Đạo bịp bợm
Nộc độc Khổng tử …
Thật ra thì ĐẠO KHỔNG gồm hai phần:
Phần “ Thuật nhi bất tác “ từ HÀ ĐỒ – LẠC THƯ của VIỆT
NHO
Tiêu biểu như sau:
hán nho ngụy
tạo thì cứng nhắc MỘT CHIỀU:
“ Quân
xử thần tử, thần bất tử bất trung
Phụ xử tử
vong, tử bất vong bât hiếu “
– Việt
Nho thì uyển chuyển HAI CHIỀU:
“ Quân
bất minh, thần bất trung
Phụ bất từ, tử
bất hiếu “
Vấn đề được cố gắng minh giải như sau:
Viện Khổng Tử: Xâm lăng “mềm” Văn Hóa
Viện Khổng Tử – Công cụ tuyên truyền và kiểm duyệt của
Trung Quốc trên thế giới
Viện Khổng Tử, với số lượng lập ra ngày càng nhiều, đang
nhập khẩu chế độ kiểm duyệt và tuyên truyền chính trị của Trung Quốc vào môi
trường học thuật tại Hoa Kỳ.
Trung Quốc đang chi tiêu một khoản tiền khổng lồ dưới dạng
xây dựng hoạt động thiện ý ở hải ngoại thông qua các trường học. Bản thân việc
làm đó không có gì bất thường. Nhiều quốc gia cũng gửi giáo viên ra nước ngoài
như là một hình thức ngoại giao văn hóa và ngôn ngữ, chẳng hạn như: Cộng đồng
Pháp ngữ, Viện Goethe của Đức, Viện Cervantes của Tây Ban Nha và Hội đồng Anh.
Thoạt nghe thì cách làm của Viện Khổng Tử cũng tương tự
như các viện giáo dục kể trên của các nước phương Tây. Nhưng thực tế các hoạt động
của cơ quan giáo dục Trung Quốc này lại vô cùng độc hại. Mặc dù, các Viện Khổng
Tử có vẻ bề ngoài như một phương tiện ngoại giao văn hóa thông thường, nhưng bản
chất của nó là công cụ để Trung Quốc can thiệp và gây ảnh hưởng tới nền giáo dục
đại học Hoa Kỳ. Đó là điều Trung Quốc sẽ đạt được nếu các trường đại học Mỹ
không đề cao cảnh giác.
... Các viện Khổng Tử đang xuất khẩu nỗi sợ hãi tự do
ngôn luận trên toàn thế giới. Nó mang sức mạnh đe dọa của chính phủ nước ngoài
vào các lớp học cao đẳng và đại học, thậm chí của những đất nước tự do nhất. Đã
đến lúc phải tống cổ chúng ra khỏi khu vực học thuật.
Tác giả: Rachelle Peterson
Ông Rachelle Peterson là giám đốc các dự án nghiên cứu tại
Hiệp hội các học giả quốc gia và là tác giả của “Outsourced to China”: Các Viện
Khổng Tử và Quyền lực mềm trong Giáo dục Đại học Hoa Kỳ.
Tân Bình dịch
Mấy năm về trước, khi việt cong cu li dũng xà mâu cắn câu
dzụ Viện Khổng Tử chệt, người Việt Quốc gia trong - ngoài nước không ngớt cả tiếng
răn đe, rủa sả:
Văn miếu thờ Khổng Tử?!
Trích: “ Thưa quý thính giả, ĐCSVN càng ngày
càng công khai nhìn nhận mình là tay sai cho bọn Tàu Cộng, điển hình gần đây nhất
là việc CSVN đã chi ra hơn 13 triệu mỹ kim để xây dựng cái gọi là Văn Miếu để
thờ “đức Khổng Tử”.
..... Thông tin được nhà cầm quyền tỉnh Vĩnh Phúc, một
trong những tỉnh thuộc hạng nghèo của Việt Nam, đã chi ra hơn 13 triệu USD để
xây dựng cái gọi là Văn Miếu để thờ “đức Khổng tử”.
Đặng Chí Hùng:
“Chuyện CSVN đã từng bợ Liên Xô, bợ Tàu cũng chẳng có
gì là lạ. Chẳng thế mà Hồ Chí Minh đã từng viết thơ kêu gọi “yêu quê hương là
yêu Trung Cộng”, Tố Hữu thì lăn lóc với cái gọi là “Tiếng đầu lòng con gọi
Stalin”. Và sau đó thì Lê Duẩn thẳng thừng khẳng định công cuộc “ăn cướp” của đảng
CSVN chính là “đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng”. Như vậy một nhà cầm quyền coi
dân chỉ là cỏ rác và đã bán nước cho Tàu, đang đưa dần dân tộc Việt Nam vào
vòng nô lệ Hán tặc có xây công trình để thờ Khổng Tử cũng chẳng có gì là lạ. Điều
đáng nói ở đây là chúng ta có thêm một bằng chứng cho ai đó còn nghi ngờ CSVN
có bán nước hay không có thể khẳng định CSVN chính là những kẻ bán nước cho Tàu
100 phần trăm, không thể nào khác được!”
* * *
VÌ NGU SI DỐT NÁT, VIỆT CỘNG BỎ NHO VIỆT CHỌN NHO TÀU!
Vì sao cần cảnh giác với Viện Khổng tử? – BBC
Trung Quốc đã triển khai được trên 450 Viện Khổng tử trên
100 quốc gia, theo chuyên gia.
Việt Nam cần 'thận trọng, cảnh giác' với các 'ý đồ, mục
đích' trong chiến lược kết hợp 'sức mạnh cứng' với 'sức mạnh mềm' của Trung Quốc
qua các dự án như 'Học viện Khổng tử', theo ý kiến nhà nghiên cứu văn hóa và
chính sách văn hóa từ trong nước.
'Thận trọng, cảnh giác'
Thủ tướng Dũng nói rằng đối với TQ thì “vừa hợp tác vừa đấu
tranh”.
Tháng 10/2013, trong một chuyến thăm chính thức tới Việt
Nam, Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Khắc Cường và Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn
Tấn Dũng đã chứng kiến ký kết một số dự án hợp tác Trung - Việt tại Việt Nam,
trong đó có việc thành lập Viện Khổng tử đặt tại Đại học Hà Nội.
* * *
“Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.” Đó là nghề
riêng của cộng sản.
Việt cộng còn siêu dối trá đến độ gian manh. Tên cựu du
kích rừng U Minh Dũng xà mâu lại là siêu lá mặt lá trái trên sân khấu chánh trường
xã nghĩa hôm nay. Miệng nó nói một đường, tay nó làm một nẽo như câu chuyện ký
kết thành lập viện Khổng tử chệt kể trên.
Nho Khổng tử từ đâu mà có? Đó là Nho từ Hà Đồ – Lạc Thư của
nòi giống Lạc Việt thuộc nền “Văn minh Lúa nước” bên bờ Dương Tử giang từ hơn bốn
ngàn năm về trước mà hậu duệ ngày nay là dân tộc Việt Nam sống hiền hòa nhưng
ngạo nghễ trên giải đất hình Rồng, rạng rở bên bờ biển Đông với truyền thống
con Rồng cháu Tiên, nòi giống hùng cường Lạc Long.
Ngày nay dân tộc chẳng may, lai sanh loài nghịch tặc, giặc
giả hồ và đồng bọn dao mác lưởi lê, theo tà thuyết duy vật vô thần, vô tổ quốc,
rước giặc du mục hán tộc về dày xéo non sông, hủy hoại nền văn hóa dân tộc.
Đó là tội ác lớn nhất trong dòng thanh sử Việt!
Viện Khổng Tử
Khổng tử viết:
Thuật nhi bất
tác
Thuật là thuật
Hà Đồ - Lạc Thư
Văn bản gốc của
giống giồng Lạc Việt
Ta, con cháu
Lạc Long Quân
Mẹ Âu Cơ sanh
trăm trứng
Vì du mục Hán
hung dữ đánh chiếm
Xuống thuyền
rồng đánh trống đồng Ngọc Lũ
Trôi giạt về
Phương Nam mà lập nghiệp
Nơi giải đất
hình rồng
Ngạo nghễ
trên bờ Biển Đông
Nay bọn cộng sản ngu dốt, gian tham
Bám đít tàu
phù làm tôi tớ
Lập viện Khổng
tử, học nho Tàu
Thật là bọn
tào lao
Bỏ gốc chạy
theo ngọn
Thật là ngu
si hết biết!
Hãy mau lẹ vận
động
Toàn dân vùng
lên
Đánh đổ bọn
duy vật cộng sản
Xây lại nền
giáo dục Dân tộc
Tìm về lại cội
nguồn Lạc Long
Dân Lạc Việt,
giống Rồng Tiên
Văn minh “
Lúa nước “
bốn ngàn năm
văn hiến.
* Nguyễn Nhơn
Phụ đính
Không bán nước thì là gì nữa?
Thưa quý thính giả, ĐCSVN càng ngày càng công khai
nhìn nhận mình là tay sai cho bọn Tàu Cộng, điển hình gần đây nhất là việc CSVN
đã chi ra hơn 13 triệu mỹ kim để xây dựng cái gọi là Văn Miếu để thờ “đức Khổng
Tử”. Trong phần Bình Luận hôm nay, Song Thập sẽ gởi đến quý thính giả bài
“Không Bán Nước Thì Là Gì Nữa?” của Đặng Chí Hùng để kết thúc chương trình phát
thanh của đài ĐLSN tối hôm nay.
Thông tin được nhà cầm quyền tỉnh Vĩnh Phúc, một trong những
tỉnh thuộc hạng nghèo của Việt Nam, đã chi ra hơn 13 triệu USD để xây dựng cái
gọi là Văn Miếu để thờ “đức Khổng tử”. Theo đó, công trình này được nhà cầm quyền
Vĩnh Phúc khởi công xây dựng từ năm 2011 và dự trù sẽ hoàn tất vào năm tới,
trên một mảnh đất rộng hơn 4 mẫu tạu phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên., với
thiết kế không khác gì một hoàng cung. Cần biết là trong tờ trình xin xây dự án
này, nhà cầm quyền Vĩnh Phúc nói rằng các nước như Trung Cộng, Nhật Bản, Nam
Hàn và kể cả Việt Nam đều xây dựng văn miếu để thờ “Khổng Tử”. Tuy nhiên, ngay
sau khi biết được chuyện thờ Khổng Tử, rất nhiều người đã lên tiếng phản đối,
yêu cầu không được thiết lập bài vị Khổng Tử trong tòa văn miếu này. Nhưng câu
chuyện ở đây là như thế nào đây ?
Thứ nhất, Văn Miếu ở Việt Nam với mục đích lập ra các vị
quan văn võ có đỗ đạt trong các kỳ thi trước đây trong lịch sử Việt Nam. Điều
này đã có ở nhiều nơi như Hà Nội, Nam Định, Huế...Nhưng đó là giành cho người
Việt Nam chúng ta. Chuyện Khổng Tử đã có người Tàu lo, đó không phải là việc của
chúng ta. Dân tộc Việt của chúng ta có văn hóa riêng, tín ngưỡng riêng, chúng
không ta theo văn hóa Tàu. Cớ sao phải lập đền thờ Khổng Tử trên đất nước của
Việt Nam ? Đó là điều vô lý khi nhiều nước trên thế giới đã và đang đóng cửa Viện
Khổng Tử tại nước họ.
Thứ hai, Trong khi người dân còn quá nhiều khó khăn thì tại
sao lại phải xây cái Miếu cho một người ngoại bang tới cả hàng chục triệu USD.
Đó là một điều vô lý cho thấy thực tế quan chức CSVN nói chung và Vĩnh Phúc nói
riêng muốn qua đó kiếm “hoa hồng” lại quả từ những hợp đồng đấu thầu béo bở.
Thứ ba, đây là điều quan trọng nhất đó là bản chất bán nước
và làm nô lệ cho Tàu đã được quan chức CSVN thể hiện rất rõ ràng qua sự kiện
này. Còn nhớ trước đây thì CSVN đã cho khánh thành Viện Khổng Tử ở Việt Nam dưới
sự chứng kiến của sứ Tàu. Sự kiện xây đền thờ Khổng Tử ở Vĩnh Phúc cho thấy
CSVN tiếp tục con đường Hán Hóa mà Hồ Chí Minh và quan chức khác đã làm bao năm
qua. CSVN muốn đồng văn hóa, chữ viết của Việt Nam làm một tỉnh của Tàu thông
qua bắt học sinh học chữ Hán, sách Tàu, cờ 6 sao và nay là đền thờ Khổng Tử...
Ba điều đó nói lên một điều CSVN vừa ngu dốt khi cố tình
xây một ngôi Miếu trái với văn hóa và thuần phong mỹ tcuj của người Việt Nam. Vừa
tham lam khi chúng dựa vào đó để tham nhũng chia chác trên xương máu của tất cả
người dân Việt Nam. Đồng thời, âm mưu Hán Hóa đã hiện rõ hên bao giờ hết trên
những khuôn mặt của bộ chính trị nhà cầm quyền CSVN.
Chúng ta đã từng chứng kiến người dân Việt Nam có những
câu vè về cái tượng của Lê Nin ở ngay Hà Nội như sau:
“Ông Lê
Nin ở nước Nga
Cớ sao lại đứng
vườn hoa nước này
Ông vênh mặt,ông
chỉ tay:
Tự do hạnh
phúc chúng mày còn xa
Kìa xem gương
của nước Nga
Bảy mươi năm
lẻ có ra đếch gì !...”
Chuyện CSVN đã từng bợ Liên Xô, bợ Tàu cũng chẳng có gì
là lạ. Chẳng thế mà Hồ Chí Minh đã từng viết thơ kêu gọi “yêu quê hương là yêu
Trung Cộng”, Tố Hữu thì lăn lóc với cái gọi là “Tiếng đầu lòng con gọi
Stalin”. Và sau đó thì Lê Duẩn thẳng thừng khẳng định công cuộc “ăn cướp” của đảng
CSVN chính là “đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng”. Như vậy một nhà cầm quyền coi
dân chỉ là cỏ rác và đã bán nước cho Tàu, đang đưa dần dân tộc Việt Nam vào
vòng nô lệ Hán tặc có xây công trình để thờ Khổng Tử cũng chẳng có gì là lạ. Điều
đáng nói ở đây là chúng ta có thêm một bằng chứng cho ai đó còn nghi ngờ CSVN
có bán nước hay không có thể khẳng định CSVN chính là những kẻ bán nước cho Tàu
100 phần trăm, không thể nào khác được !
Trong một đoạn băng đã được tiết lộ chuyện CSVN đang thực
thi Hán hóa dân tộc chúng ta có đoạn: “Hợp nhất Trung Quốc-Việt Nam là một mốc
lịch sử vĩ đại trên con đường phát triển của tổ quốc. Với tư cách tham mưu cho
cấp cao hai bên, trong hội nghị này chúng ta đã bàn thẳng vào những phương án,
phác thảo những bước tiến hành cụ thể, những công việc cụ thể trong công tác
chuẩn bị... Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là
việc trước sau sẽ phải đến, không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn... Phải
trấn an các cán bộ các cấp từ trung ương cho đến địa phương để họ thấy rằng sau
hợp nhất mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển...! ”
Rõ ràng là vậy, còn nghi ngờ gì nữa đâu ? CSVN đã và đang
bán nước và Hán hóa trên con đường mà Hồ Chí Minh và đệ tử của hắn ta mong muốn.
Chuyện 13 triệu USD xây đền thờ Khổng Tử tại Vĩnh Phúc chắc chắn là chuyện sắp
đặt để cái văn hóa Hán tộc có thể được ngự trị trên quê hương của chúng ta.
Chuyện bán nước của CSVN đã rõ ràng, mong ai đó còn lưỡng lự, còn vô cảm hãy
mau tỉnh giấc...Đất nước này, dân tộc này cần phải đứng lên trước khi quá muộn
!
* Đặng Chí Hùng
10/06/2015
HUYỀN SỬ VIỆT NHO.
Hiện tại bọn phản quốc bán nước cầu vinh việt cọng đang
mưu toan xóa nhòa việc học Lịch sử Dân tộc để chúng chuẩn bị thay thế việc học
sử Việt sang học sử tàu theo như cam kết trong mật ước Thành Đô và cũng để xóa
nhòa Tinh thần Dân tộc vì chúng lo sợ, một khi tinh thần Dân tộc bất khuất chống
tàu xâm lăng trổi dậy, toàn dân Việt sẽ vùng lên quét sạch bọn mãi quốc cầu
vinh việt cọng ra khỏi cỏi bờ Đất Việt.
Để chống lại âm mưu xóa nhòa Lịch sử Dân tộc của loài quỷ
đỏ phản quốc, ta cổ võ toàn dân đọc Sử Việt.
Khi Tổ tiên Việt đóng dấu trên Kinh Dịch
LĨNH NAM TRÍCH QUÁI VỚI HUYỀN SỬ VIỆT NHO
Khi Tổ tiên Việt đóng dấu trên Kinh Dịch (Dịch Kinh linh
thể: Kim Định. Tr. 9 – 26 )
“ Đánh dấu một vật là ghi nhận vật đó thuộc về
mình, cho nên nói Việt tộc đóng dấu trên Kinh Dịch hay nói Kinh Dịch của Việt
Nam cũng đồng một ý. Cả hai câu này thoạt nghe sẽ dễ bị hiểu như một câu nói
khôi hài vô duyên, nhưng có thể tha thứ vì phát xuất từ một lòng ái quốc quá trớn
nên đâm ra nói nhàm. Sở dĩ có thế nghĩ như thế, vì hiện trạng là thế, nghĩa là
Kinh Dịch hiện nay là của Tàu chớ không phải là của Việt Nam, nên trong bao
nhiêu ngàn năm có người Việt Nam nào dám đả động tới Kinh Dịch.
Đó là việc mới được làm gần đây và tất nhiên cũng lại học
theo lối Tàu lối Tây, chứ đã có ai đọc theo lối của nó. Phải là chủ cũ của nó mới
đọc được và chủ cũ của nó tôi bảo là người Việt.
Kinh Dịch là của người Việt, vì Tổ tiên của ta đã đóng dấu
trên nó và hôm nay xin mời bạn cùng tôi đi nhận lại dấu. Xin báo trước là dấu
đóng đã lâu đời nên phai mờ nhiều quá không thể dương hai mắt ốc bưu ra mà thấy
được, phải dùng tia sáng hồng ngoại gì đó mới trông nhận ra. Bạn nào không
thích thứ ánh sáng lung linh “ hốt hề hoảng hề “, xin ở lại nhà, vì không có lối
nào khác.
Con dấu đã bị phai mờ không những vì đã quá lâu, mà còn bị
bôi cọ đi do người ăn cắp. Ai ăn cắp? Thưa là Trọng Thuỷ từ Bắc phương mà tới.Nhưng
sao lại dám đổ oan như vậy? Thưa là vì có vụ văn tự tuy đã phai nhưng còn đọc
được như sau:
“ Thần Kim Quy cho An Dương vương cái vuốt để làm
nỏ thần nhờ đó đánh bại được Triệu Đà. Đà biết thế nên sai con là Trọng Thủy cầu
hôn con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để đánh cắp cái vuốt rùa, và Trọng Thủy
đã thành công đánh lừa được Mỵ Châu đổi lấy nỏ thần đem về Bắc, rồi thay vào bằng
cái nỏ giả làm vuốt rùa “.
Câu truyện này ai cũng thuộc lòng, nhưng không mấy ai
nghĩ rằng đó là câu chuyện thật đã gây nên một ảnh hưởng quyết liệt trên sử mệnh
Việt Nam hơn bất cứ câu chuyện nào có chứng tích lịch sử cụ thể. Vì nó còn ảnh
hưởng đến đời chúng ta hiện nay, khiến chúng ta đang điêu đứng vì Cộng sản hay
các tư trào khác, bởi vì chúng ta không còn Hồn Nước nữa! Cái hồn đó là móng
chân Kim Quy đã bị đánh tráo mất rồi.
Sự đánh tráo này quả là một biến cố tương đương với tội A
Dong E Và bên trời Tây, vì nó làm cho lịch sử rẽ sang một lối khác, nó ghi dấu
một sự mất nền tảng tức là mất cái Đạo làm Người.
Đạo Người là Thiên Địa chi đức, được biểu thị trong con
rùa có lưng tròn tượng Thiên, 4 chân tượng Địa. Vuốt chân rùa chính là tinh hoa
của cái Đạo Trời Đất, tức cũng là Nhân đạo. Cái nhân đạo đó đã bị Hán Nho choán
mất chỗ và nước Việt Cổ đại của Hồng Bàng đã chấm dứt với Triệu Đà. Cái nước Việt
Nam do Triệu Đà khai sáng không còn là nước lý tưởng Văn Lang nữa.
Người Việt Nam đã bị đuổi ra khỏi nước lý tưởng kia rồi,
và hiện nay có còn nói bốn ngàn năm văn hiến thì cũng chỉ là biểu lộ một tấm
lòng hoài cổ về một nơi xa xôi ở mãi tận xa xưa, chẳng còn mấy âm vang trong
lòng, nên không còn được hiệu lực nào nữa. Tuy nhiên có điều khác với cảnh huống
A Dong E Và, vì hai ông bà không những bị đuổi ra khỏi địa đàng, nhưng còn bị một
thiên thần coi chừng không cho trở lại cây hằng sống, còn chúng ta “ Ai bắt được
ngọc châu Đông Hải ( hiểu là triết Đông ) mà múc nước giếng Mỵ Châu lên rửa,
thì càng rửa, sắc ngọc càng thêm rực rỡ “. Biết đâu nó sẽ rực rỡ đủ để soi đàng
cho chúng ta trở lại được Văn Lang.
Văn Lang là gì ?
Thưa là nước lý tưởng nhất vì được cai trị ( trị thuỷ )
theo đúng tinh thần Kinh Dịch là Âm Dương hoà. Âm là Địa, Dương là Thiên , hòa
là Nhân.
Nói đến Âm Dương hoà là nói đến trạng thái con người chưa
ly tính, chưa vong thân, vẫn còn sống cái sống tràn đầy viên mãn của Người. Có
ai sống trong đó chưa thì khó mà biết, vì không một Lịch sử nào nói tới. chỉ có
Huyền sử, mà Huyền sử thì không những nói đến hôm xưa mà nói đến truyện hôm nay
và ngày mai, nghĩa là nói đến lý tưởng của con Người muôn thuở.
Khi cái lý tưởng ấy chung cho nhiều người một nước một
phương thì tôi gọi là sử mệnh, hiểu như thế và quay trở lại câu hỏi đã có một
nước Văn Lang chăng, đã có ai sống trong nước ấy chưa, thì tôi thưa rằng đã có,
và những ngýời sống trong nýớc ðó là Phục Hy và Nữ Oa.
Hai ông bà tiên Tổ này đã hiện thực đúng câu ” Thiên Địa
chi đức “, vì ông nắm cái Củ ( ┑) : Địa phương ), còn bà bế cái Quy ( ┼ ):
Thiên viên: ⊙. Vuông
Tròn thì trái ngược, ấy thế mà đuôi hai nguyên Tổ lúc nào cũng “ Giao chỉ
“ xoắn xuýt để viết
lên chữ Văn ( 文 ) Sơ thủy .
Vì chữ Văn gồm hai nét Đất Trời
giao hội, nét phẩy (丿) chỉ Đất và nét mác ( 乀) chỉ Trời
quay ngược chiều nhưng cả hai đều nằm dưới bộ đầu, nhưng cả hai đều nằm dưới bộ
đầu ( 亠 : không có nghĩa chi cả ) và nhờ đó thiết lập được
một hoàng kim thời đại kêu là Bình Văn, nghĩa là nền thái bình do Văn trị. Đấy
là cảnh trí của nước Văn Lang của Việt Nho nguyên thuỷ, trải khắp địa vực nước
Trung Hoa cổ đại. Thế rồi, một ngày kia văn minh Du mục của Tây Bắc dưới quyền
điều khiển của Hoàng Đế đã vào chiếm đất, chiếm người và chiếm luôn cả đạo Dịch.
Sự chiếm Kinh Dịch ở đây có nghĩa là sự chấp nhận. Sự chấp nhận này được báo hiệu
bằng vua Đế Nghi có nghĩa là thích nghi với đạo Dịch.
Đế Nghi cùng với Lộc Tục là con của
cha Đế Minh lấy mẹ Vụ Tiên. Đây là đôi nguyên Tổ thứ hai sau Nữ Oa Phục Hy, nói
thứ hai là tính theo biến trình biến dịch đi từ đồng nhất vào đường phân biệt,
nên cặp thứ hai đã nói tới chồng Bắc vợ Nam. Nhưng còn là Bắc Nam của chung một
nền văn hoá nông nghiệp.
Chưa đến giai đoạn Bắc Du mục Nam
nông nghiệp như Trọng Thuỷ và Mỵ Châu. Ở đây Đế Minh là cháu Thần Nông mà lấy
Tiên nữ nước Việt cũng thờ Thần Nông thì nhất định tinh thần Văn Lang vẫn duy
trì đẹp đẽ: hai nét Âm Dương giao hội như thường. Những sự việc trở nên rắc rối
dần do ngành phía Bắc là Đế Nghi. Bởi vì Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai,
ông này nhân nhớ lại việc ông nội mình là Đế Minh tuần thú phương Nam gặp Tiên,
nên cũng bỏ nhà đi tuần thú phía Nam nhưng thay vì gặp Tiên lại mất Tiên, Tiên
đó là Âu Cơ.
Âu Cơ là vợ của Đế Lai lẽ ra phải
khăng khít cuốn lấy đuôi vợ như Phục Hy đã làm, đàng này Đế Lai đã bỏ vợ đi chu
du cùng khắp nước Việt. Như vậy là dọn đường cho tội Tổ hon xẩy ra. Tội Tổ hon
là Âm Dương ly biệt.
Vậy sự ly biệt đó đã xẩy ra khi
Trọng Thủy bỏ vợ ra đi với cái vuốt thần và như thế cái nỏ còn lại không phải
là nỏ thần, mà An Dương Vương vẫn tưởng là thần y như thế giới hiện nay kêu là
thần nhưng chẳng có chút thần nào hết. Sự lầm tưởng đó cũng là phát nguồn từ tội
Tổ tong lẫn vật chất làm tinh thần. Tuy nhiên tội Tổ hon bên Đông phương nhẹ
hơn bên Tây phương vì nhiều lẽ : Lẽ đầu tiên không do các bà mà do phía các
ông. Bên Tây bà E Và ra ngoài, còn bên này Trọng Thủy là đực rựa, đàn ông mà chạy
việc ngoài là trúng. Nhưng trúng mà vẫn có tội vì chỗ quá đáng là “ nước đi mãi
không về cùng non “.
Đế Lai không về cùng Âu Cơ có
nghĩa là văn minh Bắc phương chuộng “bình Võ “ hơn “ bình Văn “, nên tỏ ra lơ
là với nền minh triết đại biểu bằng Âu Cơ (nền vàng: trung dung). Nhưng minh
triết chưa chết bởi vì có Lạc Long Quân đến với Âu Cơ và Âu Cơ lại đam mê Lạc
Long Quân. Mê là phải vì Minh triết nông nghiệp đã phát xuất từ phương Nam,
mang nặng tính chất nhu hòa phương Nam, vì đó mà bị chồng phương Bắc lơ là,
nhưng lại tìm được tìm được quê ngoại cái môi trường thuận lợi hon ó, nhờ đó nó
trở nên Nữ Hoàng cai trị mọi ngành văn hóa trong nước: “ La philosophie doit être
la Reine des sciences : Triết phải là bà Chúa các khoa “. Điều ấy đã được hiện
thực trong nước Văn Lang nơi mà Lạc Long Quân chơi vai trò mờ nhạt, còn chính
chủ tịch lại là Âu Cơ.
Huyền sử chép rằng: Trong nước
không có vua nên Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Khoa xã hội
gọi đây là thời mẫu hê và đa phu, vì Âu Cơ có hai chồng là Đế Lai và Lạc Long
Quân. Tục Táo Quân có lẽ khởi đầu từ đây vì trong ba đầu rau thì có hai ông một
bà.
Cái mà xã hội học kêu là mẫu hệ
và đa phu thì triết lý kêu là Bình Văn tức thời Minh triết ngự trị, nên đáng gọi
là một nước cai trị bằng văn hoá theo nghĩa cao quý nhất của hai cữ văn hoá: lấy
văn mà cảm hoá. Huyền sử chép rằng: Lạc Long Quân nhận định với Âu Cơ rằng vì vợ
Bắc chồng Nam: “ phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau
trường cửu nên chia nhau con đi ở riêng, nhưng có việc thì cùng nghe không được
bỏ nhau.”
Tội Tổ hon đã manh nha ở chỗ Âm
Dương không xoắn xuýt với nhau nữa, tuy nhiên chưa đến bước quyết liệt, nên còn
hẹn “ hễ có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau “.
Nhờ đó mà nước vẫn còn là Văn
Lang, dưới quyền Minh triết của Âu Cơ, vì 50 con theo bố xuống thủy phủ không
xuất hiện. Huyền sử chép rằng: “ 50 con theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên
núi, tự suy tôn người trưởng lên làm vua hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn
Lang.
Nước Văn Lang : Đông giáp Nam Hải,
Tây giáp Ba Thục, Bắc giáp Động Đình Hồ. Nam đến nước Hồ Tôn “. Đó chỉ là bờ
cõi của nền văn hoá phương Nam dưới quyền của Âu Cơ nghi mẫu, khác với phía Bắc
đã bị phụ hệ chinh phục dần do Hoàng Đế: Óc pháp hình nổi hơn, không để cho
Minh triết thấm nhuần.
Huyền sử chép rằng: “ Lạc Long
Quân ở dưới thuỷ phủ, mẹ con Âu Cơ nhớ về Bắc quốc, liền đi lên biên cảnh,
Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ, mới phân binh trấn giữ quan tái, mẹ con không về
Bắc được”, tức văn hoá nông nghiệp không chiếm cứ lại được miền Bắc đã bị rơi
vào tay văn minh Du mục.
Thế là hết cái nước Xích Quỷ, nước
lan rộng khắp Tàu cổ đại, mênh mông như một châu, nên cũng gọi là “ Thần châu
xích huyện “, và tự Hoàng Đế trở đi thì chỉ còn có Văn Lang tức từ miền Dương Tử
Giang trở xuống mà thôi, mà cũng không còn thông thương được với miền Bắc nữa,
vì miền Bắc đã rơi hẳn vào quyền Du mục rồi.
Về phía Nam thì Lạc Long Quân đã
không xuất hiện, mà về phía Bắc thì sự giao hội hai nền văn hoán rất hạn hẹp.
Huyền sử gởi vào truyện Chức Nữ một năm được gặp Ngưu Lang có một lần vào đêm
thất tịch ( 7/7 ), đã vậy sự gặp gỡ chẳng lấy gì làm vui vẻ, mà trái lại:
“ Trong đêm gặp gỡ mơ màng khóc nhau
Tục truyền tháng bảy mưa ngâu
Con trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền”
Đấy là hiểu sai Chức Nữ.
Cầu Ô thước
Chức Nữ có khóc vì phải lấy đứa mục
đồng đâu, nhưng khóc vì nó không chịu giáo hóa, cứ dùng võ lực mà chen lấn áp đảo
hoài hoài, nên không còn thể về thăm quê Bắc được, đã vậy, từ đấy mẹ con Âu Cơ
cứ phải bồng bế nhau di cư mãi mãi, chạy dài trên con đường Nam tiến.
Bởi vì văn minh Du mục của Ngưu
Lang đặc chuyên chú trọng hình thức và võ lực nên rồi sẽ đàn áp được văn minh
Nông nghiệp của phương Nam. Tuy nhiên còn phải qua biết bao nhiêu cuộc giao
tranh.
Huyền sử còn ghi lại trong truyện
Sơn Tinh và Thuỷ Tinh tranh nhau lấy con gái vua Hùng Vương tên là Mỵ Nương. Vì
Sơn Tinh đến ban sáng nên lấy được Mỵ Nương. Thủy Tinh đến buổi chiều nên hàm
oán đem cả loài thủy tộc đánh Sơn Tinh để cướp, Mỵ Nương, nhưng Sơn Tinh vươn
lên, Thuỷ Tinh không làm chi được. Câu chuyện này tả lại lúc Văn Lang còn đang
mạnh, nên còn chống cự nổi văn minh Du mục Bắc phương. Tuy chống cự nổi nhưng
cũng chỉ trên con đường rút lui.
Và hầu chắc xung quanh giai đoạn
này xẩy ra chuyện chữ “ Việt Mễ: ( 粵 ) thay
vào chữ “ Việt Tẩu ( 越 ) “để thích nghi với Thời Lữ.
Quẻ Lữ kép bởi quẻ Ly và Cấn: nên
Lạc Long Quân nói với Âu Cơ là Nước Lửa bất đồng.
Sao Âu Cơ lên núi mà lại nói đến
lửa do Thời Lữ vậy. Nước lửa bất đồng nhưng tinh thần Kinh Dịch mạnh nên vẫn
còn giữ được nét tương sinh tương tức nằm ngầm, nên Lạc Long Quân nói với Âu Cơ
có truyện gì thì cùng nghe nhau, đó là “ Văn Đạo “.
Nghe được nhau, vì đây chưa đến
giai đạn Bắc Nam đối kháng như sau thời Hoàng Đế đem văn minh Du mục vào, nhưng
còn là văn hoá nông nghiệp: Và Âu Cơ tuy sinh ra ở Bắc nhưng là Bắc còn nằm
trong tay Viêm tộc, nên Âu Cơ vẫn là biểu tượng nền Minh triết của Văn Lang. Chỉ
tự đời Hoàng Đế thì danh từ Bắc mới chỉ văn minh Du mục đầy óc hung hăng chiếm
đoạt và Việt tộc mới hiện thức quẻ Lữ, và trở thành mũi dùi cho cuộc Nam tiến
mang theo nền văn hoá Nông nghiệp đi cùng như sẽ đọc thấy trong truyện Hùng
Vương.
Chỉ cần nói trước rằng tuy Việt tộc
có tinh thần chống cự bất khuất nhưng đất đai có hạn: Nam tiến mãi rồi cũng
ngày đất hết phải gặp biến và lúc ấy chỉ còn phép như An Dương Vương “ quay lại
giết Mỵ Châu rồi cầm sừng văn tê bảy tấc, theo Kim Quy rẽ nước đi vào biển “.
Thế là hết nước Việt Nam như một
Văn Lang, vì chưng tội Tổ hon đã phạm rồi: không phải ăn một trái cấm như E Và
mà trong lát gươm của An Dương Vương giáng xuống đầu Mỵ Châu: Thế là văn minh
Tây Bắc đã giết chết nền văn hoá Nông nghiệp để rồi trở về với văn minh Tây Bắc.
Tây tượng trưng bằng cái sừng văn tê bảy tấc, do An Dương Vương cầm để theo Kim
Quy dẫn vào biển. Biển là nước, nước ( Thủy ) chỉ phương Bắc. Còn số bảy chỉ
phương Tây ( theo Lạc Thư ) và từ đấy “ Nam thất ( 7 ) thắng Nữ Cửu ( 9 ). Óc
Hán tộc đã bủa vây màng lưới trên cương vực Văn Lang, Bắc giáp Động Đình Hồ. .
.
Và vì thế ngày nay không còn ai
thấy được nước Văn Lang đâu nữa. Không trông thấy được vì Việt Nho đã ngả quỵ
dưới lát gươm oan nghiệt của Hán Nho.
Bạn sẽ hỏi về cái số kiếp của cái
vuốt rùa của Trọng Thuỷ đã ăn cắp đưa về Bắc ra sao, có làm ích chi cho Hán tộc
chăng? Thưa rằng: Không, nó cũng mất luôn với chủ nó:
Huyền sử chép rằng: Trọng Thủy hối
hận về ác quả nên đã đâm đầu xuống giếng Mỵ Châu mà chết, vì độc Dương bất
sinh.
Sách Nhĩ Nhã chép về một Hoàng Đế
kia có con chim Loan mà nhà vua rất quý mến, và chỉ ước ao được nghe tiếng nói
của nó, nhưng không bao giờ được mạn nguyện. Hoàng hậu mới bàn rằng: Tôi thường
nghe nói chim sẽ hót khi thấy một con chim khác cùng giống. Tại sao bệ hạ không
để nó đứng trước một tấm gương?
Nhà vua nghe lời bàn ấy, nhưng
khi con chim loan thấy hình của nó liền hót lên những tiếng thật bi ai, đoạn đập
cánh mà chết. Tại sao Loan chết vì không có con đực là Phụng mà chỉ thấy hình
hon của Loan. Hình hon là biểu tượng là ý niệm làm sao có đối cực để làm nên biến
dịch, mà thiếu biến dịch là chết cho nên Loan chết. Trọng Thủy thiếu Mỵ Châu là
Dương thiếu Âm nên bất thành cũng lại chết. Loan phải đi với Phụng mới có khả
năng “ Loan Phụng hòa minh “, còn nay “ Loan phiêu Phượng bạt “ thì làm sao sống
nổi mà chả chết.
Và đây là tội Tổ hon của Viễn
Đông:
Cũng y như bên trời Tây, Trọng
Thuỷ đã đem óc tính toán của Bắc phương đến làm nghẹt thở tinh thần phương Nam,
khác nhau vài nét đặc biệt: Trước hết là Chồng đánh lừa vợ chứ như không bên
Tây, vợ lừa chồng.
Vì đàn bà biểu thị Minh triết mà
lại thủ vai đánh lừa thì tội nặng hơn nhiều. Thứ đến văn hoá mẹ bên Viễn Đông
đã chống chọi trải qua nhiều giai đoạn, cuối cùng mới bị thua và trước khi gục
ngã còn cố gắng cứu vãn tình hình như được ghi trong việc Âu Cơ trở về thăm Bắc
phương mà bị Hoàng Đế ngăn chặn, hoặc trong trận Sơn Tinh Thủy Tinh tranh đua
nhau.
Ở trận này tuy loại thủy tộc (
phương Bắc ) bị thua nhưng sơn tộc cũng bị hại.Vì thế cuối cùng đuối sức dần để
gục ngã, nhưng chết mà vẫn còn lưu lại một cái giếng làm kỷ niệm.
Và việc trước hết của giếng là nó
đã đón nhận Trọng thủy nhảy xuống đó tự tử. Vậy là Trọng Thủy chết, nhưng còn
giữ được một điều là sống chết có nhau. Đúng hơn sống có nhau được một dạo còn
chết thì ở với nhau hoài trong một mồ gọi là Việt tỉnh, để làm như dấu vết, như
con chấm đã đóng vào Kinh Dịch. Chính vì Trọng Thủy và Mỵ Châu đã chết nên nước
Văn Lang không còn và vì thế mà hôm nay khi nghe nói đến con dấu Việt Nho đã
đóng lên Kinh Dịch thì như như nghe một truyện tiểu thuyết.
Nghe như truyện tiểu thuyết vì
chúng ta đã đi hẳn vào nhị nguyên chỉ thấy có một một chiều, như vậy là không
còn biết nhìn sự vật trong hai chiều, như vậy là không còn biết nhìn sự vật
theo hai chiều, nói như Heidegger, chúng ta đã mất ý thức về nét Gấp Đôi, nên
chỉ còn đi tìm những cái gì độc khối kiểu Duy Sử nên không hiểu nổi nét Gấp Đôi
của Kinh Dịch nằm trong những trang Huyền sử của nước.
Vì thế chúng ta hãy cố gắng tìm
trở lại những nét Gấp Đôi mà tôi gọi là con chấm của tiên Tổ đóng trên Kinh Dịch.
Nét Gấp Đôi lớn lao hơn hết nằm trong Hà Đồ và Lạc Thư. Hà Đồ có thể gọi là con
chấm của Bách Việt nằm từ vùng sông Hoàng Hà trở xuống. Còn Lạc Thư là con dấu
của Việt tộc, một ngành có tính chất đại diện hơn hết của Bắc Việt, cũng như
Băc Việt là đại diện nổi nhất của Viêm tộc.
Hà Đồ có 55 điểm tròn, Lạc Thư có
45, cộng lại là 100 cái vòng tròn, gọi là 100 trứng, nhưng cùng nằm trong một
bào thai do mẹ Âu Cơ đẻ ra. Mẹ Âu Cơ biểu thị quẻ Khôn chỉ bụng: “ Khôn vi phúc
“ (Thuyết quái ) hay nói cách khác Âu Cơ chỉ nền Minh triết của Dịch lý. Nền
Minh triết này xây trên hai trụ Âm Dương là Trời và Đất: cũng gọi là ngang dọc
hay thập tự nhai được bồng trong tay Nữ Oa, nay thay bằng Âu Cơ. Khi trị nước
theo tinh thần đó thì gọi là “ Văn Lang “ hay là “ Bình Văn “ . Bao giờ cũng
nên nhớ Văn là hai nét Trời Đất giao hội. Vì thế vua gọi là Hùng Vương và truyền
18 đời.
Vì có Hùng có Dũng lắm mới ở chỗ
chí thiện là ngang dọc giao thoa, nét dọc là Càn 1, Khôn 8, cộng lại là 9, nét
ngang là Ly 3 Khảm 6, cọng lại cũng là 9: hai lần 9 vi chi là 18. Đó là cương vị
tiên thiên ( nguyên lý ) đến khi áp dụng thì dùng hậu thiên, lúc ấy sẽ là: Ly
3, Khảm 6 là 9. Chấn 4 Đoài 2 là 6, cộng 9 với 6 là 15. Vì thế mà nước Văn Lang
phải chia ra 15 bộ thì mới hợp với sách của dân Lạc gọi là Lạc Thư gồm 9 lô mà
cộng chiều nào cũng thành 15, nên gọi là Ma phương.
Khi đọc đến những tên Châu Diên (thuộc
chim) Việt Thường (vươn tới chỗ Thường hằng ), Bình Văn (cai trị bằng Văn)...
thì chớ nên tìm ở Sơn Tây, Quảng Trị. . ., đó là đợt sau mượn tên xưa để đặt
cho đất mới, để làm kỷ niệm, chứ nước Văn Lang không ở đó, đúng hơn: Không chỉ
có ở miền Bắc Việt, mà nó còn vươn lên đến bên kia bờ Dương Tử Giang, cũng như
chữ Bạch Hạc thì trước hết phải hiểu là “ Tây Nam đắc bằng của quẻ Khôn “. Tây
sắc trắng ( bạch ) Nam: Lông vũ là Hạc cũng như khi nói Lạc Việt thì phải vươn
trí khôn lên tận bờ sông Lạc vùng Lạc Dương thì mới đạt tầm thước cân xứng với
nội dung của Huyền sử.
Vì Huyền sử nước ta đã trải qua
nhiều giai đoạn được ghi theo chu kỳ tiên thiên của kinh Dịch là Nguyên, Hanh,
Lợi, Trinh được trình bày theo 4 mùa như sau:
Xuân: Nguyên
Hạ: Hanh
Thu: Lợi
Đông: Trinh
NGUYÊN:
Nguyên là thời manh nha nó hợp với
mùa Xuân. Đời nhà Tiền Lý ( 544 – 604 ) nước ta gọi là Vạn Xuân, có lẽ là để kỷ
niệm thời nguyên sơ này. Đây là thời của Hồng Bàng Thị với vật tổ chim là vật tổ
chính của Việt Nam, vì trong Nguyệt Lệnh thì phương Nam mục trùng là Vũ chỉ các
loài chim.
Loại quẻ Khôn chỉ Văn, “ Khôn vi
Văn “ ( thuyết quái ). Vì thế khi nói tới Văn Lang hay Hồng bang thì ta thường
chỉ thị bằng Chim, bằng Tiên nữ, bao gồm cả Mẹ lẫn Chim. Câu nói “ nhất điểu,
nhì xà, tam ngư, tứ tượng “ thường được giải nghĩa theo lượng, tức là vật to lớn
nhất là Chim, nhì là Rắn. . . , nhưng đó là điều không thấy xẩy ra, dầu là giống
cổ điểu Epiornis nay đã biến mất và người ta tìm được dấu vết ở Madagascar, trứng
to hơn trứng gà 150 lần. Vậy nếu căn cú vào đó mà nói to hơn con gà 150 lần,
thì cũng nặng từ 1 tấn trở lại, còn lâu lắm mới bằng con cá voi nặng cả từng chục
tấn. Cho nên câu nói trên của người Việt Nam nên hiểu theo nghĩa hon chỉ bốn
giai đoạn nước Việt Nam cổ đại đã trải qua là Điểu, Long, Ngư, Tượng. Giai đoạn
Nhất là Điểu cũng là văn minh Mẹ, nên ta thấy những cử chỉ gán cho Mẹ thì cũng
gán cho Chim, nếu Mẹ Nữ Oa đội đá vá trời thì Chim cũng đội đá vá trời, Chim
cũng ngậm hòn lấp bể. . .và nếu sâu quá lấp không xuể như sông Ngân Hà thì bắc
cầu “ Ô Thước “ .
Vậy Chim là giai đoạn hoàn toàn Mẹ,
giai đoạn của Điểu đi trước giai đoạn Rồng thuộc vật tổ thú, nên nói nhất Điểu
nhì Xà. Xà là Long, Long là giai đoạn hai, hay nói theo kinh Dịch là Hanh sau
Nguyên.
HANH
Hanh thuộc mùa Hạ khi mặt trời
phương Nam trút xuống những tia nắng chói, nên nước đặt tên là Nhật Nam, là
Xích Quỷ. Hanh là hanh thông tức thời mà Sơn Tinh và Thủy Tinh còn kết nghĩa và
Ngư Tinh chưa thành Ngư Tinh ăn thịt người nên Bắc Nam giao thông không gì ngảng
trở. Huyền sử chỉ bằng Đế Minh ( Bắc ) lấy Vụ Tiên ( Nam ), Lạc Long Quân ( Nam
) lấy Âu Cơ ( Bắc ). Lúc ấy chưa xẩy ra truyện Âu Cơ về thăm quê Tổ bị Hoàng Đế
ngảng đường.
Hoàng Đế đại biểu phương Bắc là
thuộc hành Thủy. Thủy là nơi sinh sống của Cá, nên khi nói Ngư Tinh hay Thủy tộc
thì đều chỉ văn minh Du mục phương Bắc. Như vậy nói giai đoạn Ngư là nói đến sự
ngự trị của tinh thần Du mục phương Bắc, chủ Lợi, thuộc giai đoạn Lợi đến sau
Nguyên và Hanh.
LỢI
Lợi trong chu kỳ tiên thiên kêu
là Mỹ Lợi ( quẻ Kiền ), nhưng nói đến lợi là rất dễ đâm hon lợi. Vì tư lợi nên
Hoàng Đế ngăn không cho Âu Cơ về Bắc, vì tư lợi Trọng Thủy đánh tráo vuốt rùa.
Vì thế nền văn minh phương Nam còn cầm cự được là phải có đức Dũng cùng cực gọi
là Hùng Vương, thì có nghĩa là cần phải có một tinh thần can ðảm phi thýờng, vì
thế nên tiền nhân ta nói về ngày 9 tháng 9 ( trùng cửu ) bằng câu nói “ trùng cửu
đăng cao “, thì nghĩa đen chỉ lúc cao nhất trong mùa Thu, còn ý sâu xa là chỉ
tinh thần bất khuất của Lạc Long Quân đã dám cầm khối sắt nung đỏ ( tinh thần
quẻ Ly phương Nam ) ném vào miệng Ngư Tinh: chống văn minh Du mục, để duy trì
văn hoá phương Nam. Nhờ đó mà văn hoá phương Nam vẫn còn sống được và nội dung
là sự hòa hợp Thủy, Hỏa, Mộc, Kim được giở vào một số truyện huyền sử như việc
thi gia chánh của Hùng Vương với giải thưởng dành cho đôi bánh Dầy, bánh Chưng;
cũng như trong truyện Chử Đồng Tử thôn dân kết hôn với công chúa Tiên Dung. . .
đều nói lên tính chất Dân Chủ chứ không phân giai cấp của Việt tộc, nhưng tất cả
đều hòa hợp trong một phẩm trật đẹp đẽ như chuyện Trầu Cau: Kim, Mộc và Hỏa làm
nên màu đỏ của nước Xích Quỷ.
Tuy nhiên sức người có hạn, bé tí
hon chống khổng lồ mãi cũng có ngày thua và phải đành bước vào giai đoạn “ Tam
Ngư “, tức là giai đoạn đen tối mà nhà huyền sử Tây phương nói đến là thời Cá (
Poisson ) xảy ra vào quảng vài ba thế kỷ trước công nguyên.
Cũng như giai đoạn sắp tới thuộc
cung Verseau ( xem chẳng hạn La nouvelle culture de l’ère du Verseau par M.
Constantinov. Courier du livre. Paris ) .
Vậy giai đoạn Ngư này đối với nước
ta là lúc Triệu Đà khai quốc và dọn đường cho sự ngự trị Hán học, là cái học
nhiễm óc chuyên chế . . . của văn minh Du mục Bắc phương. Hán học nối tiếp sang
cả giai đoạn bốn là Tượng.
TRINH
Là giai đoạn nước ta lấy lại được
nền độc lập chính trị để tiến vào các miền theo văn minh Tượng như Chân Lạp,
Chiêm Thành (Chàm) là những miền lắm voi. Đây là giai đoạn mở mang nước vế phía
cùng cực Nam và được tương đối độc lập về chính trị. Nhưng về van hoá thì còn nằm
hầu trọn vẹn trong tinh thần Ngư Tinh củ Hán Nho, nên đã mất ý thức về nền văn
hoá của Dân tộc, đến nỗi ngày nay không còn aoi đọc được tờ “ Bằng Khoán Cơ
Nghiệp “ Tổ tiên giối lại, bởi vì chỉ còn biết chữ Hán, mà không biết chữ Nho.
Hán Nho thì chuyên môn chỉ giải từng
chữ nên không thấy “ vi ngôn đại nghĩa “, nên cũng như cái nỏ giả của Trọng Thủy
không cứu được nước.
Chỉ có cái học theo Việt Nho nhìn
toàn diện mời đọc ra được Đại Đạo. Tuy nhiên cái Đại Đạo vẫn còn hon ẩn trong
tiềm thức Dân tộc nên đã nhiều lần cứu được nước, đến nỗi ta có thể nói không một
nước nào trong cõi Viễn Đông lại mang đậm màu sắc Kinh Dịch cho bằng Việt Nam!
Hãy nói từ Quốc Hiệu trở đi: Xích
Quỷ, Văn Lang, Giao Chỉ (Đã bàn trong lễ Vấn Danh trong Việt Lý ). Ở đây chỉ
xin nhắc lại danh hiệu Giao Chỉ là hai nét lớn “ Chỉ “Âm Dương giao hội: quẻ
Ngoại giao với quẻ Nội. Kinh Dịch có 64 quẻ là có 64 chữ Giao Chỉ khác nhau, tức
cũng 64 con dấu của Việt tộc đóng vào.
Vì đó Việt Nam đáng kêu là Văn Hiến
chi bang. Văn đây phải hiểu là nét Gấp Đôi uyên nguyên, tức là Trời Đất giao hội,
và nền văn hoá lên cao nhất là khi ở đâu không đánh mất nét Gấp Đôi ( Pli en
Deux ).
Con người ngày nay vong thân là tại
đã đánh mất ý thức về nét Gấp Đôi và sa đoạ vào cõi người ta chỉ thấy một chiều
đồng nhất. Chiều duy nhất đó “ là vụ lợi, là thành công, là lấy công “. Đấy là
sa đọa không phải là văn hiến. Văn hiến cũng đi cấy, vì thuộc nông nghiệp,
nhưng văn hiến nói rằng:
“ Người ta đi cấy lấy công
“ Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề . . . “
Tôi đi cấy cũng lấy công, nhưng
công mới chỉ là một, còn ba bề nữa là Trời, Đất, Người, mà để đạt được phải có
Tâm, nên mới nói:
“ Chữ Tâm kia mới bằng ba
chữ Tài “
Với chữ Tài, chữ Lợi, chữ Lấy
Công thì chỉ cần Lý Trí. Còn thành Nhân thì phải kiêm cả đạo Trời đạo Đất như
hai hạn từ nòng cốt làm nên con Người viên mãn như thập tự nhai là thứ cũng tỏa
ra nhiều bề: Cả Đông,Tây, Nam, Bắc, nghĩa là thần, vì thần vô phương, nên không
đâu không ở, rất linh nghiệm, nên người nào cảm nghiệm được thì hy hiến toàn
thân cho Văn đó, nên gọi là Văn hiến. Và nước có nhiều văn hiến thì gọi là “
văn hiến chi bang “.
Ở thời xa xưa dưới những triều đại
của hùng Vương có bóng dịu hiền của mẹ Âu Cơ thì Việt Nam đã có nhiều văn hiến,
nen cũng đáng tên là “ văn hiến chi bang “. Đến nay những nhà Duy Sử đang cố phủ
định nước Văn Lang, bởi chưng : “ người ta đi học lấy công. Chúng ta nay đi học
cũng trông kiếm tiền “.
Vì đã hết rồi cái học ” Trông Trời
trông Đất trông mây “. Cái học biến – thông của Lạc Thư, sách gối đầu giường của
tiên Tổ Lạc Việt, nhưng đến nay hỏi còn được mấy ai biết ý nghĩa ra sao nữa?
Huyền sử nói : “ Vì giếng bị bỏ
hoang bẩn thỉu “ ( Xem truyện Việt tỉnh ). Truyện kể về Thôi Vũ được Ma Cô Tiên
đền ơn đã chuộc tội, nên Tiên cho hạt ngọc Long Toại, nói đó là ngọc châu từ
thuở Trời Đất mới khai tịch đã có một cặp Trống Mái, từ đời Hoàng Đế trải đến đời
Ân, truyền làm thế bảo. Trong trận đánh Trâu Sơn, Ân Vương bị Phù Đổng Thiên
Vương giết nên đeo nó mà chết, ngọc châu cũng hon trong đất mà tia sáng chiếu
thẳng lên trời . Đời nhà Tần binh hoả liên miên những vật trân bảo đều bị đốt
cháy, các nhà vọng khí đều biết hòn ngọc còn ở phương Nam. Người Tàu đem vàng bạc
gấm vóc châu báu trị giá trăm vạn để tìm mua. Thôi Vĩ nhân đây đại phú. Sau Ma
Cô Tiên rước vợ chồng Thôi Vĩ đi, không biết đi đâu. Nay giếng bỏ hoang bẩn thỉu,
hang thì còn ở núi Trâu Sơn. Người Việt gọi là Việt Tỉnh Cương” ( Lĩnh Nam ).
Đọc truyện trên chúng ta được chứng
kiến một trang huyền sử tuyệt đẹp: Thôi là lớn lao nhưng tự dang gợi nên cái gì
tế vi, nên Thôi Vỹ có nghĩa là người biết đặt quan trọng vào cái tế vi, cái “
vi ngôn đại nghĩa “, mà vi ngôn đại nghĩa lớn nhất là Âm Dương hòa kết thành
Thái cực viên đồ đã xuất hiện từ khi Trời Đất khai tịch, đã có một cặp Trống
Mái gọi là Long Toại.
Chữ Toại có nghĩa là khoan cây lấy
lửa, nhắc lại thời Toại Nhân , phát minh ra lửa. Còn Long là thuộc về Lạc Long
Quân, vua Viêm tộc. Nhưng đến lúc Hoàng Đế vào xâm lăng thì chiếm luôn cả Kinh
Dịch truyền cho đến đới Ân. Nhà Ân nửa trước kêu là nhà Thương là một nhà thấm
nhuần văn hoá nông nghiệp cao độ nhất, nên huyền sử nói về vua Thành Thang có bệnh
tê hết nửa mình “ Thang bán thể khô “ ( Dances 55 ).
Trong danh từ huyền sử thì câu đó
có nghĩa là đã “ thể nghiệm được đạo Âm Dương Dịch lý “, nên có Lưỡng Nghi tính
vừa thích nghi với vòng ngoài thế sự, vừa thích nghi với vòng trong Đại Ngã Tâm
Linh, nên nói hon là bán thân bất toại, mà thực nghĩa là nhà Thương Ân đã trở
nên cùng dòng với nền văn hoá Viêm tộc ( xem Việt Điện trang 57)
Nhà Thương bị nhà Chu diệt, thì
ngọc Long Toại cũng bị hon vùi nhưng hon vùi bên phương Nam, mà nước tiêu biểu
nhất là Việt Nam. Còn bên kia thì mất, về sau có người tên là Khổng Tử dòng tộc
nhà Thương Ân nước Tống cứu vớt được một phần đạo lý ghi lại trong Kinh Điển.
Vì thế tuy sống bở Bắc nhưng lòng Khổng Tử vẫn hướng về phương Nam, lấy làm nơi
an trụ: “ Nam phương chi cường dã quân tử cư chi “ ( T.D ). “ Nam phương chi cường
“ cũng gọi là Hùng Vương. Và vua nhà Ân đã chết hon ở đất Việt cũng như ngọc
Long Toại cũng nằm trên đất vua Hùng thứ ba.. Nghĩa là trọn vẹn đạo Dịch gồm
Tam Tài và Ngũ Hành: 3 lần 5 là 15 thuộc nước Văn Lang.
Người Tàu cũng phải công nhận y
như Khổng Tử. Khổng Tử nói kiểu Minh Triết, còn huyền sử nói kiểu u linh rằng:
“ Các nhà vọng khí đều biết hòn ngọc Long Toại ở phương Nam. Thế là “ vật
bất ly chủ “. Chủ nó là Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa, rồi bị Hoàng Đế chiếm lấy
trao cho đến Ân Vương, vì Ân Vương cảm hoá được nên dẫn thân sang hon táng ở
bên đất Việt, y như Trọng Thủy lại trở về phương Nam ôm xác Mỵ Châu và nhảy xuống
Việt Tỉnh, cũng một trường hợp như chim Loan của Hoàng Đế đập cánh mà chết. Tất
cả đều nói lên câu nói của khổng Tử: “ Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi
“. Thế có nghĩa là chủ sách Kinh Dịch là Việt Nam.
Cái phiền duy nhất là “ giếng bỏ
hoang thành bẩn thỉu “.
Trong khi đọc chuyện Việt Tỉnh có
một điều lạ là trong truyện không nói đến giếng mà đến cuối truyện lại thêm một
câu “nay giếng bỏ hoang “. Giếng nào?
Không tìm ra trong truyện Việt Tỉnh
cương ( Truyện XII ), nhưng khi đọc xuống truyện Kim Quy thì mới nhận ra câu trả
lời là “ xác Mỵ Châu hoá thành giếng ngọc “. Việt Tỉnh cương với giếng ngọc là
một. Và nó là chi khác hơn là khung của Lạc thư. Vì Lạc Thư thành hình quanh chữ
Tỉnh cho nên nói Việt Tỉnh chỉ là nói lối khác của “ Lạc Thư là sách của Lạc Việt
đã được gợi hứng trên bờ sông Lạc, nên gọi là Lạc Thư “ .
Nhiều người không dám nhận ra Lạc
Thư là của Lạc Việt, vì chữ Lạc viết với bộ Trãi, hoặc Mã, hoặc Chuy. ( 豸, 馬, 隹 )
Chữ Lạc có 3 cách viết: 貉: 駱: 雒. Mà không với bộ thủy : 洛.
Nghĩ như vậy là không suy tư theo
dòng biến chuyển ( génétique ) tức là dòng Nam tiến liên tục, vì có cuộc Nam tiến
nên tiếng Việt từ bộ Mễ chuyển sang bộ Tẩu ( 粵 → 越 ) thì Lạc Thư từ bộ thủy phương Bắc đổi sang bộ mã
phương Nam ( quẻ Khôn là tẫn Mã , thay được bằng bộ Trãi ) hay bộ Trĩ ( quẻ Ly
phương Nam chim Trĩ ) là truyện thường trong lối viết chữ Nho.
Thí dụ như chữ Trâu chỉ miền Khổng
Tử có 4 lối viết ( xem Legge I. 59 ) cũng có thể nghĩ rằng lúc ấy phương Bắc đã
hoàn toàn rơi vào tinh thần Du mục, ngư đã đốc ra Ngư Tinh nên Lạc Long Quân phải
giết, thì cũng là lúc bỏ chữ lạc – thủy đổi ra lạc chim, từ 洛 biến
sang 雒.
Cái lối đổi bộ trong chữ viết là
truyện đã xẩy ra nhiều lần mỗi khi sửa đổi văn tự nhất là đời nhà Tần là đời
hon tang chữ viết của Việt Nam. Đấy cũng là một lối làm cho việc đọc huyền sử
khó thêm lên một độ. Tuy nhiên khi biết qua tiểu tiết mà đọc cả kinh điển lẫn
huyền sử thì câu nói chủ quyền của Việt Nam đối với Kinh Dịch có nhiều bằng cớ
và chứng tích . Điều quan trọng nhất là nếu nhận làm chủ thì phải biết cách đọc
theo chính chủ. Đó là điểm chúng ta sẽ bàn trong chương sau ( hai lối đọc Dịch
).
Cần thêm mấy nhận xét cuối cùng về
tên sách Dịch. Hiện nay Hán Nho quen gọi là Chu Dịch để chỉ Dịch của nhà Chu,
vì trước đó đã có hai tên khác là Liên Sơn của nhà hạ ( 2205 – 1776 ) vì bắt đầu
với quẻ Cấn là núi và Quy Tàng của nhà Thương Ân ( 1776 – 1150 ) bắt đầu với quẻ
Khôn.
Nhà Hạ thỉ rõ ràng thuộc văn hoá
Việt tộc ( xem Việt lý ) nên nói Dịch Liên Sơn của nhà Hạ cũng là nói của Việt
tộc. Còn nhà Thương Ân thì đã cảm hoá theo Việt Nho hầu trọn vẹn nên huyền sử
nói Ân Vương bị chết hon cùng với ngọc Long Toại bên đất Việt, có lẽ vì bị hon
như thế nên gọi Dịch nhà Thương là Quy Tàng.
Xét về huyền sử nước ta được chia
ra ba giai đoạn là Thái Sơn, Ngũ lĩnh và Phong Châu. Thái Sơn thuộc thời Tam
Hoàng trong đó ông Tổ Việt tộc là Thần Nông cũng có hiệu là Liệt Sơn cùng với
Thái Sơn là một.
Thái Sơn ở tỉnh Sơn Đông giáp với
tỉnh An Huy, nơi khởi xuất của núi Ngũ Lĩnh, nên từ Thái Sơn sang Ngũ Lĩnh liền
nhau nên có thể vì đó mà gọi là Liên Sơn, vì đó là dãy núi rất dài khởi từ An
Huy mà chạy qua tỉnh Chiết Giang, Giang Tây Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng
Tây, Quý Châu. Rồi đến giai đoạn Phong Châu tận cùng bằng câu truyện Việt tỉnh
nơi tang ẩn xác Trọng Thủy với Mỵ Châu, nên gọi là Quy Tàng.
Hoặc vì Phong Châu là miền Nam nhất
trên con đường Nam tiến của Việt tộc mà phương Nam là quẻ Khôn, mà tại quẻ Khôn
là tang trữ nên gọi là Quy Tàng. Đàng nào cũng hợp lý và đều nói lên chủ của
kinh Dịch là Viêm Việt, còn Hán tộc chỉ là mượn lại mà thôi, và vì không phải
là chủ nên đọc Dịch không đúng cách. “
(Nếu muốn đọc Dịch theo Việt Nho,
xin xem tiếp chương “Hai lối đọc Dịch“ tiếp theo trong Dịch Kinh Linh Thể )
( Nhân Hậu trích dẫn sách Kim Định
)
LỜI NGƯỜI SƯU TẬP
Thế hệ học giả Kim Định đã dày
công nghiên cứu nhằm đánh đổ thành kiến rằng văn hóa Việt chỉ mô phỏng theo văn
hóa Tàu.
Công cuộc khảo cứu chứng minh bản
sắc, nguồn gốc văn minh – văn hóa Việt có chút thành tựu căn bản thì lâm họa mất
nước vào tay bọn giặc cờ đỏ họ giả hồ.
Ngày nay bọn “ hồ tinh chín đuôi
“ đang mưu toan xóa nhòa Lịch sử Việt, dọn đường cho bọn Tàu bành trướng thu nhập,
đồng hóa dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, công cuộc tranh đấu
đánh đổ chế dộ toàn trị việt cọng không chỉ đơn thuần là về thể chế chánh trị
mà trên hết và trước hết là đánh đuổi bọn việt gian phản quốc để cứu dân, cứu
nước khỏi lâm họa mất nước – diệt tộc.
* Nguyễn Nhơn
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire