Người
viết có hai người bạn thân, chơi với nhau từ thời còn học ở mấy lớp trung học đệ nhất
cấp là Đào Mộng Nam và Phạm Xuân Hy. Ba chúng tôi đều mê đọc sách. Riêng hai bạn
Xuân Hy và Mộng Nam có ước vọng là học chữ Hán để nghiên cứu văn chương, văn
hóa Tầu. Tôi không quan tâm về việc học chữ Hán, nên thấy ước vọng của Hy và
Nam chỉ là ý thích của tuổi mới lớn, khó giữ được giữa đời sống có quá nhiều việc
phải làm để có thể tiếp tục việc học ở trường.
Nhưng chỉ 7 năm sau, chứng kiến sự thành tựu với 3 tập sách Chữ Nho Tự Học
của Đào Mộng Nam (57-64) và sự thành tựu của Phạm Xuân Hy với những sách dịch
truyện Liêu Trai, những bài nghiên cứu văn chương, lịch sử Trung Hoa vào thập
niên 1990, tôi thấy mình đã nhận định nông nổi về ước vọng của hai người bạn. Từ
hai sự thành tựu lớn này, tôi nghĩ việc tự học chữ Nho của Mộng Nam và Xuân Hy
đã trở thành những tấm gương đẹp. Vì thế tôi muốn ghi lại ít điều về hai tấm
gương ấy.
I. Phạm Xuân Hy
Phạm Xuân Hy sinh năm 1939, di cư vào Nam với mẹ, nhưng sống ở Trại Học
Sinh Di Cư Phú Thọ, cạnh Trường Đua Phú Thọ, Sài Gòn. Khi biết trại có quyết định
đóng cửa vào năm 1958, Hy đã tình nguyện đi sớm theo sự khuyến khích của trại để
được trại phát cho 700 đồng. Xuân Hy đã dùng số tiền này để mua chiếc xe đạp,
làm phương tiện đi học và đi bán báo. Hy đến ở nhờ nhà Phạm Quang Chiểu bạn học
của tôi, ở Cống Bà Xếp, gần chợ Hòa Hưng đường Lê Văn Duyệt. Gặp Xuân Hy ở nhà
Chiểu, thấy nhà chật chội, nên tôi bảo Hy về ở nhà tôi ở ấp Cả Trắc, gần ngã ba
Ông Tạ. Năm 1957, khu này là miền quê, dân cư thưa thớt, sống với nghề trồng mấy
loại hoa cúc, huệ, mào gà... và trồng mấy loại rau như cải, sà lách, hành tỏi...
Xuân Hy về ở nhà tôi có thể gọi là an cư, ngày đi học, đêm đi bán báo Tự Do,
Ngôn Luận tới 10 giờ.
Hy đến ở nhà tôi đã đem đến cho tôi mấy nguồn vui:
- Thứ nhất, Hy đã dẫn tôi vào nghề bán báo buổi tối. Mỗi chiều khoảng 6 giờ,
chúng tôi tới lấy báo Tự Do ở đường Võ Tánh, ngã sáu Sài Gòn, và Ngôn Luận ở đường
Lê Lai, khi báo mới in ra. Hy đi bỏ mối báo, vì đã có được mấy chục gia đình
mua báo tháng. Còn tôi mới vào nghề nên phải đi bán rao ở Phú Nhuận. Tôi phải
đi xa như thế vì mấy khu dọc đường Lê Văn Duyệt đã thuộc về một số bạn vào nghề
trước. Mỗi tối tôi bán được 40 số báo dễ dàng. Vào hẻm nào trên đường Chi Lăng,
Nguyễn Huệ, Võ Tánh cũng phải quay xe lại với tiếng gọi: Báo. Đi bán rao hơn 4
tháng, tôi có trên 40 chục gia đình mua báo tháng. Thế là tôi thôi bán rao,
chuyển sang bỏ mối như Xuân Hy. Đêm nào cũng hơn 10 giờ mới về đến nhà, nhưng
tôi vui vì đã kiếm được tiền để tự lo lấy quần áo, sách vở.
- Thứ nhì, Xuân Hy đến, tôi có bạn đồng hành đọc truyện Tàu để thảo luận những
tình tiết và nhân vật trong những truyện đó. Những đêm mưa, chỉ có tiếng i..om
của ếch, nhái, ễnh ương, chúng tôi mỗi người một đèn dầu, đọc truyện Liêu Trai
Chí Dị, Tam Quốc Chí, Thất Kiếm Thập Tam Hiệp... Khung cảnh đêm hoang vu với những
tiếng ộp oạp... của ễnh ương đã đưa chúng tôi vào thế giới ma quái của Liêu
Trai Chí Dị. Trong khi trò chuyện về truyện Tàu, Hy nói với tôi là anh sẽ tự học
chữ Hán để có thể đọc Liêu Trai, Tam Quốc, Thủy Hử... từ nguyên tác chữ Hán.
Theo Hy những trang chữ Hán có sức thu hút đặc biệt, và bảo là học giả Nguyễn
Hiến Lê, Tây học mà tự học chữ Hán để có thể nghiên cứu văn chương Tàu. Hy đưa
tôi coi 3 cuốn Đại Cương Văn Học Sử Trung Hoa của Nguyễn Hiến Lê và cuốn Học Chữ
Hán Bằng Thơ Đường của Trần Trọng San mới mua. Hy nói: Vừa đọc vừa học. Chưa biết
sao, nhưng đọc thơ qua chữ Hán thấy thú hơn. Từ đó, tôi cũng làm quen với thơ
Đường qua cuốn thơ Đường của Trần Trọng San.
Xuân Hy ở nhà tôi trên một năm, rồi cùng mấy người bạn khác thuê nhà bên trại
Tân Chí Linh. Đường vào Tân Chí Linh đối diện với ngõ vào ấp Cả Trắc, qua đường
Thoại Ngọc Hầu. Năm 1960, Hy học năm cuối ở trường Chu Văn An, và năm sau thành
công chức của Nha Trước Bạ, Sài Gòn. Đầu thập niên 1960 gia đình tôi chuyển lên
Đà Lạt... Tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi ra chiến trường ở Thừa Thiên, Quảng
Trị, nên từ đó không gặp Xuân Hy nữa.
* * *
Năm 1981 tôi ra tù cải tạo, vượt biên tới Galang năm 1986 và được vào Mỹ định
cư năm 1987. Qua bài giới thiệu tập sách “Việt Nam Đỏ Sau Chiến Tranh” tôi viết
khi ở trại Bataan, Phi Luật Tân, trên tờ Lửa Việt của Hải Triều, Xuân Hy liên lạc
được với tôi vào cuối năm 1987. Sau đó, Hy gửi cho tôi “Truyện Kinh Kha” do Phạm
Xuân Hy dịch từ Sử Ký Tư Mã Thiên, và cho biết đang dịch Liêu Trai Chí Dị của Bồ
Tùng Linh và một số truyện Liêu Trai của những tác giả khác. Đọc bản dịch truyện
Kinh Kha với những điều Hy cho biết, tôi nhớ lại lời Hy nói thời ở ấp Cả Trắc
năm 1957-58 và mỉm cười trước ước vọng đã thành tựu của Hy.
Tôi viết thư hỏi Xuân Hy: Tiên sinh học chữ Hán từ năm nào. Cách học ra
sao, tìm ra cách học mới hay vẫn học theo nếp cũ. Học trong thời gian bao lâu
thì tiên sinh có thể đọc truyện và dịch.
Xuân Hy đã trả lời như sau:
“Tôi bước vào con đường tự học chữ Nho từ năm 1975, trước hết là để thực hiện
ước vọng từ lâu và sau đó là để tiêu khiển trước sự đổi thay đột ngột kinh
hoàng của đất nước. Học để quên đi những tháng ngày khó khăn đen tối, lo âu cho
một tương lai mờ mịt. Mới đầu tôi mua cuốn tự điển Hán Việt của Thiều Chửu, bắt
đầu gạch từng nét, đếm từng chữ. Khi đã có một số chữ làm vốn, tôi vào Chợ Lớn,
trước cửa sân Tinh Võ, trên đường Nguyễn Trãi, mua những quyển truyện bằng
tranh, lớn bằng bàn tay mà tôi mê thích khi còn nhỏ, như Tiểu Lý Quảng, Thuyết
Đường, Song Trùy Hà Nguyên Khánh, Chinh Đông Chinh Tây...hình vẽ rất đẹp với những
hàng chữ ngắn gọn dễ đọc. Tôi dùng tự điển Thiều Chửu để tra từng chữ cho hiểu
cốt truyện và để học.
Với vốn chữ đã khá và quen văn Tàu, không biết bao lâu, nay nghĩ lại, có thể
trên một năm, tôi bước sang đọc tiểu thuyết võ hiệp như Bạch Phát Ma Nữ của tác
giả nổi tiếng thời ấy là Lương Vũ Sinh, viết theo lối bạch thoại, từng là bậc
thầy của Kim Dung. Rồi tiến xa hơn, tôi bước sang đọc cổ văn, tức văn ngôn và tập
dịch Liêu Trai Chí Dị mà thời ở ấp Cả Trắc (1957-58) tôi đã nói là sẽ có ngày đọc
từ nguyên tác chữ Hán. Văn trong Liêu Trai viết theo lối văn ngôn, thường chứa
nhiều điển cố, thành ngữ, cú pháp rất khúc mắc, thâm thúy khó hiểu. Có khi đọc
được mặt chữ, nhưng không hiểu nghĩa của câu.
Xuân Hy cho biết Hy và gia đình vượt biên năm 1979, đến đảo Pulau Tanga,
thuộc Mã Lai. Ở trên đảo được 6 tháng thì được phái đoàn Pháp nhận cho định cư.
Hy viết thư về Việt Nam nhờ chú em vợ mua cho cuốn từ điển Thiều Chửu học tiếp
và từ đây đi vào dịch truyện theo lời khuyên của cụ Nguyễn Hiến Lê là viết và dịch
cũng là một phương pháp học một ngoại ngữ nhanh nhất.
Đến đầu thập niên 2000, tôi nhận được email của Hy, cũng chuyện về tự học
chữ Nho, Hy cho biết có hai người bạn hỏi Hy về việc học chữ Hán. Một người hỏi
rằng Hy học tiếng Tàu hồi nào mà dịch thuật nghe có vẻ xuôi tai. Người khác nói
là mình mới mua mấy chục tờ báo cũ để tìm đọc những truyện Liêu Trai Chí Dị, thấy
cậu dịch Bồ Tùng Linh cũng khá - cậu dịch hay là cop của ai đấy? Sự thắc mắc của
hai người bạn, vừa có ý thán phục, nhưng thoảng mây mù có đôi chút nghi ngờ.
Riêng tôi rất cảm động và yên lòng với câu nói “Cậu dịch Bồ Tùng Linh cũng
Khá”, cũng như câu “Nghe có vẻ xuôi tai”. Nghe có vẻ xuôi tai là vì tôi đã trút
tất cả tâm tư và tình cảm vào cốt truyện và tôi đã sống với nhân vật của mình
khi tôi dịch loại truyện chí quái lãng mạn này. Đôi khi gặp những câu cú khó
khăn, nhiều điển tích, thành ngữ hiểm hóc, không có đồng nghĩa của tiếng Việt,
tôi chỉ dịch ý mà không dịch chữ để cho bớt lủng củng. Việc này đòi hỏi nhiều
công sức và thì giờ tra cứu. Chẳng thế mà cụ Nguyễn Hiến Lê đã phải nói: “Dịch
là một việc làm bạc bẽo, vì công việc khó khăn mà ít người thưởng thức. Riêng ở
nước ta, nó lại càng bạc bẽo, vì hiếm người chịu đọc sách dịch”.
Việc dịch chữ Nho khó thật, nhưng tôi làm công việc này một phần là để tự học
và một phần vì đam mê loại truyện truyền kỳ chí quái. Sau khi đã có một số dịch
phẩm về loại truyện chí quái, và đã có được một số độc giả về loại truyện này,
tôi cho xuất bản vài dịch phẩm với những chú thích riêng của mình”.
Từ chữ Nho, Xuân Hy đi sang chữ Nôm và anh đã cho biết việc nghiên cứu chữ
Nôm như sau:
“Những năm còn đi làm ở Pháp, khi chưa nghỉ hưu, tôi bước sang lãnh vực chữ
Nôm. Đó là thứ chữ được tổ tiên ta sáng tạo, dùng để biểu thị tiếng nói của dân
tộc mình - chữ Nôm được cấu tạo dựa vào chữ Nho, tức là chữ Hán đã được Việt hóa,
khi người Việt đọc lên, người Tàu nghe không hiểu gì cả. Còn chữ Nôm thì người
Tàu không đọc được. Tôi đã để thì giờ chăm chú nghiên cứu và phiên âm một vài
truyện Nôm, mong bảo tồn được đôi chút những từ ngữ Việt cổ. Nhưng sức người có
hạn, tôi không đi được tới cùng của môn học này sau mấy dịch phẩm.
Ngoài những bản dịch đã xuất bản gồm Liêu Trai Chí Dị, Hậu Liêu Trai, Thúy
Thúy Truyện và Thiếp Bạc Mệnh, do nhà xuất bản Văn Hóa ở Houston xuất bản và
Tây Sương Ký Liên Hoàn Đồ (tự xuất bản), Phạm Quân đã đưa lên nhiều trang mạng
cả năm, bảy chục truyện dịch với chú giải riêng và mấy chục bài nghiên cứu về
văn hóa, sử và văn học của Trung Hoa. Đặc biệt họ Phạm đã soạn xong 3 bộ: Niên
Biểu Trung Quốc từ nhà Tần đến nhà Tấn - Sổ Tay Nhân Vật Trung Quốc và Sổ Tay
Chữ Hán (dịch và giải thích những từ ngữ, nhân danh, địa danh, lịch sử, văn học,
điển tích đã tra trên các từ điển ở trên mạng và xếp theo mẫu tự ABC). Mỗi bộ
trên ngàn trang, vì dày quá nên chưa in được.
Trong phần giới thiệu về bản dịch Truyện Kinh Kha của Phạm Xuân Hy, giáo sư
Trần Huy Bích đã viết:
“Nhà biên khảo Phạm Xuân Hy ở Paris, người đã dịch Liêu Trai Chí Dị và Hậu
Liêu Trai trong khoảng thời gian từ 1988 đến 1997, đã dịch, chú thích rất công
phu, rồi tự xuất bản những truyện Trung Hoa rất ít người biết như Phùng Hiệp, Yến
Vĩ Nhi, Vĩnh Châu Dã Miếu Ký... đã tìm đọc từ rất nhiều tài liệu khác nhau bằng
Hán văn để viết về mối tình kín đáo giữa Tào Thực với chị dâu là Chân Hậu, vợ của
Ngụy Văn Đế Tào Phi, đưa tới bài “Lạc Thần Phú” nổi tiếng trong văn học Trung
Hoa. Ông cũng từng viết về những nghi án
liên quan đến Dương Quý Phi, đến Giả Hoàng Hậu, người chịu trách nhiệm khá lớn
về việc làm cho nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm (cháu nội của Tư Mã Ý đời Tam Quốc)
bị suy yếu rồi phân hóa sau mới có một đời”.
(tranhuybich.blogspot.com).
Người viết xin trích ít lời của nhà thơ Du Tử Lê viết về Phạm Xuân Hy:
“Nhắc tới dịch giả Phạm Xuân Hy, những người đọc sách, nhất là hàng trí giả
về lãnh vực chữ Hán, chữ Nôm, hầu như không ai không biết tới tên tuổi của ông.
Họ Phạm không chỉ là tác giả của một số tác phẩm dịch được nhiều người ưa
thích như Liêu Trai Chí Dị, Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh là 3 tuyển tập chọn
lọc do nhà xuất bản Văn Hóa ở Houston, Texas lần lượt ấn hành từ năm 1988 tới
2002, ông còn là tác giả của những công
trình dịch thuật lớn như phiên âm bản truyện Nôm “Chiêu Quân Tân Truyện của tác
giả Nguyễn Tiến Khang, xuất bản năm 1922, hay phiên âm bản “Phép Dòng Chị Em Mến
Câu Rút Đức Chúa Giê Su”, bản khắc năm 1869, phiên âm bản Nôm “Thánh Giáo Yếu
Lý Quốc Ngữ” của Pigneau de Béhaine, bản khắc năm 1774. Ông cũng đã hoàn tất phần
chuyển ngữ tác phẩm đồ sộ nhan đề “Trung Quốc Lịch Triều Đại Sự Niên Biểu (từ
nhà Tần đến hết Tam Quốc).
Một số dịch giả chữ Hán có thẩm quyền ở trong cũng như ở ngoài Việt Nam cho
rằng mức độ uyên thâm về chữ Hán để dịch được những tác phẩm văn học cổ Trung
Hoa sang tiếng Việt, chúng ta có không ít tài năng. Nhưng một học giả được coi
là uyên thâm cả chữ Hán và chữ Nôm thì phải nói là chúng ta có quá ít. Ngày một
ít hơn nữa! “Trong số ít này, chúng ta có dịch giả Phạm Xuân Hy, hiện cư ngụ ở
Paris”. Một nhà Nho cựu trào ở hải ngoại đã kết luận. (dutule.com)
Kết luận
Từ cuối năm 1987, chúng tôi liên lạc được với nhau ở hải ngoại, người ở
Pháp, người ở Mỹ, mỗi lần thư hay điện thoại Xuân Hy đều nhắc đến thời sống với
tôi ở ấp Cả Trắc, với tình cảm sâu đậm và nuối tiếc một thời nghèo mà rất đẹp.
Chẳng hạn mới đây, khi tôi hỏi Xuân Hy thêm ít điều về chuyện học chữ Nho và tập
biên khảo dở dang, sau phần trả lời, họ Phạm không quên nhắc lại thời học trò
hàn vi “Ấp Cả Trắc với ngôi nhà nền đất, mái tranh, đêm đêm có ánh trăng
lọt xuống giàn hoa mướp vàng, nghe tiếng dế gọi nhau rỉ rả, đẹp như truyện
Liêu Trai Chí Dị trong thế giới học trò nghèo của chúng mình nơi cố quận ngày tháng
cũ”.
Khi đọc những lời này, tôi chợt nghĩ – Có lẽ khung cảnh nhà tranh vách ván
trong ấp Cả Trắc cô tịch, hoang vu với vườn hoa cúc, hoa huệ, với những đêm trường
mưa rả rích, với tiếng ộp oạp.. của ếch nhái, ễnh ương, đã in sâu trong tâm trí
nho sinh Xuân Hy thế giới Liêu Trai ma quái, nên Xuân Hy đã khởi đầu đi vào dịch
Liêu Trai Chí Dị và những truyện ma quái của những tác giả khác. Có lần tôi hỏi
sao tiên sinh không dịch những tác phẩm về văn học sử hay lịch sử của Tàu mà lại
đi vào thế giới ma qủi của Liêu Trai Chí Dị, thì họ Phạm trả lời là muốn rong
chơi với ma qủi ở giữa kinh thành đầy ánh sáng của Paris. Thì ra vậy. Mà như thế
thì Xuân Hy đã đưa ấp Cả Trắc của những đêm mưa với “Giấc hồ thơm tóc gái
liêu trai” (Vũ Hoàng Chương) sang kinh thành Paris. Ở giữa Paris mà vẫn sống
với ánh lập lòe của đom đóm trong ấp Cả Trắc, và tiếng thì thầm của Oanh Oanh
trong đêm dưới mái hiên như đang ở “Miếu nguyệt vườn sương gặp gỡ
nhau” (Vũ Hoàng Chương).
Những hồi tưởng tha thiết của Xuân Hy về ấp Cả Trắc đã dẫn tôi trở về cái
làng định cư đầu tiên khi mới di cư vào Sài Gòn. Nơi đây, nhiều buổi tối chúng
tôi thường vào quán cà phê vợt, cạnh lối vào ấp, uống một ly cà phê với nhiều
đường, rồi mua một ổ bánh mì dài còn nóng dòn ở lò bánh mì Hạnh Phúc, cạnh quán
cà phê vợt, xé ổ bánh mì làm đôi, mỗi người một nửa, vừa đi vừa ăn trên đường
Thoại Ngọc Hầu. Đó là con đường lớn nối ngã ba Ông Tạ với đường Trương Minh Giảng,
Công Lý và Võ Tánh phía đi vào phi trường Tân Sơn Nhất. Đường lớn nhưng gập ghềnh
đất đá với nhà thưa thớt, đi qua khu nghĩa trang Bến Tre với cảnh ma quái tối
đen cùng ánh đom đóm lập lòe bên những bụi rậm bên đường. Trên đường này Hy đã
nhiều lần nói lên ước vọng học chữ Hán để đọc Liêu Trai Chí Dị, Tam Quốc, Thủy
Hử, Tây Sương Ký bằng chữ Hán. Hơn 20 năm sau, không những Xuân Hy đã đạt được
ước vọng đọc những tác phẩm ấy bằng nguyên tác mà còn đi xa hơn trong việc sử dụng
chữ Hán để nghiên cứu văn chương, sử và văn hóa Tàu. Có một điểm rất rõ là mỗi
lần tôi đọc một dịch phẩm hay một bài khảo cứu nào của họ Phạm, tôi cũng hiểu
nhiều hơn với những chú thích nhiều công phu tra cứu của tác giả.
Đầu thập niên 2000, Xuân Hy cho biết là hơn 20 năm đã mua nhiều sách chữ
Nho, chất đầy phòng để khi về hưu có thì giờ sẽ thực hiện một số đề tài nghiên
cứu. Nhưng khi về hưu, Hy than là sức khỏe đi xuống nhanh với đủ thứ bệnh, mắt
kém, tai nghe không rõ. Mấy năm gần đây tình trạng càng tệ hơn, nên đã phải bỏ
dở việc nghiên cứu. Nghe Xuân Hy than, tôi đã nói với Hy là Lão Tử chỉ viết bộ
Đạo Đức Kinh hơn 5000 chữ trong một đêm để lại cho đời, rồi cưỡi trâu đi về
phía tây. Xuân Hy cũng có khuynh hướng Lão Tử và đã ngao du trong thế giới chữ
Nho gần 40 năm. Như thế cũng nên thảnh thơi cưỡi trâu ra đi theo Lão Tử.
II. Đào Mộng Nam.
Tôi kết giao với Đào Mộng Nam cũng vào năm 1957, năm Phạm Xuân Hy đến ở nhà
tôi. Nam có mấy đặc điểm là đầu lúc nào cũng chải bóng, nói nhỏ nhẹ, hát hay và
ngâm thơ rất hay với đủ thứ giọng. Mỗi lần đến chơi, tôi thường nghe Nam hát
bài Tà Áo Xanh (Dang Dở) của Đoàn Chuẩn, Từ Linh, còn thơ thì thường ngâm Bài
Hành Phương Nam của Nguyễn Bính và bài Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương. Có một lần
đến chơi, Mộng Nam rủ tôi ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ vào ấp Cả Trắc. Khi uống
cà phê, Nam đưa tôi coi quyển vở có mấy trang chữ Hán và nói là đang theo học
chữ Hán với cụ Lâm Tuyền Dã Phu Phan Vọng Húc, thân phụ của nhà thơ Phan Lạc
Tuyên và Phan Lạc Giang Đông mà qua Giang Đông, Nam đã tới nhờ cụ Húc dạy chữ
Hán. Nam bảo học một mình cô độc, nên rủ tôi đi học với Nam. Tôi cũng thích chữ
Hán và đã học hết cuốn Hán Văn Độc Bản trong 2 năm đệ thất, đệ lục ở trường Chu
Văn An (không hiểu tại sao chương trình chữ Hán lại bỏ ở đệ ngũ), nhưng thời
gian này tôi đang đi bán báo ban đêm, còn quá ít thời giờ cho bài vở ở trường.
Vì thế tôi bảo Nam là cậu học đi, còn tôi thì không có thì giờ để theo học. Sau
này có thời giờ sẽ tính mà biết đâu lúc đó tôi lại phải làm lễ bái sư thầy Đào
Mộng Nam. Từ đó thỉnh thoảng Nam vào nhà tôi sau giờ học ở nhà cụ Phan Vọng
Húc. Vẫn ở quán cà phê vợt, Mộng Nam cho biết việc học tiến triển, tuần 3 buổi.
Cụ Húc là lớp Nho sĩ cuối cùng còn lại nên cụ hết lòng giảng dạy, hy vọng sau
này có những người trẻ tiếp nối việc của cụ. Cụ thường than là là Phan Lạc
Tuyên và Phan Lạc Giang Đông đều đi vào nghiệp văn chương, nhưng không hề quan tâm
đến chữ Nho.
Tôi thân với Đào Mộng Nam qua chuyện sách vở. Tôi mê sách nên thường để
dành tiền tìm mua những quyển sách quí hiếm thời đó như Văn Học Khái Luận của Đặng
Thái Mai, Kinh Thi Việt Nam của Trương Tửu, Thượng Cổ Sử Ai Cập của Nguyễn Đức
Quỳnh, Xã Hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn
Tuân... và nhà tôi thành nơi trao đổi sách của những người trẻ lớp tuổi tôi
thích đọc sách. Đào Mộng Nam bằng tuổi tôi, sinh năm 1941, lúc đó mới 17, 18 tuổi,
nhưng sau khi đọc xong cuốn nào, Nam thường có những nhận định khác lạ. Chẳng hạn
như sau khi đọc 2 cuốn Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng và Diễn Tiến Của Phong Trào
Quốc Gia Việt Nam của Nghiêm Xuân Hồng, Nam đem sách trả tôi và nói là nhóm
Quan Điểm của Nghiêm Xuân Hồng, Lê Quang Luật và Mặc Đỗ sẽ chẳng đi đến đâu vì
đã vướng vào vòng đấu tranh giai cấp của K. Marx, khi xướng lên tư tưởng giai cấp
tiểu tư sản làm lịch sử và trí thức tiểu tư sản lãnh đạo lịch sử để đối lại với
giai cấp vô sản. Cái nền tiểu tư sản không vững, còn trí thức không bao giờ thống
nhất với nhau thì làm sao lãnh đạo lịch sử. Qua lịch sử Tàu và Việt ta thấy những
ông vua làm nên lịch sử đều không ở tầng lớp trí thức, thường ít học nhưng có
tài quy tụ tay chân tả hữu và biết nắm thời cơ. Còn tầng lớp trí thức gọi là kẻ
sĩ thường theo phò trước hay sau khi ông vua đó làm chủ thiên hạ. Gần chúng ta
nhất như Hồ Hữu Tường, là trí thức hàng đầu, là lý thuyết gia, nhưng hoàn cảnh
thời thế đã đẩy ông Tường chạy theo phò Bảy Viễn (một tay anh chị có quân và tướng).
Sở dĩ tôi nhớ những nhận định này của Nam, vì tôi để tâm đọc hết sách của
Nghiêm Xuân Hồng và thấy lý thuyết gia họ Nghiêm sau khi ra phò tướng Nguyễn
Khánh bị vỡ mộng, vì tưởng Nguyễn Khánh là Nasser của Ai Cập, nên quay về đọc hết
truyện Kim Dung, rồi nghiên cứu Phật Giáo, thành cư sĩ với đạo hiệu là Tịnh
Liên, đi truyền bá Phật pháp, tôi thấy Nam hiểu sớm và sáng hơn tôi nhiều.
Khoảng cuối năm 1958, Đào Mộng Nam đến bảo tôi là Nam nhường cho tôi một chỗ
kèm trẻ ở tư gia trong khu cư xá sĩ quan Chí Hòa, vì nhà Nam ở Nguyễn Cảnh
Chân, trên Tân Định, xuống đây xa quá. Nam dẫn tôi đến cư xá sĩ quan, giới thiệu
tôi với gia đình một đại úy tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn truyền tin. Thế là Phạm
Xuân Hy đã dẫn tôi vào nghề bán báo đêm, còn Mộng Nam dẫn tôi vào nghề kèm trẻ
tư gia.
Đầu năm 1963, gia đình tôi bán nhà đất ở ấp Cả Trắc và chuyển lên Đà Lạt.
Cuối năm 1964, tôi có việc phải xuống Sài Gòn. Một buổi sáng trong khi đang đứng
chờ xe buýt ở Ngã Bảy, nghe tiếng gọi tên ở bên kia đường, nhìn lên thấy người
gọi vẫy tay, tôi đi vội qua thì ngạc nhiên, đó là Đào Mộng Nam, tóc chải mướt,
mặc bộ bà ba trắng, chân đi guốc mộc. Nam cầm tay tôi cười nói:
- Mới xa cách một năm mà không nhận ra nhau nữa à?
- Cậu thay đổi kiểu ăn mặc thế này, lại nắng chói giữa người và xe cộ, làm
sao nhận ra.
Nam cầm tay tôi đi về phía đường Phan Thanh Giản:
- Về nhà mình ở trên này.
Tôi theo Nam đi qua bệnh viện Bình Dân, rẽ vào một đường hẻm khá rộng. Đi
chừng mấy chục mét, Nam dừng lại mở cổng đi vào. Ngôi nhà rộng, kê 5, 6 cái bàn
dài với ghế dài. Trên tường có chiếc bảng đen lớn. Nam đưa tôi tới cái bàn
vuông ở cuối phòng bảo:
- Cậu ngồi đây để mình đi lấy nước uống.
Sau khi rót trà ra chén, Nam bảo tôi:
- Đây là trường dạy chữ Nho của mình từ đầu năm 1964. Học viên khá đông, đa
số là người lớn, có cả sinh viên đại học văn khoa và người Tàu.
Tôi ngạc nhiên nhìn Nam không nói nên lời. Nam đưa tôi một tập in ronéo,
nhan đề là Chữ Nho Tự Học, rồi nói:
- Sau khi học cụ Phan Vọng Húc được 2 năm, có được một số vốn chữ Nho, mình
xuống Chợ Lớn, vào nhà sách, tìm mua những sách dạy học sinh từ vỡ lòng đến sơ
trung, cao trung của Đài Loan và Hồng Kông, nghiên cứu những bài học từ thấp
lên cao với cách dạy của họ. Từ việc đọc kỹ sách giáo khoa của Đài Loan và Hồng
Kông, mình tìm ra cách học mới, đơn giản dễ nhớ, chớ không như cách cụ Phan Vọng
Húc dạy. Cụ là nhà Nho cựu trào, vẫn dạy theo nếp học cũ, mất nhiều thời gian
và phải vận dụng nhiều trí nhớ. Học theo cụ thì phải mất 3, 4 năm mới đọc được
Tam Quốc, Thủy Hử.. Vì thế mình từ giã cụ, rồi tự học theo cách của mình. Trong
quá trình học đó, mình soạn ra 3 tập này. Cậu đem về học đều theo cách phân
tích của mình, chữ sẽ vào đầu tự nhiên và dễ nhớ. Đọc xong 3 tập này, từ 6, 7
tháng đến một năm, cậu sẽ đọc được Tam Quốc Chí, Liêu Trai Chí Dị và Sử Ký Tư
Mã Thiên...
Tôi giở tập I, xem qua một số trang, rồi hỏi:
- Cậu tìm học chữ Hán vì động lực gì?
- Trở về nguồn cội. Chữ ABC dễ học, phổ thông là một ơn ích cho dân tộc Việt.
Nhưng chỉ có chữ ABC, chúng ta sẽ đi ra xa, ra ngoài nguồn cội. Mình đã tìm ra
cách học chữ Nho dễ và nhanh. Bằng phương pháp học này, mình sẽ thực hiện một
cuộc vận động trở về nguồn bằng chữ Nho. Mình sẽ phát triển việc dạy chữ Nho ở
những Phật Học Đường, Hội Khổng Học và một số cơ sở do mình vận động tự thành lập.
Từ những cơ sở này vừa dạy vừa tìm những người hiểu giá trị của về nguồn, nhất
là giới trẻ, sinh viên đại học, kết thành những hạt nhân văn hóa. Phát triển việc
dạy và học chữ Nho cũng là tạo áp lực để Bộ Quốc Gia Giáo Dục thiết lập lại
chương trình dạy chữ Nho ở trung học. Mình hình dung khi tất cả những học sinh
trung học thông thạo chữ Nho thì bộ mặt văn hóa của đất nước sẽ khác, nguồn văn
hóa sẽ sâu thẳm chớ gốc rễ không mờ nhạt, vong bản như bây giờ. Việc làm văn
hóa không phải là chuyện kêu gọi mà là tạo điều kiện và hoàn cảnh cho nó tự
hành. Mình đã tự tạo được căn bản cho mình và tự tin trong cuộc vận động này.
- Cuối năm 1957, cậu rủ tôi đi học chữ Hán ở nhà cụ Phan Vọng Húc. Tôi nghĩ
đó chỉ là ý thích của tuổi trẻ, nhưng không ngờ cậu nuôi một hoài bão lớn, một
cái nhìn xa. Còn tôi thì nông cạn, không nhìn gì cả.
- Lúc đó, mình không dám nói nhiều, nghĩ là phải học thông chữ Nho rồi mới
có thể nói tiếp. Và hôm nay mình đã nói tiếp.
Tôi đưa tay nắm tay Nam:
- Mừng Nam đã đạt được sự thành tựu căn bản bước đầu để có thể đi xa. Năm
57, tôi nói đùa là biết đâu tới lúc đó sẽ bái cậu làm sư phụ. Không ngờ nay
thành sự thực. Bây giờ tôi phải đi. Chiều mai khoảng 6 giờ, tôi sẽ trở lại làm
lễ bái sư và mời Nam tới nhà hàng Ngọc Sơn ở đường Lê Thánh Tôn.
**
Tôi đem 3 tập Chữ Nho Tự Học về Đà Lạt đọc kỹ tập I và nhận ra phương pháp
học chữ Hán của Đào Mộng Nam giúp người học dễ nhớ bằng mấy điểm:
- Phân tích cấu tạo của mỗi chữ ra những thành phần đơn giản và nói lên sự
tương quan giữa các phần.
- Chữ tượng hình thì tác giả vẽ hình.
- Còn những chữ khác tác giả tìm ra một chuyện liên quan đến nghĩa của chữ.
- Đi từ dễ đến khó với những bài ngắn, gồm cả văn ngôn (cổ văn) và bạch thoại.
Có phần văn phạm cho cả 2 loại văn.
- Nói chung, tác giả đã vận dụng 6 phép cấu tạo chữ Hán, gọi là lục thư, với
sự sáng tạo riêng để tìm ra cách học cho dễ nhận, dễ nhớ. Còn những bài học ngắn
là sử dụng những chữ đã học để học luôn
2 loại văn ngôn và bạch thoại. Như thế tác giả giúp người học, sau khi học xong
3 cuốn Chữ Nho gồm 1882 chữ thông dụng căn bản có thể đọc sách Trung Hoa và hiểu
được cả văn ngôn như văn Liêu Trai Chí Dị hay văn bạch thoại như truyện của Quỳnh
Dao.
Năm 1964-65 là đỉnh cao của truyện chưởng Kim Dung ở Việt Nam. Hàng ngày
tôi cũng chờ báo để đọc tiếp Tiếu Ngạo Giang Hồ, nên truyện Kim Dung đã thúc đẩy
tôi học chữ Hán và trong mấy tháng tôi đã học xong tập I. Nhưng giai đoạn này
chính trị miền Nam hỗn loạn với chỉnh lý và đảo chánh đi cùng với việc đấu
tranh cực đoan đem bàn thờ Phật ra đường của Phật Giáo Ấn Quang. Đà Lạt là
thành phố yên tĩnh cũng không thoát được thứ đấu tranh này. Trên đường Đà Lạt
–Sài Gòn đã thường xuyên bị du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chặn xe ở
khoảng đèo Chuối hay phía dưới Madagoui. Thời cuộc bất an, nên tôi không học tiếp,
rồi tới tháng 4 năm 1966 tôi phải trình diện để đi vào trường Bộ Binh Thủ Đức.
Suốt thời gian 9 tháng ở Thủ Đức, những ngày thứ Bảy, chủ Nhật đi phép, tôi đã
không tìm gặp Đào Mộng Nam, nhưng qua báo chí, tôi biết Nam đã mở rộng được nhiều
cơ sở dạy chữ Nho như Viện Đại Học Vạn Hạnh, Phật Học Viện Quảng Đức, Phật Học
Đường Huệ Nghiêm và Hội Khổng Học Việt Nam... Trong khi chiến tranh tiếp diễn
ngày một dữ dội trên khắp miền Nam, tôi hình dung Nam với bộ bà ba trắng, chân
đi guốc mộc, đang nỗ lực thực hiện một cuộc vận động văn hóa về nguồn bằng chữ
Nho, xây dựng thế chân vạc Nho-Nôm-quốc ngữ ABC thành một nguồn văn tự dân tộc
Việt mà không quốc gia nào có. Nhưng tôi sợ chiến tranh sẽ phá hủy, cắt đứt
dòng vận động của họ Đào.
Tôi đã đi vào cuộc chiến ở vùng I Thừa Thiên, Quảng Trị, nên không trở lại
được với bộ Chữ Nho của Đào Mộng Nam, nhưng hẹn sẽ có ngày trở lại với nó. Khoảng
năm 1970, từ đơn vị xa trở về Huế, tôi ghé vào nhà sách Ưng Hạ, gần đầu cầu Trường
Tiền trên đường Trần Hưng Đạo để coi mua vài cuốn sách và tạp chí. Khi đứng trước
kệ sách giữa nhà, tôi lóa mắt vì 3 quyển Chữ Nho Tự Học, khổ lớn bìa đỏ, cạnh 3
cuốn đó là bộ Nho Văn Giáo Khoa Toàn Thư, bìa màu tím của Nguyễn Văn Ba, rồi tới
mấy cuốn Dịch Kinh Linh Khảo, Triết Lý Cái Đình.. của Kim Định. Tất cả những cuốn
này đều do nhà xuất bản Nguồn Sáng xuất bản, một nhà xuất bản mới ra đời. Tôi lấy
cả những cuốn này, rồi ra ngoài nhặt 2 số Bách Khoa. Khi ngồi trên đò Đông Ba -
Đập Đá để về Vĩ Dạ, giở coi trang trong của bộ Nho Văn Giáo Khoa Toàn Thư, tôi
thấy hàng chữ: Nhà xuất bản Nguồn Sáng – Giám Đốc Đào Mộng Nam. Tôi kêu thầm:
A! anh bạn quần áo bà ba, đi guốc này đã đi thêm một bước nữa trong cuộc vận động
văn hóa. Tôi đã đọc một số sách của linh mục Kim Định, biết linh mục quảng bá
tư tưởng Việt Nho qua việc viết sách và dạy học, và luôn luôn đề cao chữ Nho là
một linh tự. Ngài Kim Định quảng bá tư tưởng bằng sách và môi trường đại học.
Nay Mộng Nam kết với ngài thì Nam có nguồn tư tưởng Việt Nho và linh mục Kim Định
có mũi nhọn xung kích phát triển linh tự Nho văn là Đào Mộng Nam. Đọc sách của
linh mục Kim Định, tôi có cảm tưởng linh mục chịu ảnh hưởng của Lý Đông A. Nếu
cảm tưởng của tôi đúng thì việc vận động văn hóa của Mộng Nam có nền tư tưởng
Việt Nho và xa hơn thấp thoáng có họ Lý với Duy Dân Thảo Án Quốc Sách Toàn Pho.
Lần ấy tôi đem cả số sách của Nguồn Sáng ra căn cứ Vinh An, bên sông Ô Lâu,
gần Mỹ Chánh. Ba cuốn Chữ Nho Tự Học in lại đẹp, sáng sủa, nhưng dưới 3 chữ Đào
Mộng Nam có thêm mấy chữ Giảng Sư Đại Học Huế. Tôi học lại cuốn I và đọc sách của
linh mục Kim Định. Thời gian này, từ 1971 trở đi, Cộng quân lại gia tăng đánh
phá ở nhiều nơi. Đêm ngày nhìn mấy cuốn sách với tiếng đại bác và ánh hỏa châu
gần xa, tôi thấy người làm văn hóa cứ lặng lẽ đi bên cạnh sự tàn phá của chiến
tranh. Người làm, người phá! Số phận của đất nước như thế. Việt Nho, linh tự
Nho văn – Thế chân vạc Nho – Nôm - chữ ABC của văn tự Việt Nam. Đến một lúc học
sinh trung học thông thạo chữ Nho thì nội lực văn hóa Việt Nam sẽ khác. Đào Mộng
Nam đã say sưa nói với tôi những lời này và Nam đã đem thân vào cuộc vận động
đó. Nếu đất nước hòa bình thì đây là cuộc vận động tuyệt vời. Nhưng đất nước
đang chiến tranh. Làm thì lâu, nhưng phá thì chỉ cần một tiếng nổ là tan tành tất
cả. Tôi vẫn tiếp tục học sách của Nam, dù không đều cho đến mùa hè đỏ lửa thì
phải ngừng, vì Cộng quân chiếm Quảng Trị (1972) và sông Ô Lâu trở thành tuyến
phòng thủ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa với thủy Quân Lục chiến và Nhảy Dù. Mặc
dù cuối năm 1972, quân Cộng Hòa đã giải phóng Quảng Trị, nhưng từ đó, miền đất
địa đầu đã không còn yên với lính và tới tháng 3/1975 thì quân Việt Nam Cộng
Hòa tan rã với lệnh di tản của tổng thống Thiệu, đã tạo ra những thảm kịch cho
quân và dân ở bãi biển Thuận An và cửa Tư Hiền khi Cộng quân pháo kích vào hai
nơi này.
**
Năm 1981 tôi ra tù cải tạo, đến năm 1986 được người quen giới thiệu cho
chuyến vượt biên. Tháng 4 tôi tới đảo Galang và được vào Mỹ định cư ở Chicago
tháng 4/1987. Khoảng đầu năm 1989, tôi sang California để dự cuộc họp của những
văn nghệ sĩ để thành lập Hội Văn Nghệ Sĩ Tự Do do nhóm vận động gồm một số nhà
văn, nhà thơ như Chu Tấn, Đào Văn Bình, Hồ Công Tâm... Ở cuộc họp này tôi gặp lại
Đào Mộng Nam sau 25 năm. Nam cho biết có người em ở Hải Quân nên đã đem gia
đình xuống tàu đi từ ngày 29/4/75. Nam không thay đổi gì mấy vẫn nho nhã, chỉ
khác là mái tóc đã để dài buộc sau gáy. Buổi tối ấy, Nam đã mời tôi và Chu Tấn
đến một nhà hàng ở Bolsa, nổi tiếng với món tiết canh vịt. Sau bữa ăn, Nam chở
Chu Tấn về lại ngôi nhà của một thân hữu cho mượn dùng làm trung tâm họp thành
lập Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam ở Fountain Valley. Còn tôi đi với Nam về nhà Nam.
Nam lái chiếc Pickup truck cỡ nhỏ, trên xe có thang và nhiều thùng sơn, đi qua
mấy con đường với những ngôi nhà thấp để về nhà. Nam sống một mình trong ngôi
nhà nhỏ, một phòng ngủ, phòng khách khá rộng, sách báo để khắp nơi với nhiều tập
sách chữ Hán. Đêm ấy tôi hỏi Nam:
- Qua đây, ông sống bằng nghề gì?
Nam đáp:
- Đi sửa nhà và sơn nhà.
- Tôi thấy ở Mỹ có nhiều nhà xuất bản đã in lại nhiều sách của Miền Nam,
sao ông không cho in lại 3 cuốn Chữ Nho Tự Học?
Nam trả lời:
- Khi nào đời sống ổn định thì sẽ in lại. Việc đó dễ.
- Ổn định với ông hay với những người tỵ nạn nói chung.
- Với cả hai.
- Vậy là qua đây từ 75 đến giờ, ông đã bỏ văn chương chữ nghĩa?
Nam lắc đầu:
- Bỏ sao được. Làm việc khác. Tôi đã dịch hàng trăm bài thơ Đường, hàng
trăm bài thơ của những nhà cách mạng chống Pháp như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng
Hiền, Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh... và nay thì dịch thơ chữ Nho của Cao Bá
Quát. Trước kia đi học, chúng ta chỉ được học ít bài thơ, phú chữ Nôm của Cao
Bá Quát mà không biết là Cao Bá Quát làm nhiều thơ chữ Nho, hàng ngàn bài. Tôi
đã thu thập được mấy trăm bài và đang dịch. Số lượng thơ chữ Nho của Cao Bá
Quát không kém hơn thơ của Lý Bạch. Có điều thơ họ Lý thì đẹp ở rượu, trăng,
hoa và mỹ nhân còn thơ của họ Cao động hơn với đời sống huyết lệ của con người.
Đọc thơ chữ Nho của Cao Bá Quát tôi mới thấy tư tưởng cách mạng, mới thấy sự
hùng vĩ của ông.
Tôi nói:
- Trước kia thời gặp ông ở ấp Cả Trắc, mỗi lần ông đến tôi đều nói cho nghe
Bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính hay cho nghe Nguyện Cầu của Vũ Hoàng
Chương. Tôi nhớ sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, hai chúng ta đã
tham dự một buổi ca nhạc mừng chiến thắng của Phật Giáo ở chùa Hưng Long, hương
lộ 14, Phú Thọ Hòa của thầy Thích Tâm Thông. Ban tổ chức đã yêu cầu ông lên
ngâm bài thơ Lửa Từ Bi của Vũ hoàng Chương, nhưng khi lên sân khấu ông đã không
ngâm Lử Từ Bi mà ngâm bài Nguyện Cầu. Khi ông xuống, tôi hỏi:
- Sao không ngâm Lửa Từ Bi?
Ông trả lời:
- Đã thắng rồi thì phải trở về với thân phận con người, chớ ngâm bài đó làm
gì - rồi đọc:
Ta còn để lại gì không
Kìa non đã lở, này sông cát bồi.
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.
.......
Nam ngừng lại, cười nhìn tôi:
- Thuở 16, 17 đã in sâu bài thơ vào tâm trí. Nay đã gần 50 tuổi, lại vẫn
ngâm nó trên đường đi sửa nhà, sơn nhà. Bài thơ tuyệt vời, tôi đã coi nó là một
trong những bài thơ hay nhất của Vũ Hoàng Chương.
- Ông cao kiến và luôn nghĩ xa hơn tôi. Bây giờ ông cho nghe ít bài thơ Đường
và thơ Cao Bá Quát ông dịch.
Đào Mộng Nam đi vào phòng ngủ lấy ra một xấp giấy, đọc cho tôi nghe chừng
chục bài thơ Đường và chục bài thơ Cao Bá Quát. Đào Mộng Nam dịch thơ Đường ở
những bài chuyển sang thể lục bát có âm điệu của Tản Đà...
Sáng hôm sau chở tôi đến ngôi nhà dùng làm nơi hội họp của văn nghệ sĩ, Nam
đưa cho tôi một phong bì lớn, trong có mấy tờ báo có bài của Nam và 2 xấy giấy
đánh máy gồm chục bài thơ Đường và chục bài thơ Cao Bá Quát do Nam dịch.
Cuối thập niên 1990, Nam gọi tôi cho biết là đã về Việt Nam mấy lần.
Tôi hỏi:
- Về với mục đích gì?
Nam đáp:
- Về Phú Thị, Gia lâm, quê của Cao Bá Quát, để tìm thêm tài liệu về họ Cao
và đã tìm thêm được mấy trăm bài thơ chữ Nho của Cao Bá Quát.
Có một điều do nói chuyện lan man, tôi quên hỏi Nam là tìm kiếm thơ ở đâu,
ai giữ được thơ của một tử tội bị chu di tam tộc và làm cách nào biết được thơ
đó là thơ Cao Ba Quát.
Sau lần nói chuyện đó, Nam không liên lạc với tôi nữa, nhưng qua báo chí,
tôi biết Nam tiếp tục về Việt Nam.
Đến đầu tháng 9/2006, bỗng nhiên báo Thời Luận và Người Việt loan tin là
Đào Mộng Nam đã từ trần. Vì Nam sống một mình trong một apartment, chung cư ở
đường Mc Fadden, Tustin, California, nên không ai biết Nam mất vào ngày nào. Chỉ
khi người cùng chung cư báo cảnh sát là có mùi hôi từ apartment của Nam, cảnh
sát phá cửa vào thì thấy Nam nằm gục dưới sàn nhà, một phần thân đã bị phân hủy. Tang lễ đã được
thực hiện trong vài tiếng đồng hồ từ 9 đến 12 giờ ngày thứ Bảy 2 tháng 9/ 2006
tại Peek Family Funeral.
Sau khi Đào Mộng Nam từ trần, tôi đọc được một số bài viết về Nam, nên đã
biết rõ hơn về những việc làm của Đào Mộng Nam từ cuối thập niên 1960 trở đi.
Tôi xin ghi lại đây một số đoạn từ những bài viết đó:
1. Trong bài Vĩnh Biệt Đào Mộng Nam, nhà báo Phan Tấn Hải đã viết:
“Tóc thường cột sau gáy, trang phục thường xuề xòa, mắt nhìn ngây thơ, cử
chỉ dịu dàng, tính trầm mặc, ưa lặng lẽ, khi lên tiếng thì lời vi diệu, đầy ẩn
mật, cho thấy những suy nghĩ lạ lẫm nhưng cổ kính, ngôn ngữ trau chuốt nhưng
thơ mộng... và cũng bất ngờ khi anh chợt đến, khi anh chợt đi. Đó là hình ảnh của
giáo sư và cũng là nhà thơ Đào Mộng Nam.
Đào Mộng Nam đã sống một cuộc đời đầy những hồn thơ, kể cả khi lặng lẽ từ
trần trong thư phòng, chất đầy quanh tường và các kệ sách là thơ của Cao Bá
Quát và Bùi Giáng.
Những công trình anh muốn làm thì nhiều hơn việc làm của một đời người. Khi
gặp nhau, khi được hỏi về các vấn đề cổ học, về Hán học hay cả về văn chương hiện
đại, chúng ta thường nghe anh nói với những kiến thức ít gặp, ít thấy... Anh đọc
nhiều hơn rất nhiều người và đọc một cách sâu sắc lạ thường...
Nhưng dấu ấn lớn nhất của Đào Mộng Nam đối với văn học Việt Nam chính là
vai trò một nhà Hán học của anh. Rất nhiều sinh viên của các Đại Học Văn Khoa
Sài gòn, Đại Học Vạn Hạnh thời trước 1975 không thể nào quên về công trình quảng
bá chữ Nho của Đào Mộng Nam.
Giáo sư Đào Mộng Nam có một phương pháp dạy và học chữ Hán mới hơn, giúp học
sinh tiếp cận văn học chữ Nho nhanh hơn và nhớ hơn các lối học truyền thống.
Trước đây, nhà văn Hoàng Hải Thủy từng viết rằng chỉ nhờ học chữ Hán theo
phương pháp của Đào Mộng Nam trong 5 tháng là đã có thể đọc được Tam Quốc Chí bằng
Hán tự.
Báo Văn Nghệ ở Hà Nội, trong một số báo gần hai năm trước, có ghi nhận về
công trình nghiên cứu và dịch thuật của Đào Mộng Nam về thơ văn Cao Bá Quát với
người viết là Nguyễn Huy Thuận và tựa bài viết là “Biết thêm về Cao Bá Quát”,
trích như sau:
“Trong khoảng 10 năm trở lại đây có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà báo, sinh
viên đại học, cao học về Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) tìm tài liệu về Cao Bá Quát
và quê hương Phú Thị. Đặc biệt có giáo sư Đào Mộng Nam, nhà nghiên cứu Đông
Phương ở hải ngoại về Phú Thị thăm và giới thiệu công trình của ông đã dịch
trên 1400 bài thơ chữ Nho của Cao Bá Quát ra quốc ngữ. Ông đã phát hiện ra “thần
lực” trong thơ Cao Bá Quát và từ khởi điểm này ông đang xây dựng một công trình
văn hóa: “Nét đặc trưng văn hóa Việt Nam và tiến bộ khoa học hiện đại”. Ông đã
đánh giá Cao Bá Quát rất cao:
- Nhà thơ vĩ đại nhất Á Đông.
- Bậc thi bá duy nhất tập đại thành cả 3 nghìn năm tư tưởng thi ca Đông Á.
- Thi sĩ, chiến sĩ cách mạng, thi sĩ tiên tri.
Ông có đọc cho nghe bài thơ Nguyên Tiêu Khóc Cao Bá Quát, trong đó có hai
câu:
Vạn thuở văn chương còn chẳng nát
Muôn đời thần khí lẽ nào tan.
Phải chăng hình ảnh Đào Mộng Nam thương khóc Cao Bá Quát cũng là một cái
nhìn tiên tri về chính cuộc đời của nhà thơ Đào Mộng Nam, người cũng y hệt như
họ Cao, “suốt đời chỉ cúi đầu chào hoa mai” như một dòng thơ cổ lưu lại của họ
Cao...”
(vietbao.com/vinh-biet-dao-mong-nam)
2. Trong bài Đào Mộng Nam, Về..., nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn,
người đã cùng Đào Mộng Nam viết bản tiểu luận “Thế chân vạc của ngôn ngữ văn tự
Việt”, đăng trên tạp chí Tân Văn số tháng 4 và 5/1969, đã viết về Đào Mộng Nam
như sau:
“Đào Mộng Nam vừa qua đời tại California, hoàn toàn đơn độc tại trai phòng,
chỉ có bồ đoàn, máy vi tính, ấm trà, những bản thảo dịch thơ Cao Bá Quát và những
tập bản thảo sưu tập các giai thoại về Bùi Giáng...
Đào Mộng Nam học tiểu học ở Bắc, trung học ở trường Chu Văn An, năm chót của
niên khóa 1960, sau đó có lên Đại Học Văn Khoa, nhưng bỏ ngang để theo đuổi chí
hướng riêng là học và truyền bá việc học chữ Nho. Anh bắt đầu vận động qua Hội
Khổng Học Việt Nam cùng những nhân vật như Hà Huy Liêm, Hoàng Nam Hùng và sau nữa
là Nguyễn Văn Tụ từ đầu thập niên 1960 đến 1975.
Từ giữa thập niên 1960, anh mở lớp dạy chữ Nho cho các sinh viên Y Khoa Đại
Học Huế trong chương trình kết hợp Đông Tây, dưới sự tôn vinh Hải Thượng Lãn
Ông Lê Hữu Trác và lời thề với y tổ này thay cho lời thề Hippocrate của Tây Y.
Đồng thời anh cũng phát triển các khóa học dạy chữ Nho tại Đại Học Vạn Hạnh, Đại
Học Minh Đức, dạy tự do cho công chúng tại trường Đức Trí, đường Cao Thắng, quận
3, mỗi Thứ Bảy, Chủ Nhật. Cũng như xuất hiện trên truyền hình để quảng bá việc
học chữ Nho theo cách mới đến mọi tầng lớp.
Năm 1966 (năm 1970 thì đúng hơn - người viết) cùng với thân hữu, anh chủ
trương nhà xuất bản Nguồn Sáng, phát huy quốc học và chủ trương dung hóa Đông
Tây. Nhà xuất bản Nguồn Sáng, ngoài việc xuất bản bộ Chữ Nho Tự Học của Đào Mộng
Nam, còn cho ra đời những bộ sách giá trị như Nho Văn Giáo Khoa Toàn Thư của
bác sĩ kiêm Đông y sĩ Nguyễn Văn Ba, tủ sách Việt Nho của Lương Kim Định, những
sách dịch như Ấu Học Quỳnh Lâm, tiểu thuyết của Dostoievski như Anh Em Nhà Karamazov,
Lũ Người Quỷ Ám, Đầu Xanh Tuổi Trẻ, tiểu thuyết của Han Suyin (Hàn Tố Âm) của
Heinrich Boll, thơ Tagore, Kahlil Gibran.. và tủ sách thiếu nhi gồm các danh
tác thế giới và Việt Nam, trong đó đặc sắc là bộ Phiêu Lưu Trên Lưng Ngỗng của
Selma Lagerloff do Lý Quốc Sỉnh dịch...” (talawas.org/1/9/06)
3. Trong bài “Tưởng nhớ Đào Mộng Nam” bác sĩ Bùi Duy Tâm đã viết:
“Hồi đó là là cuối năm 1964, mới du học ở Mỹ về, tôi tìm đến nhà Đào Mộng
Nam ở trong hẻm bên hông bệnh viện Bình Dân, đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, để
học chữ Nho. Dáng người nho nhã, trong bộ
bà ba trắng, anh tiếp tôi rất kiểu cách, gọi tôi bằng Vị: Mời Vị ngồi chơi, mời
Vị xơi nước...
Tôi rất thích lối dạy chữ Nho của Đào Mộng Nam, từ dễ đến khó, không làm nản
lòng người học. Trong 3 cuốn Chữ Nho Tự Học gồm 1882 chữ. Chữ nào cũng được giải
tự rõ ràng có nghĩa lý. Bài học gồm hai loại: văn ngôn và bạch thoại. Học viên
phải tuân theo kỷ luật là phải thuộc bài trước mới được học bài sau. Tuy nhiên
nếu quên thì tác giả đã đánh số bộ hay số chữ để học viên tìm lại bài cũ. Lối học
chữ Nho của Đào Mộng Nam là luôn luôn dùng từ điển như từ điển Thiều Chửu.
Bộ Chữ Nho Tự Học của Đào Mộng Nam được phong trào thanh niên văn hóa Gió
Khơi quay ronéo để phổ biến vào những năm 1965-1969. Đến năm 1970, bộ chữ Nho Tự
Học gồm 3 cuốn đầu mới được xuất bản gọn gàng đẹp đẽ và đã thành công rực rỡ
(15.000 cuốn được tái bản trong năm đầu). Một số đại học Mỹ, Pháp, Đức, ngay cả
Trung Hoa đã điều đình phiên dịch làm sách giáo khoa. Tôi đưa Đào Mộng Nam vào
dạy chữ Nho trong các sinh hoạt ngày Chủ Nhật cho đoàn Gió Khơi và trong chương
trình văn hóa của Gió Khơi trên Đài Truyền Hình Sài Gòn. Sau này tôi đưa anh ra
dạy chữ Nho cho Viện Đại Học Huế.
Tôi còn nhớ một hôm, khoảng năm 1972-73, anh lái xe hơi chở đầy sách đến
nhà tôi trong viện Pasteur, khoe với tôi rằng anh mới mua xe hơi, bây giờ anh
có nhiều tiền nhờ xuất bản sách. Trong những sách mà anh xuất bản dưới danh hiệu
Việt Nam Văn Hiến, có một cuốn sách rất có giá trị là Nho Văn Toàn Thư của Nguyễn
Văn Ba. Ông Nguyễn Văn Ba là một bác sĩ Tây y, cùng khóa với giáo sư Phạm Biểu Tâm, sau chuyển
sang nghiên cứu về triết Đông và hành nghề Đông y châm cứu. Sự hiểu biết về triết
học Đông phương của ông Nguyễn Văn Ba rất uyên thâm, vượt mức lý trí lên tới Duệ
trí. Tôi thường đưa anh Nam đến học hỏi ông Ba. Anh Nam nhận ra ngay được kỳ
nhân và hàng ngày ngồi với ông Ba để giúp ông viết xong phần Duệ trí cho cuốn
Nho Văn. Hiểu được Lão Tử, Khổng Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Liệt tử tới trình độ Duệ
trí, hiếm người được như Nguyễn văn Ba. Ghi lại và in thành sách để mọi người
chung hưởng là công của Đào Mộng Nam. Ba thầy trò hay ba anh em chúng tôi thường
bàn với nhau về cái thế chân vạc giữa ngôn ngữ và văn tự của dân tộc Việt Nam.
Thế chân vạc đó là tiếng Việt, chữ Nho và chữ ABC (thường gọi là quốc ngữ).
Sự tổng hợp kỳ diệu đó sẽ là dụng cụ tuyệt vời để người Việt sinh động với
thực tại bằng tiếng Việt, kết nối với quá khứ và các nước Đông phương (Trung Quốc,
Nhật Bản) bằng chữ Nho và phổ biến trong quần chúng đương đại bằng chữ ABC.
Thời gian khoảng 72-73, thủ tướng Trần Văn Hương có ý trao cho tôi phụ
trách văn hóa, giáo dục và thanh niên, nên ba anh em chúng tôi rắp tâm ước vọng
đem Nho văn dạy các lớp bậc trung học như một môn học cơ bản bắt buộc.
Đào Mộng Nam viết: “Thực vậy, nếu ném một cái nhìn bao quát toàn thế giới,
chúng ta sẽ không thấy một quốc gia nào lại có được cái thế chân vạc giữa ngôn
ngữ và văn tự, vừa bác học vừa giản đơn tới mức tuyệt đối, thỏa mãn cho cả bình
dân lẫn trí thức như ở Việt Nam. Với chữ ABC, dù một người Việt Nam ngu tối tới
đâu chỉ cần vài tháng là đã có thể đọc thông viết thạo. Thứ chữ này để dành
riêng cho giới bình dân và các trẻ thơ cấp tiểu học. Từ cấp trung học trở lên,
ta bắt đầu dạy chữ Nho bằng phương pháp khoa học, vì nếu siêng năng vài năm là
học sinh có thể đọc được chữ Nho làu làu. Như vậy sau 7 năm trung học, học sinh
nào cũng đọc và hiểu được chữ Nho. Thiết tưởng bộ mặt văn hóa của ta chắc chắn
sẽ đổi thay nhiều chứ không vong bản như hiện giờ. Chúng ta sẽ nối tiếp lại với
truyền thống bốn ngàn năm lịch sử của mình, cùng nền văn minh Đông phương sâu
thẳm, vốn được coi là gốc rễ của cả nhân loại”.
Đào Mộng Nam có nhiều tác phẩm thơ dịch:
- Dịch và giới thiệu ngàn bài thơ Đường.
- Dịch và giới thiệu kho tàng thơ Nho của các nhà cách mạng kháng Pháp (thơ
huyết lệ)
- Dịch và giới thiệu toàn tập thơ Cao Bá Quát từ nguyên bản chữ Nho.
- Dịch và giới thiệu trường ca Rama.
- Dịch và giới thiệu Khúc Hát Dâng Tình (thánh thi của vua Salomon có ghi
trong Cựu ước) từ tiếng Anh và tiếng Pháp “The song of love).
4. Trong bài “Đào Mộng Nam, Giấc Mộng Văn Hóa Không Thành”, nhóm bằng
hữu gồm Bùi Ngọc Tuấn, Cao Bá Minh, Phạm Quốc Bảo, Phan Nhật Nam và Trần Lam
Giang đã viết:
“Năm 1964, khi chưa đến tuổi 30, Đào Mộng Nam đã kởi thảo biên soạn Chữ Nho
Tự Học, bộ sách hữu ích, đầy tính sáng tạo trong quá trình học chữ Nho, mà ông
và những nhà giáo dục chuyên ngành Dân Tộc Học (Việt Học) trong tủ sách Việt
Nam Văn Hiến như cố linh mục Kim Định gọi đấy là một linh tự - Thứ chữ, chứa đựng
tinh thần Việt tộc, đã giúp người Việt tồn tại
qua hằng thế kỷ tương tranh, va chạm với những nền văn hóa, văn minh
khác (Trung Hoa, Ấn Độ, Tây phương). Không phải chỉ lý thuyết, Đào Mộng Nam diễn
đạt phương pháp Tự Học Chữ Nho qua trình bày một cách có hệ thống về cấu trúc
chữ Nho (diễn tiến sự hình thành, biến đổi, canh tân của mỗi từ, ý nghĩa của mỗi
từ đó trong từng văn pháp, qua các thể văn ngôn, bạch thoại). Năm cuốn Chữ Nho
Tự Học hẳn là một công trình hoàn chỉnh nhất về phương pháp tự học chữ Nho kể đến
năm 1975, hoặc cho đến bây giờ ở hải ngoại, bao gồm cả trong nước.
Không chỉ biên soạn về linh tự dân tộc không thôi, Đào Mộng Nam còn quảng
diễn tác động, chức năng quan yếu của chữ Nho trong quá trình giảng dạy tại các
cơ sở giáo dục: Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện Đại Học Huế, Phật Học Viện Quảng Đức,
Phật Học Đường Huệ Nghiêm và Hội Khổng Học Việt Nam. Đào Mộng Nam và những người
hằng quan tâm đến tiền đồ Việt Học không chỉ giảng dạy chữ Nho trong giới hạn của
một môn học thuộc giáo trình của những khóa học bậc đại học, nhưng còn ôm ấp ước
vọng xây dựng lại chữ Nho ở cấp trung học để những thế hệ người Việt mai hậu lớn
lên, hành xử, vận động được sức mạnh tổng hợp của ngôn ngữ dân tộc trên ba cột
trụ Nho – Nôm - quốc ngữ ABC. Các tác phẩm Nho-Nôm-ABC tự điển và Chữ Nho Linh
Tự của Văn Minh (hợp soạn cùng Nguyễn Tiến Văn) đồng nằm trong chủ đích làm sống
lại một cách có hệ thống nguồn lực bất diệt ngôn ngữ của tiền nhân. Tiếc thay,
ước vọng của Đào quân cũng như cố linh mục Kim Định nhằm xây dựng một nền Việt
Lý với chữ Nho vẫn chỉ là giấc mộng... như giấc mộng lớn của dân tộc Việt bị
phá vỡ trong cuộc chiến hủy diệt dấy lên từ ngày 19 tháng 12 năm 1946. Sáu mươi
năm trước mà nay dấu vết tàn hại vẫn nguyên tác động với chế độ gọi là “Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” ở quê nhà”.
Kết luận
Bao lâu nay, mỗi lần thấy bộ sách Chữ Nho Tự Học trên mạng, tôi lại hình
dung Đào Mộng Nam trong bộ quần áo bà ba trắng, đi guốc mộc ở Ngã Bảy, Sài Gòn.
Con người nhỏ bé ấy mới mười mấy tuổi đã nuôi hoài bão lớn – Tìm thầy học chữ
Nho để có thể thực hiện cuộc vận động phục hưng văn hóa Việt. Năm 1964, thay đổi
trang phục, có lẽ Nam muốn ghi dấu việc học thành tựu và trở thành thầy dạy chữ
Nho, bước đầu đi vào cuộc vận động. Chắc hẳn cuộc vận động ấy đã đáp ứng nhu cầu
của dân tộc, nên Mộng Nam đã nhận được sự đồng tình nồng nhiệt của nhiều quý
nhân như nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn, các nhà sư, những người lãnh đạo Hội
Khổng Học Việt Nam, bác sĩ Bùi Duy Tâm, bác sĩ Nguyễn Văn Ba và nhiều người trẻ
khác để cùng đi vào tiến trình vận động. Vì thế chỉ trong 10 năm từ 1964 đến
1974, cuộc vận động ấy đã đi được những bước dài mà trong phần trên đã đề cập.
Nhưng cuộc vận động đã đi cùng với cuộc chiến tranh và biến cố 30/4/1975 đã kết
thúc cuộc vận động của Đào Mộng Nam. Tuy vậy, chúng tôi không coi đây là Giấc Mộng
Văn Hóa Không Thành mà chỉ là Cuộc Vận Động Văn Hóa bị dang dở, vì Đào Mộng Nam
đã định được một nội dung, một hướng đi phải làm gì cho cuộc phục hưng văn hóa
Việt. Chúng tôi nhìn vấn đề như thế, vì nghĩ rằng chế độ độc tài toàn trị của đảng
Cộng Sản Việt Nam đã đi đến chỗ cùng của sa đọa thối nát với sự tàn phá văn hóa
và con người thì chế độ ấy phải đi tới tan rã để dân tộc và con dân Việt phục hồi
thế sống quân bình với giá trị làm người.
Năm 1989, trong một cuộc phỏng vấn, nhà báo Pháp đã hỏi tổng thống Vaclav
Havel:
- Việc ưu tiên hàng đầu của tổng thống là gì?
Tổng thống Havel đã trả lời:
- Việc đầu tiên phải làm là phục hồi nhân cách, nhân phẩm cho dân Tiệp Khắc.
Dân Việt dưới sự thống trị của đảng
Cộng Sản cũng lậm vào căn bệnh trầm kha mất nhân cách, nhân phẩm như dân Tiệp,
vì thế khi Cộng Sản Việt tan rã, dân Việt cũng cần phục hồi nhân cách, nhân phẩm
mà giải pháp có thể tìm thấy ở con đường vận động văn hóa của Đào Mộng Nam là
phục hưng văn hóa truyền thống với giá trị làm người mà Mộng Nam đã khởi đầu
trong cuộc chiến tranh tương tàn của đảng Cộng Sản.
* Việt
Dương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire