thám) nơi rừng Yên
Thế
* Thúy Kiều mơ bóng Từ Hải:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”
TẤC LÒNG SON
Lời thầy vang
vọng giữa chiều đông
Hương ngát vô
ưu rót tận lòng
Mây nước muôn
trùng tan với hợp
Quê hương
ngàn dặm có mà không
Tóc xưa dẫu bạc
lòng không đổi
Áo cũ dù phai
giữ đạo đồng
Mười năm trải
một lòng son sắt
Tiếng vọng
ngàn thu với núi sông.
(Trần Trung Đạo, Đổi Cả
Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, trang 126)
Cách đây vài năm, khi nhận được thi tuyển Thơ Tù của
HT Thích Quảng Độ lần đầu, tôi hồi hộp đọc phần mục lục trước để xem Thầy đặt tựa
bài thơ là gì.
Tôi rất vui và cảm động khi biết Thầy cũng đặt tựa bài
thơ là Chiều Đông. Tôi thầm cám ơn Thầy đã cho phép tôi được sống trong cùng một
tâm cảm với Thầy.
Thầy là rừng, tôi chỉ là chiếc lá nhưng nhờ có nhân
duyên lá và rừng được sống với nhau trong một chiều đông.
Sáng hôm qua, trong lúc đang đi bộ trên đường nhỏ
trong xóm tôi nhận một tin nhắn của một Phật tử tin cẩn từ trong nước “Hòa thượng
Quảng Độ vừa viên tịch”. Tôi lặng người. Không phải vì Thầy ra đi sớm nhưng vì
Thầy ra đi.
Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ viên tịch chấm dứt một
chương dày 45 năm trong lịch sử đầy thăng trầm của Phật Giáo Việt Nam . Những chương mới sẽ mở ra nhưng sẽ khác hơn nhiều.
Trong tất cả tôn đức chịu đựng tù đày, Thầy là vị đã sống
trong tù lâu nhất. Từ tháng 6, 1977 cho đến khi viên tịch, Thầy vẫn là một tù
nhân của chế độ CS tại Việt Nam .
Chín mươi năm từ khi tiếng gậy trúc của chư tổ vang
lên ở các tổ đình khởi đầu cho công cuộc phục hưng Phật Giáo. Trong thời gian đó,
bao nhiêu đổi thay đã xảy ra cho đất nước Việt Nam và cho Đạo Phật tại Việt Nam .
Hôm nay, một trong những vị còn lại của thế hệ phục hưng
Phật Giáo vừa viên tịch. Con thuyền đạo pháp như Thầy nhấn mạnh sau 1975 vẫn
còn chênh vênh và niềm trăn trở cho quê hương của Thầy vẫn còn trăn trở.
Nhưng áng mây bay đi sẽ mang về những giọt nước cho
cánh đồng khô. Không có gì còn hay mất. Chỉ là những dạng khác nhau trong một
cuộc vận hành.
Cành mai Quảng Độ vừa rơi xuống nhưng như Thiền Sư Mãn
Giác đời Lý viết, sáng mai đây, những cành mai khác lại sẽ nở ra.
Bước chân của Thầy không còn nghe nhưng tình yêu của
Thầy dành cho quê hương vẫn sáng như ánh trăng rằm, đậm đà như mùi hương của đất
và dạt dào như lời thơ Thầy viêt trong một Chiều Đông năm đó.
Từ nước Mỹ xa xôi, con cúi đầu đảnh lễ giác linh Thầy.
Trần Trung Đạo
Share this:
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire