Đầu tháng 9-96, báo Ngày
Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà ký tên Nga (Sài
gòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Đại Tá Không Quân Đặng Duy Lạc, người
đã viết đoản văn “Giòng Đời” trên Đặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân
Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.
“Giòng Đời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên
thiếu. Đó là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời
đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm
tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng,
ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại
trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ.
Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: “… Tác giả (Duy Lạc) kể lại
mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học
cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay,
ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô
Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam ”.
Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sài gòn, và cô Nga ngày xưa được đọc
bài “Giòng Đời” và sau đó, viết một bài chuyển ra ngoài với
tên “Hồi Âm Giòng Đời”. Đây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại
một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước…”
Bài “Hồi Âm Giòng Đời” đăng trên Ngày Nay đã gây một
xôn xao dư luận, nhất là
trong dư luận Không Quân. Ở
một vài nơi, có những báo
khác đăng lại. Đây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính
cách bi thương, lãng mạn, chung
thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân
tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương tàn.
Lý Tưởng đăng lại bài
văn “Hồi Âm Giòng Đời”, vì thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một
câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết bất ngờ và đau xót là Đại Tá Đặng
Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng,
lá thư tình gởi muộn đã
làm anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè, yêu không dám ngỏ
và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40 năm…?
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… (Kiều)
Phải chăng chính cái tâm “quán tưởng” theo kinh Phật
mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ
Đặng Duy Lạc tưởng
tượng thêm ra những
tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm
đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi
giòng chữ bùi ngùi thương
tội “Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một
vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…” khiến “Anh
Duy thân mến” của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối
tình đằng đẳng chưa
tan.
Thứ nữa, “Hồi Âm Giòng Đời” của Nga Sài gòn có một giá
trị văn chương cao vượt trên “Giòng
Đời” của Duy Lạc khó mà phủ nhận. Người nữ đó đã sống hết ngả truân
chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều, khổ đau và tủi nhục trên cả
Lara trong “Dr. Jivago”, vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong “A
Farawell To Arms”.
Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã
cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng
dành cho đất nước,
thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… Để bốn chục năm sau,
bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi “Anh Duy dấu
yêu” những lời nồng nàn tha thiết, bây giờ mới ngỏ… Để tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt nhức,
tay cầm tờ thư
cũng run lên, như
trước đây, bên trời xa
mù tắp, Nga cũng run lên “còn hơn bị B-52 trải thảm”, khi đọc “Giòng
Đời” trên giai phẩm Ngàn Sao.
Thiên tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn
chương tới độ chân
thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc.
Thêm vào đó, “Hồi Âm Giòng Đời” còn là một tác phẩm sâu
sắc, tát thẳng vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng,
nói về thực chất của cái gọi là “nhà nước”, trên phương diện thông tin chỉ thuần mục
đích tuyên truyền “nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích”, về tệ
trạng tham nhũng hối mại “chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ
tiền v.v… thì cái gì to như con voi cũng qua lọt”, và thú nhận lầm lỡ đi theo
Việt cộng chỉ là do “định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng
bỏ quê hương!”… Em tập kết vì ngỡ mình sẽ đến được một nơi như thiên đàng, chứ
không phải vì lý tưởng hay vì bị huyền hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn
không còn có cảnh người bốc lột người….”
Đó là tâm trang não nề của “người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt
đầu điểm sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất..” tủi buồn ngậm
giọt thương thân, nhớ lại mối
tình thơ ngây không dám ngỏ
và thổn thức hồi niệm cuộc chia ly định mệnh, khiến cho đời nàng giông
bão “Nhiều đêm em đã khóc vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh
thật nhiều…” Nhớ đến bóng hình xưa thuở thanh xuân đèn sách học trò và giấc mơ lãng mạn “Có lần nào
anh say sưa oanh kích, mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn
phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không
hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy?”
“Hồi Âm Giòng Đời” nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng
ta, của phần số đau thương
bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng
giòng chữ phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ
đau ray rứt đã khiến ông Đại Tá phi công khu trục Đặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giã
anh em, từ giã bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia thế giới…
* Đào Vũ Anh Hùng
* * *
GIÒNG ÐỜI
Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều
xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng
tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được
nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới.
Ðó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng
sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi
đau buồn trên đất khách.
Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập “Luân Lý Giáo Khoa Thư” ở
nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà
thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên v.v… và
nhóm chủ trương Tự Lực Văn Ðoàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít
mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách
mạng (Ðôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng
yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy, Tô Vũ, Ðặng Thế Phong.v.v… đã thật
sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của
tuổi thanh niên.
Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của
chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều
phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày
toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và
cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào
bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì
còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về
vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh
phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh
sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía,
nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi
qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi.
Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc
buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó.
Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại
trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến,
sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch
nhau. Trong lớp “Ðệ nhất niên” của tôi có độ mươi cô nữ sinh.
Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh
thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng,
Hương Lý, Hương Hộ v.v…
Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học
hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn
bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ
sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao
cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt.
Ðã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng
lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc
quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi
tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Ðôi môi em
đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho
cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi
khi tôi trêu chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của
cô gái dậy thì, có lúc là một “message” ưng chịu kín đáo của
thời đó.
Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa.
Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi
thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư “Cô hàng
xóm”:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…
Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi
chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thêm một
chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời
trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng “người Sài gòn” và
một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi
chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển.
Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm học sinh
cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với
Nga về khả năng văn nghệ của mình. Ðêm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc “Nhớ Chiến Khu”,
một bài ca tủ của tôi, “Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên
đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo…” Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà,
nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy
cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng
ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa
tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng
chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho tôi.
Rồi có một lần, chuyện phải
đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời.
Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của
mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô cùng.
Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai
câu bất hủ “L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière” mà
tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị
tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng.
Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng
rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và
cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc
bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng.
Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi.
Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ
hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết
cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong
đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá
chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm
gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để
làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận
nàng và trốn học luôn…
Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý,
Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích
với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư).
Nàng trách tôi tại sao bỏ học
và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn
sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận
được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học
trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề
hay biết.
Con thuyền đưa tôi vào Nam
chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng
tôi…
Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực.
Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn
lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku.
Chú đi sĩ quan Thủ Ðức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều
lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp
để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy
mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh.
Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp
đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần
đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh “Ðồn Lẻ Chiều Xuân” chú đã
âm thầm bước thêm bước nữa để nếm
mùi “một cảnh hai quê”. Thật tội nghiệp!
Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi
công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sàigòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một
sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Ðuợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày
Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm Ðại úy và
là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng
đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận
ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu
chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình
ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói: “Anh tôi vẫn nhắc nhớ
về chị.” Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: “Dạ vâng, tôi
đoán thế.” Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò: “Chị có biết anh tôi
ngày xưa làm gì không?” .“Dạ tôi biết,
nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa”. “Chị có oán hận, căm
thù gì chúng tôi không?” Nga lắc
đầu cười chua chát, “Tôi không nghĩ đến điều đó, và
chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất
là đối với anh ấy…”
Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm
tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
Và trong buổi chiều hôm đó,
theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga như “lội
ngược giòng thời gian” tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất
của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối.
* Duy Lạc
* * *
Hồi Âm GIÒNG ÐỜI
Anh Duy thân mến,
Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sài gòn dịu bớt.
Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng
hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết lá thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần
chào ly biệt… Không biết rồi lá thư này có thể đến
tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi
em cũng liều…Cầm bằng như gió mang đi.
Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc
cùng cơ quan với em trước đây. Chị
ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền
phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới
rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm
quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải
quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên
truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du
khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng
hồ rẻ tiền…v.v… thì cái gì to như con voi qua cũng
lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một
luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có
tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền,
còn hầu hết đều… cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng
Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng
trong nói nhỏ:
– Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng.
Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay
em một tờ báo. Chị nói:
– Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra
đọc. Ðọc để xúc động vì “người ta” còn
nhớ tới mình!
Nhìn trang bìa tờ báo có
hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao,
lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm
từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến
tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gì đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện
tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh
trấn an:
– Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công
an nào dám đụng đến?
Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em
run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.
Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến
đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là
con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự
trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã
say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi
em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, “Chắc chắn là anh đây
rồi?!” Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái
tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một
thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao
khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn
nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân.
Em còn nhớ đêm liên hoan,
anh hát bài “Nhớ Chiến Khu”. Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em
cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ
nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run … vì ánh mắt ngưỡng mộ và say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của
em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của
anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, “mờ mịt” thì
anh phát âm thành “mờ mịch” hay “vui quá” thành “vui
góa”. Và còn nhiều chữ độc đáo nữa…
Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát
âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng
phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là…Sài
gòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em
đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.
Anh còn nhớ lần đi cắm trại
đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn
em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại
của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này
chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới
lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:
– Trại sinh bên toán B ăn hết
“thịch” (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho “dzui”!
Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một
cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
Dân trong làng kế cận khu cắm
trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp
ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh
tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài;
con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập,
mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.
Dường như lúc bấy giờ anh
say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì
đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò
nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng
nó cũng khoái và để ý “người
Sài gòn” có mái tóc chải bảy ba
tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái
tinh quái ấy không?
Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà
nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn
ngày sau mới hiểu. Cái tính “nghịch” ấy ngày nay anh vẫn không
bỏ. Trong bài “Giòng Ðời”, em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong
đó.
Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!
Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của
bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng
nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh
không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối
cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không
xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa
lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn
ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!
Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau
xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
Em là con gái, trời ban cho
em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải
qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần
và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý
và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng
tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình
vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa
cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để… ngắm
anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh
chàng đang ngấm nghé.
Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần
lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy – con
gái ông Xã Tài – đọc trộm lá thư em dấu trong sách
cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng
oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái
nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ
anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên
để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng
phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng
mình!
Ngày anh cầm tay em lần đầu
(và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố
tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống
tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt
tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc
trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng
trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp
gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi
anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận
anh hơn.
Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong
làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng
Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia
đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy
em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc
chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường
lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em
thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!
Anh Duy yêu dấu,
Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi
bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ
đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những
buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên
bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc
rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sài gòn ngồ ngộ của anh nữa!
Sự đãi ngộ ở miền Bắc không
tốt đẹp như những gì mà “người ta” đã
ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn
ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết
hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài “Giòng Ðời” anh
kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không
đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính
thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu “bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi
rồi!”
Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Ða số
nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu
đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không
còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ
tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được
quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến
trường B (tức là xuôi Nam) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già
và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn,
chứ không phải là kẻ lên đường “làm nghĩa vụ quốc tế” như người ta cổ võ đề
cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi!
có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn
phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong
tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ
ngàng.
Có lần em nhặt được tờ truyền
đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội
dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát,
nhưng cơ hội không bao giờ
đến với em cả!
Khi miền Nam được “giải phóng”, em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp
nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa
chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn
vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một
người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa
đi “học tập cải tạo”, rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng
mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật
ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng
chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế
hở anh Duy?
Năm kia, chú Lâm về Sàigòn,
chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được
trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế
hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai
kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ
mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ
nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của
người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong
quá khứ.
Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn
mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ
phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời.
Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, “Một
Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!” Ðời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì
em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng
trai Sài gòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn.
Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và
âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng
ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều
và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi!
Ðừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh
con bé Nga mười mấy tuổi, má lúm đồng tiền và nụ
cười răng khểnh.
Em xin dừng bút. Cầu chúc
anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
Thân ái,
Em gái anh,
Nga
Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một
sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện.
Em hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire