Từ đầu thập niên 2000, Việt Nam rộn lên về việc Trung Cộng lấn chiếm biên giới, biển đảo và người Tàu tràn vào Việt Nam lập thành làng qua những gói thầu quan trọng thuộc các lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế trên khắp nước.
Trong cùng thời gian đó, cùng với những bài viết phê phán,
lên án chính quyền nhu nhược, hèn yếu trước sự xâm lấn của Trung Quốc của các ông
Hà Sĩ Phu, Hà Văn Thịnh, Bùi Minh Quốc và các ông tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng
sĩ Nguyên, năm 2013 chúng ta thấy xuất hiện tác phẩm Đứng Vững Ngàn Năm của nhà
nghiên cứu Ngô Nhân Dụng. Đây là một công trình tập đại thành đầu tiên để trả lời
câu hỏi: Nhờ đâu nước Việt vẫn còn sau ngàn năm Bắc thuộc? Với nội dung đó, sự
xuất hiện của Đứng Vững Ngàn Năm có giá trị như một tiếng nói trấn an dân Việt
về chuyện mất nước.
Giữa năm 2022, chúng tôi rất vui khi biết Đứng Vững Ngàn
Năm được tái bản. Từ niềm vui đó, chúng tôi đọc lại Đứng Vững Ngàn Năm và viết
bài này để ghi lại một số cảm nghĩ qua mấy phần sau:
I.
Về tổng quát
A. Trung Hoa
Với Trung Hoa, ông Dụng cho chúng ta biết:
1. Mục tiêu bành trướng của Trung Hoa đối với phương Nam
- Người Hán gọi trung tâm văn minh của họ là Hoa Hạ (sáng
và đẹp). Còn các sắc dân chung quanh chưa văn minh bị gọi là Di (mọi rợ). Từ đó
họ coi việc đồng hóa các sắc dân khác là một sứ mạng tự nhiên, và đã dùng văn minh Hoa Hạ thay đổi các
giống dân man di, chiếm đất và đồng hóa những sắc dân ở phía tây và nam Trung
hoa.
- Lịch sử Trung Quốc không phải là lịch sử của một dân tộc,
một quốc gia. Đó là lịch sử của hiện tượng bành trướng của một nền văn minh có
sức sống mãnh liệt. Trung Quốc không phải là một nước mà là một tập hợp lớn, một
thế giới Trung Hoa. Các hoàng đế Trung Quốc bành trướng lãnh thổ, chinh phục các
sắc dân khác, theo cách nhìn thời nay thì họ đã thành lập đế quốc. Với khái niệm
thiên hạ, họ có thể che đạy, hóa trang đế quốc của họ dưới một hình ảnh khác, dựa
trên tư tưởng truyền thống của người Hán, cũng không khác gì chiêu bài
"khai hóa văn minh" của các đế quốc phương Tây khi đi chinh phục thế
giới.
2. Chính sách bành trướng
Để thực hiện việc bành trướng, người Hán đã sử dụng chính
sách quân sự đi trước và văn hóa theo sau: Trước hết là dùng vũ lực chiếm thành,
cướp đất, đặt quan cai trị, bắt dân phục dịch và thu cống phẩm. Họ biết chinh
phục bằng quân sự là điều kiện cần, nhưng không đủ để đồng hóa các sắc dân khác.
Để đồng hóa các sắc dân bị trị phải có sức mạnh văn hóa. Từ việc chinh phục đất
đai tiến tới đồng hóa các sắc dân phải qua nhiều thế kỷ. Người Hán không đồng hóa
các giống dân khác bằng tôn giáo như người Ả Rập hay người châu Âu khi sang chiếm
châu Mỹ. Họ đã đồng hóa bằng nền nếp văn minh Hoa Hạ với hai khí cụ hữu hiệu:
thứ nhất là chữ viết và thứ nhì là cách tổ chức xã hội, chính quyền với quy tắc
luân lý Khổng Mạnh phổ quát dễ truyền dạy. Người Hán đã sáng chế ra chữ viết rất
sớm. Nhờ chính sách của Tần Thủy Hoàng bắt dân bốn phương phải viết cùng một lối
như nhau dù tiếng nói khác nhau, cho nên việc kiểm soát một đế quốc rộng lớn trở
thành dễ dàng. Còn hệ thống chính trị của người Hán có 2 ưu điểm: Một là tổ chức
hành chánh, quân sự, trên có vua với triều đình, quan lại, theo những nguyên tắc
dùng từ nhiều đời, được một tầng lớp sĩ thực hiện. Hai là nền nếp trật tự xã hội
dựa trên lễ nghĩa Khổng Mạnh, có thể áp dụng cho bất cứ sắc tộc nào.
Đạo Khổng Mạnh không đề cao chủng tộc Hán mà chỉ phân biệt
trình độ văn minh của các sắc dân. Tiêu chuẩn để phân biệt là những quy tắc lễ
nghi. Tư tưởng Khổng Mạnh có tính chất nhân bản và phổ quát. Chủng tộc nào cũng
có thể thực hiện. Tính chất nhân bản đó mang sức hấp dẫn đối với các giống dân
khác. Các triều đại nhà Hán, nhà Đường đã dùng đạo Khổng Mạnh để biện minh cho
công trình khai hóa của họ khi xâm chiếm các nước chung quanh. Trong 400 năm,
nhà Hán cai trị Trung Quốc đã bành trướng lãnh thổ lên gấp ba lần, và sau đó
hơn 1000 năm thì những giống dân phía nam Trường Giang không còn phân biệt là
người Sở, người Ngô, người Mân, người Việt nữa mà đã coi mình là người Trung
Hoa.
3. Một ngoại lệ
Người Hán đã thành công trong việc thống nhất đế quốc
Trung Hoa qua một quá trình đồng hóa
"tầm ăn dâu", chậm chắc và bền bỉ. Nhưng khi xuống đến miền sông Hồng,
sông Mã thì người Hán bị khựng lại, vì dân Lạc Việt ở đó đã đề kháng đến cùng và
người Hán đã thất bại. Khi nhìn vào quá trình Hán hóa cả vùng đất mênh mông này
trong cùng thời gian nước Lạc Việt đô hộ thì mới thấy một nước Lạc Việt còn đứng
độc lập là một hiện tượng nổi bật trên bức tranh toàn cảnh đó. Từ đó câu hỏi được
đặt ra là những nhân tố nào đã giúp giống Lạc Việt thoát khỏi bàn tay của người
Hán?
B. Lạc Việt
Để trả lời câu hỏi trên, ông Dụng cho biết một số nhân tố:
1. Văn minh Lạc Việt
Yếu tố quan trọng nhất giúp tổ tiên người Việt không bị Hán
hóa có lẽ là trước khi người Hán tới, dân Lạc Việt đã có một nền nếp tốt đẹp
trong đời sống chung, gọi là văn minh. Tổ tiên chúng ta đã có bản sắc văn hóa đủ
vững chắc nhiều đời trước khi bị chiếm đóng, đô hộ. Nhờ thế người Việt không bị
hấp dẫn, không bị lôi cuốn vào nếp sống của người Hán.
Nếu coi nước Văn Lang đã thành hình từ thời Hùng Vương,
sau được mở rộng khi kết hợp vói dân Âu Việt thì có thể ghi thời gian khai sinh
dân tộc Việt cùng tuổi với nền văn hóa Đông Sơn, bảy thế kỷ trước Công nguyên.
Còn cái nôi của dân Lạc Việt lúc khai sinh thì sử gia Trần Quốc Vượng đã xác định
là "Trung tâm chính trị của thời Hùng
Vương là Mê Linh, cũng tức Phong Châu, gồm một miền đất rộng bên bờ sông Hồng,
từ núi Ba Vì đến vùng Tam Đảo". Tìm lại nơi khai sinh của dân Việt, sử gia
Đinh Văn Nhật, trong tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, đã trình bày nhiều công tình
nghiên cứu về đất Mê Linh vào thời Hai Bà Trưng, cho thấy nơi đây đã có một xã
hội có tổ chức từ 2000 năm trước. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng, của
Phùng Hưng và Ngô Quyền sau này. Có thể coi là những vị anh hùng gốc từ miền đất
tổ đó vẫn giữ được truyền thống dân tộc liên tục trong 1000 năm, nối từ nước
Văn Lang cho tới khi Đinh Bộ Lĩnh thành lập nước Đại Cồ Việt.
Có nhiều bằng chứng cho thấy trình độ văn minh của người
Lạc Việt đã khá cao từ trước thời Bắc thuộc rất lâu. Những dấu tích đào được về thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên
(2000 đến 1500 TCN) cho thấy dân vùng châu thổ sông Hồng Hà đã làm đồ gốm với
kiểu khác hẳn đồ gốm sông Hoàng Hà. Nền văn hóa Đông Sơn (Thế kỷ thứ 7 TCN đến
thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên) phát triển đặc biệt trong địa giới nước ta với
những trống đồng biểu tượng cho quyền hành, chứng tỏ các tổ chức chính trị và tôn
giáo đã thành hình năm, bảy thế kỷ trước khi người Hán tới. Nghề đúc đồng ở Lạc
Việt thời Hùng Vương đã phát triển cao hơn ở Trung Quốc, vì thế năm 43, khi Mã
Viện thắng trận đã báo cáo lên vua Hán việc tịch thu các trống đồng, nấu ra để
đúc thành ngựa đồng. Mã Viện còn báo cáo dân Việt có "hơn 10 điều Việt luật
khác với Hán luật". Người Hán ghi nhận dân Lạc Việt đã biết trồng hai mùa
lúa mỗi năm, trước dân miền Hoa Nam.
2. Đời sống tâm linh
Trong 1000 năm Bắc thuộc, những tín ngưỡng cổ truyền đã
giúp bảo tồn một hồn tính dân tộc và nuôi dương tinh thần tự tin và tự hào về truyền thống tâm linh sẵn có từ lâu đời. Các
vị thánh mà người Việt thờ phượng trước khi người Hán tới và trong hàng ngàn
năm đã biến thành những vị thần hộ quốc, nuôi dưỡng óc đề kháng. Đạo Phật tới
nước ta bằng đường biển trước khi vào miền nam Trung Quốc. Trong một ngàn năm Bắc
thuộc, đạo Phật đã phát triển về tín ngưỡng, tổ chức và tư tưởng. Dân tộc Việt
Nam có thể tự hào là đã có một nền văn minh tinh thần không thua kém gì hệ thống
luân lý Khổng Mạnh mà quan lại Trung hoa mang tới. Không những thế, chùa chiền
còn trở thành môi trường đào tạo lớp người
có học trong xã hội Việt nam, với một lớp người biết chữ bên ngoài và biệt lập
với hệ thống giáo dục do quan lại Hán lập ra. Chính những người này sẽ góp phần
lãnh đạo trong các cuộc vận động khởi nghĩa cũng như trong việc quản trị việc
quốc gia mỗi lần dân Việt giành được quyền tự chủ.
3. Giữ tiếng nói
Hầu hết các sử gia coi ngôn ngữ là yếu tố quan trọng hàng
đầu bảo vệ dân tộc Việt. Tiếng nói nói kết mọi người với nhau, gây nên ý thức mình
thuộc một dân tộc. Tiếng nói là một sợi dây nối kết không khác gì tình máu mủ
ruột thịt. Tiếng nói tạo ra một đường ranh giới phân biệt - Chúng ta khác với
chúng nó. Chúng ta có thể tin rằng ngôn ngữ là một thành trì bảo vệ một dân tộc
thoát khỏi nạn bị đồng hóa và giữ được độc lập.
Tiếng nói cũng là một động cơ thúc đẩy người ta thương yêu và đoàn kết. Dùng tiếng
mẹ đẻ thì đồng thời tạo và nâng cao ý thức dân tộc. Tiếng việt Nam được tạo thành,
rèn giũa và bồi đắp trong hàng chục ngàn năm là một nền tảng tạo nên sức đề kháng
chắc và bền của dân tộc Việt. Nhờ giữ được tiếng nói riêng nên dân tộc Việt Nam
vẫn tồn tại sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
4. Địa dư và thủy thổ yểm trợ
Địa dư và thủy thổ đã yểm trợ Lạc Việt hai mặt:
Thứ nhất - So sánh với các sắc dân ở Hồ Nam, Lưỡng Quảng,
Vân Nam, Phúc Kiến, Lạc Việt đã may mắn sống rất xa trung tâm thống trị của người
Hán. Được núi non ngăn cách che chở, đất Giao Châu không chịu những áp lực về dân
số của những đợt di dân như Lưỡng Quảng. Người Việt sống trong môi trường và hoàn
cảnh khác dân các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Dân Việt tương đối thuần nhất hơn,
địa bàn sống vừa nhỏ, chung quanh núi rừng cùng biển cả ngăn cách và bảo vệ.
Trong một ngàn năm Bắc thuộc, có nhiều thời kỳ người Việt được sống tách riêng
ra khỏi đế quốc Trung Hoa. Từ đó, ý thức dân tộc của người Việt có đủ không
gian và thời gian để phát sinh và nuôi dưỡng. Và nhờ địa giới thiên nhiên vạch
ra một vùng đất riêng có thể gọi là "nước ta".
Thứ nhì - Ngoài núi non che chở, dân Việt còn sống ở một
vùng khí hậu, thủy thổ không thích hợp với người Hán phương bắc. Khí hậu, thủy
thổ có thể là một "thần linh phù trợ" dân tộc Việt trong quá trình đề
kháng. Vì những người gốc Hán từ phương Bắc, những quan cai trị và lính viễn
chinh, quen phong thổ miền khô, khí hậu lạnh lẽo. Họ không chịu được thủy thổ đất
Giao Châu nóng va ẩm, các vi sinh vật sinh sôi mau chóng, gây nên nhiều thứ bệnh
tật cho quân lính phương Bắc. Trong lịch sử, địa dư, thủy thổ, khí hậu đã giúp
dân Việt bảo vệ nền tự chủ. Sau này trong đời Lý, một đạo quân nhà Tống 100 ngàn
với 200 ngàn dân phu, sang tấn công nước ta năm 1077. Họ đã thất bại, một phần
vì không quen thủy thổ. Tống Thần Tông phải rút quân và bỏ luôn giấc mộng xâm
lăng, sau khi được các tướng báo cáo: Vì nóng nực, lam chướng, quân và dân phu
đã mất quá nửa, non một nửa còn lại thì đều bị bệnh".
5. Mạng lưới làng xã
Ngoài những nhân tố xã hội, văn hóa và kinh tế đã tạo nên
sức mạnh của dân Việt, sức mạnh đó còn nằm trong một mạng lưới xã hội là thôn làng
(người), với căn bản kinh tế phong phú (đất) và trong những tín ngưỡng (thần).
Làng xã Việt Nam không phải chỉ là một tổ chức hành chánh mà còn là một mạng lưới
các tổ chức xã hội, văn hóa, kinh tế. Đối với các quan cai trị thời Bắc thuộc cũng
như thời Pháp thuộc, mạng lưới này gần như vô hình, vượt trên khả năng kiểm soát
của họ.
Tóm lại, nước ta vẫn tồn tại sau 1000 năm Bắc thuộc nhờ
những nhân tố chủ quan như tiếng nói, chủng tộc, phong tục, tín ngưỡng, tinh thần
bất khuất, ý thức dân tộc, ý chí tự chủ... và những nhân tố khách quan như địa
dư, khí hậu thủy thổ và mạng lưới làng xã... Con người lập làng xã, đất cung cấp
tài nguyên phong phú, thần Phật tạo thành nền văn hóa vững vàng. Nhưng để tiến
tới độc lập, yếu tố quyết định vẫn ý chí vững chắc, một cái nghị lực riêng muốn
sống như một dân tộc, chứ không chịu sát nhập vào đế quốc Trung Hoa.
II. Về ưu điểm
Đứng Vững Ngàn Năm có những ưu điểm sau:
1. Đây là một công trình tập đại thành đầu tiên để trả lời
câu hỏi: Nhờ đâu nước Việt vẫn còn sau một ngàn năm Bắc thuộc? Hầu hết những cuốn
sử Việt Nam đều đề cập việc này, nhưng mỗi tác giả chỉ nêu lên một hai yếu tố.
Chẳng hạn sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược thì nhận định là người
Giao Châu có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng. Sử gia Lê Thành Khôi
trong Histoire du Viet Nam, giải thích hiện tượng người Việt bảo tồn được tiếng
nói là một sức mạnh đề kháng bền bỉ nhất. Sử gia Keith Taylor trong cuốn The Birth
of Viet Nam, đồng ý về yếu tố ngôn ngữ và ghi nhận thêm sự phát triển của Phật
Giáo vào thời Bắc thuộc là một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự hình hành nước
Việt Nam. Sử gia Lê Mạnh Hùng trong cuốn Nhìn Lại Sử Việt tập I, nêu thêm các yếu
tố kinh tế và xã hội. Những sử gia trên khi viết về vấn đề này chỉ dùng một hai
trang hay một chương. Còn ông Ngô Nhân Dụng đã xét vấn đề bằng cả một cuốn sách
dày ngót 500 trang với 32 chương, mỗi chương đề cập đến một nhân tố. Vừa tổng hợp
vừa kiến giải những nhân tố bằng nhiều dẫn chứng giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề.
2. Khi ghi lại những nhân tố góp phần vào sự tồn tại của
Việt Nam, ông Dụng đã tìm hiểu ngọn ngành mỗi nhân tố bằng kiến thức uyên bác về
nhân chủng, xã hội, ngôn ngữ và lịch sử và làm sáng tỏ bằng những dẫn chứng đã
xảy ra trên thế giới, nhiều chỗ người đọc có thể ngộp thở với những thí dụ dẫn
giải của ông. Vì thế đi vào tìm hiểu những nhân tố giúp Việt Nam tồn tại, chúng
ta cũng học được nhiều vấn đề lịch sử, xã hội, chính trị trên thế giới. Chẳng hạn
khi nghiên cứu về sự tồn tại của tiếng Việt, ông Dụng đã cho ta biết tiếng Việt do nhiều tầng ngôn ngữ kết hợp. Và nền tảng của
tiếng Việt đã thành hình trong mấy ngàn năm trước công nguyên, trước khi tiếp xúc
với ngôn ngữ và chữ viết của người Hán. Vì thế sau một ngàn năm bị Trung Hoa đô
hộ, tổ tiên chúng ta vẫn giữ được tiếng nói. Và trong việc mất, còn tiếng nói này,
ông Dụng đã dẫn chúng ta vào ba tấm gương của ba dân tộc.
Thứ nhất là gương của người Mãn Châu:
Người Mãn thuộc giống Mông Cổ, có tiếng nói và chữ viết
riêng. Họ rất giỏi chiến trận, đã nhiều lần xâm lấn và cai trị phần phía Bắc
Trung Hoa, và lần sau cùng vào thế kỷ 17 đã chiếm cả nước Tàu. Trong 3 thế kỷ
cai trị Trung hoa, các ông hoàng chỉ được kết hôn với các cô con gái Mãn để bảo
đảm Hoàng gia vẫn giữ một chủng tộc thuần nhất. Vậy mà ông vua cuối cùng là Phổ
Nghi đã không còn nói thông thạo tiếng Mẹ. Khi nhà Mãn Thanh sụp đổ năm 1911, ở
Mãn Châu còn hàng chục triệu người nói tiếng Mãn, nhưng đến năm 2011 thế hệ những
người nói tiếng Mãn đã chết dần. Tuần báo Economist viết phóng sự kể lại làng
Sanjiazi, vào năm 1979 còn 50 người nói được tiếng Mãn, đến năm 2011 chỉ còn 2
người nói thông thạo, cả hai đều 86 tuổi. Không giữ được tiếng nói thì mất nước.
Thứ nhì là gương Israel
Nước Israel đã nêu một tấm gương nổi bật cho thấy vai trò
của ngôn ngữ. Khi dân Do Thái khắp Âu châu quay về Palestine tái lập quốc gia
Israel, những người nói tiếng Iddish và đủ thứ tiếng ở Đông Âu đã quyết định chỉ
sử dụng tiếng Hebrew. Đó là ngôn ngữ cổ Do Thái, chỉ dùng trong kinh thánh và
chỉ học giả mới dùng. Tiếng Hebrew coi như đã chết đã được vực dậy hà hơi cho tái
sinh. Kết quả là tiếng Hebrew đã sống lại, những nhà ngôn ngữ học Do Thái đã sáng
tạo ra nhiều từ ngữ mới và những nhà văn viết chữ Hebrew đã đoạt giải Nobel văn
chương.
Thứ ba là gương dân tộc Phần Lan
Dân tộc Phần Lan rất nhỏ, nằm giữa hai đế quốc mạnh là Thụy
Điển và Nga. Người Phần Lan sống ở phía bắc biển Baltic, nói một ngôn ngữ khác
tiếng nói của hai nước láng giềng thuộc họ Ấn Âu. Dân tộc Phần Lan bị hai đế quốc
láng giềng thay phiên nhau thống trị trong gần 1000 năm, không khác gì người Việt
Nam bị Trung Hoa đô hộ.
Khi đế quốc hợp nhất Đan Mạch - Thụy Điển đô hộ Phần Lan
từ thế kỷ 13, tiếng Thụy Điển được tôn lên làm ngôn ngữ chính thức. Khi Thụy Điển
phải nhường Phần Lan cho Nga hoàng thì Phần Lan phải chịu một cuộc tấn công văn
hóa khác với chiến dịch Nga hóa kéo dài trong mấy thế kỷ. Năm 1900, Nga Hoàng
ra lệnh dân Phần Lan phải dùng tiếng Nga trong mọi giao dịch với guồng máy hành
chánh. Nhưng trong thời gian 7 thế kỷ này, nông dân Phần Lan sống xa cách hệ thống
cai trị vẫn chỉ nói tiếng mẹ đẻ. Những người Phần Lan sống ở thành thị cũng ý
thức, học tiếng nói của tổ tiên. Khi phong trào dân tộc bùng lên, giới trí thức
thành phố đã về nông thôn để học lại tiếng mẹ. Phong trào về nguồn này đã đưa tới
cuộc vận động đòi độc lập và Phần Lan đã giành được độc lập. Hiện nay phần Lan
có 6 triệu dân, trong đó nhiều người gốc Thụy Điển vẫn nói tiếng của họ. Giữa
thế kỷ 18 dân số Phần Lan là 428.000 người. Như vậy thì khi bị Thụy Điển chiếm
đóng từ 5 thế kỷ trước, dân số Phần Lan thấp hơn nhiều. Với dân số nhỏ như thế
mà dân tộc Phần Lan vẫn giữ được tiếng nói và giữ được một quốc gia đến bây giờ.
Đó là một kỳ công.
Cũng như việc dẫn giải về chuyện tiếng nói, ở những nhân
tố khác ông Dụng cũng dẫn ta đi vào nhiều thí dụ trên thế giới. Bây giờ trở lại
nói về ưu điểm của tập sách.
3. Ưu điểm thứ ba là ông Dụng đã cho thấy sức mạnh của
văn hóa lạc Việt
Vị trí của nước ta ở ngã ba châu Á, giữa Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương, giúp cho dân Việt tiếp nhận nhiều nguồn văn hóa trước khi gặp
người Hán, vì thế có bản sắc vững chắc và bền bỉ đủ để tự vệ. Dân Lạc Việt đã
giữ được một bản sắc lưu truyền từ nhiều đời trước, thể hiện qua phong tục tập
quán, tín ngưỡng mà người Việt chia sẻ với nhiều sắc dân Đông Nam Á. Sau đó lại
được nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa Ấn Độ, trước khi tiếp xúc, học hỏi nền
văn minh Hoa Hạ. Do đó nền tảng văn hóa càng vững chắc hơn.
Với Phật Giáo, dân Lạc Việt được trang bị thêm một tôn giáo
với đủ nghi thức thực hành và một tư tưởng có bề sâu và có tầm vóc quốc tế. Nhờ
thế người Việt nuôi dưỡng lòng tự tin, tự
hào, khi đi vào làn sóng văn hóa của nhà Hán, nhà Đường. Một điều may mắn là tự
bản chất Phật Giáo không phân biệt, kỳ thị các tín ngưỡng hay trào lưu tư tưởng
khác. Từ đó, dựa trên tính chất này, người Việt đã sẵn sàng đón nhận thêm hoa
trái của nền văn minh Hán tộc. Khả năng hấp thụ, tổng hợp, dung hóa các trào
lưu tư tưởng và tôn giáo làm phong phú văn hóa Việt, giúp người Việt đạt được một
nếp sống ôn nhu, bao dung, một tiềm lực mạnh. Tính chất sống này có thể giải thích
điều mà sử gia Trần Trọng Kim nhận định là người Giao Châu có một cái nghị lực
riêng và cái tính chất riêng. Sức mạnh văn hóa của người Việt đã được biểu hiện
cụ thể hơn là trong cả ngàn năm bị người Hán thống trị, nhưng đất việt đã Việt
hóa được nhiều thế hệ người Tàu xuống Lạc Việt. Trong lịch sử hơn ngàn năm bị đô
hộ, một hiện tượng đáng kể là những lớp sóng di dân từ lục địa Trung Hoa xuống
Lạc Việt sau nhiều thế kỷ đã hội nhập vào cuộc sống của dân Việt. Họ trở thành
người Việt và đã đóng góp vào quá trình xây dựng ý chí tự chủ của dân Việt. Sử
gia Trần Gia Phụng, trong Việt Sử Đại Cương tập I, đã nhận định: "Người
Hoa di cư đến cổ Việt đã được Việt hóa, nói tiếng Việt và theo tập quán của người Việt, chứ người Việt không bị đồng
hóa theo văn hóa Trung Hoa". Những người Hoa được Việt hóa, sau nhiều đời
hòa nhập vào cộng đồng người bản địa, đã đóng một vai trò chủ yếu trong xã hội
Việt. Người Việt Nam đầu tiên khởi nghĩa tự xưng Hoàng Đế và chính thức đặt quốc
hiệu là Lý Bôn mà tổ tiên là người Hoa đã di cư sang Giao Châu vào thời Vương Mãng,
trước đó 5 thế kỷ. Tổ tiên các vua nhà Trần cũng là di dân gốc Phúc Kiến. Ông Dụng
cho biết thêm nhà thơ Hồ Dzếnh gốc Quảng Tây, nhà văn Vương Hồng Sển gốc Triều
Châu và nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác gốc Phúc Kiến.
Trong một ngàn năm sau khi nước ta tự chủ, mỗi khi bên Tàu
có loạn lại có nhiều đợt di dân từ Trung Quốc chạy sang nước ta tị nạn, lập lại
một hiện tượng đã xảy ra trong thời Bắc thuộc. Những lớp người Hoa chạy loạn này
đã lập những làng Minh Hương ở Hội An, hay khai khẩn các vùng đất mới ở Hà Tiên,
Mỹ Tho, Biên Hòa. Họ đã biến thành người Việt do văn hóa bao dung của người Việt.
4. Ưu điểm thứ tư là ông Dụng đã ghi lại được sự đề kháng
thường trực của dân Lạc Việt trong một ngàn năm Bắc thuộc.
Trước hết là đề kháng văn hóa. Dân Lạc Việt tiếp nhận đạo
Khổng Mạnh ở những điều dạy đạo lý làm người, còn giữ nguyên phong tục, tập quán
đã truyền lại từ nhiều đời trước. Sự đối kháng này ngầm chảy mãi trong tâm thức
cộng đồng dân tộc. Chiếm đất thì dễ, nhưng cưỡng ép dân Việt thay đổi phong tục
thì rất khó. Những phong tục truyền từ đời Hùng Vương đã tạo nên nếp sống thuần
hậu, có thể gọi là nền văn hiến của dân Việt. Trong thời Bắc thuộc, như Cao Hùng
Trưng nhận xét trong An Nam Chí Nguyên, chỉ có những người Việt đi học làm quan
ở thành thị là "được giáo hóa, biết theo phong tục Trung Hoa, còn ở những
nơi xa vẫn giữ nguyên phong tục cũ không bỏ được". Phong tục đó là nhuộm
răng, ăn trầu, búi tóc, đàn bà mặc váy, áo ngắn cài nút bên tay trái... Còn tiếng
nói thì tiếng Việt được tạo thành, rèn giũa và bồi đắp trong hàng chục ngàn
năm. Đó là nền tảng tạo nên sức đề kháng bền bỉ của dân tộc.
Văn hóa đã thế, còn việc đề kháng bằng gươm giáo thì ông
Dụng cũng ghi lại được những cuộc nổi loạn, chiếm thành, giết quan đô hộ Hán suốt
dọc một ngàn năm.
- Trong những thế kỷ đầu tiên thời Bắc thuộc, hai quận Cửu
Chân và Nhật Nam đã được các quan lại người Hán mô tả là nơi dân chúng hay làm
loạn nhất. Vùng đất này đã trở thành nơi giữ gìn tinh thần tự chủ, ý chí đòi độc
lập của dân Việt. Từ đời Hán đến cuối đời Đường, chính từ vùng này đã sinh xuất
nhiều anh hùng khởi nghĩa.
- Những sách giáo khoa môn lịch sử trước đây thường không
nói tới những cuộc nổi loạn nhỏ nằm giữa hai cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng ở Mê
Linh và Bà Triệu ở Nông Cống, Thanh Hóa. Vì thế chúng ta đã tưởng lầm rằng khoảng
thời gian từ năm 43 đến năm 248 các quan nhà Hán được ngồi cai trị bình yên. Thực
ra không phải như vậy. Chúng ta sẽ hiểu rõ biến cố Bà Triệu khi biết trước đó vẫn
có nhiều cuộc nổi dậy của dân và binh lính ở Nhật Nam, Cửu Chân lan tới Giao Chỉ,
một phần do di dân hoặc binh sĩ người Hoa chủ xướng. Nếu không có những cuộc nổi
dậy liên tiếp trong cả ba quận thuộc Giao Châu thì chúng ta phải ngạc nhiên là
tại sao 200 năm "bình trị" lại có một phụ nữ 20 tuổi như bà Triệu Thị
Trinh chiêu mộ được một ngàn tráng sĩ làm thủ hạ, cùng nhau kéo từ núi về giúp
anh là Triệu Quốc Đạt tấn công thành Cửu Chân, rồi cầm cự được 6 tháng mới chịu
thua.
- Trong hai thế kỷ đầu, hai quận Nhật Nam và Cửu Chân cứ
mỗi thế hệ lại xảy ra ít nhất một cuộc nổi loạn, như trong những năm 100, 136,
144, 157, 178 và 184. Các biến cố năm 136 và 144 là do binh lính nổi loạn. Tới
năm 157 thêm Chu Đạt (gốc Hoa) nổi dậy ở Cư Phong, từ miền núi tiến xuống đánh
thành Cửu Chân, giết quan đô hộ là Nghê Thức, sau bị tướng nhà Hán là Ngụy Lang
đem quân tới tiêu diệt.
- Tới đầu thế kỷ thứ 4, vào lúc nhà Tấn suy vi, một người
gốc Hoa là Lý Tốn đã tự chiếm chức Thứ Sử, năm 308 cùng hai con đem quân chống
lại viên Thứ Sử do vua Tấn cử sang là Đằng Đốn Chi. Năm 468, Lý Trường Nhân lại
nổi lên tự chiếm quyền. Sau cuộc nổi dậy của Lý Trường Nhân, lợi dụng lúc nhà
Lưu Tống bên Tàu suy yếu, người em họ là Lý Thúc Hiến tự đứng ra cai trị Giao
Châu trên 15 năm. Những người họ Lý này đều gốc Hoa, đã định cư nhiều đời ở nước
ta nên sử Trung Hoa gọi là "thổ nhân" cũng như Lý Bôn. Đến năm 485 Thúc
Hiến phải đầu hàng khi đạo quân Nam Tề mạnh hơn sang tấn công. Tuy những ông
quan nổi loạn trên đây chỉ dám xưng là Thứ Sử, không quyết tâm tách khỏi các
triều đình phương Bắc, nhưng họ đã tạo ra những tiền lệ khiến người Giao Châu
thấy vùng đất này có khả năng tự chủ, tự lập. Hiện tượng này cho thấy khi bên Tàu
có loạn thì trong miền đất Giao Châu khuynh hướng tự chủ và tự trị đã lên khá mạnh
ở cuối thế kỷ thứ 4 sang thế kỷ thứ 5.
- Vào thế kỷ thứ 6, vì chính sách tàn khốc của hai triều
đại Tùy (580-618), Đường (618-906) khiến dân phẫn uất. Năm 638 dân ở vùng Thanh
Nghệ đã nổi loạn. Rồi tới một quan nhà Đường tăng thuế gấp đôi, nông dân đã cùng
nhau chiếm thủ phủ, giết quan đô hộ năm 687. Sử gia Lê Mạnh Hùng đoán là các lãnh
tụ của hai cuộc khởi nghĩa - Lý Tự Tiên và Đinh Kiến đều là gốc nông dân.
- Từ cuối thế kỷ thứ 8, bên Tàu nội chiến không ngừng, đại
loạn suốt nửa thế kỷ. Tại Quảng Tây và phía Tây Quảng Đông giáp phía Bắc nước
ta, các hào kiệt địa phương đã nổi lên chiếm thành, cắt đất xưng hùng. Giao thông
gián đoạn, uy quyền chính thống ở trung ương bên Trung Hoa không có mặt. Nhiều
viên quan ở Giao Châu đã nổi loạn vào những năm 803, 819, 828, 843, 860 và 863,
Các Tiết Độ Sứ bị giết hoặc phải bỏ chạy về Tàu, tổng cộng 6 lần trong 60 năm.
- Cuối thế kỷ thứ 9, nhà Đường đang còn kiểm soát được lãnh
thổ của họ thì dân ở Giao Châu sôi sục. Dân và binh sĩ nổi lên, quan đô hộ là
Tăng Cổn phải bỏ chạy. Trong hơn 10 năm đất Giao Châu sống trong tình trạng không
có chính quyền. Dân chúng tự động lấp vào khoảng trống chính trị đó, và nhà phú hào vùng Hải Dương là Khúc
Thừa Dụ đã được suy cử làm Tiết Độ Sứ. Họ Khúc đã nắm quyền từ năm 880 đến 930.
Tuy Giao Châu chưa ly khai khỏi Trung Hoa, nhưng thời gian khá dài này có ảnh
hưởng quyết định. Họ Khúc cải tổ hệ thống hành chánh từ lộ, phủ, châu xuống đến
xã, trong đó có việc đổi đơn vị hương thành giáp, và cử người thu thuế theo hệ
thống đó. Sau cuộc thí nghiệm tự trị của Khúc Hạo, với những cải tổ hành chánh
nhằm theo sát với phong tục tập quán của người Việt, giới lãnh đạo bản xứ càng
tự tin để cầm đầu những cuộc nổi dậy. Vì bên Tàu có loạn trong đầu thế kỷ thứ
10, nhiều anh hùng dân tộc nổi lên cùng một lúc. Sau đó họ còn tranh quyền gay
gắt, đủ thấy đây là một phong trào toàn quốc, toàn dân sôi nổi vùng lên.
5. Ưu điểm thứ 5 là ông Dụng đã xác định giá trị của Nho
giáo trong thời Bắc thuộc và sau khi nước Việt đã độc lập.
Sau 30/4/75, ở hải ngoại có một số người đã lên tiếng phê
bình Nho Giáo trong văn hóa Việt Nam, trong đó người lớn tiếng nhất là ông Nguyễn
Gia Kiểng. Với cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, ông Kiểng đã hạ giá văn hóa Việt Nam, báng
bổ tổ tiên và lên án Khổng Giáo là thứ văn hóa vô tổ quốc, nhà Nho là người vô
tổ quốc. Đến ông Ngô Nhân Dụng, viết Đứng Vững Ngàn Năm, lại xác định giá trị của
Nho Giáo trong Văn hóa Việt Nam, sự khôn ngoan của tổ tiên trong việc thu nhận
văn hóa Khổng Giáo trong đạo làm người và xây dựng đất nước. Ở đây chúng tôi
xin trích dẫn một số đoạn:
- Việc tiếp nhận nền giáo dục Khổng Mạnh từ thời Bắc thuộc,
chắc chắn người Việt Nam vui lòng học hỏi, vì trong thời gian một ngàn năm đó hệ
thống tư tưởng và nền giáo dục ở Trung Hoa đã đạt tới trình độ cao nhất so với
các nước khác khắp vùng Á Đông. Vào thời đó mà không cùng nhau tìm hiểu Khổng Mạnh
thì cũng giống như vào thế kỷ 20 mà không nghiên cứu khoa học, không tìm hiểu
chế độ phân chia ba quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp.
- Trong thời Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho giáo trong dân
Việt chỉ nằm trong phạm vi luân lý, đạo đức, bổ sung với đạo lý cổ truyền và Phật
Giáo. Các quy tắc sử thế của Nho Giáo chỉ dựa trên con người - Chúng ta nên ăn ở
với nhau có nhân có nghĩa và giữ gìn trung tín, vì chúng ta đều là người.
- Ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa cũng đem lại những kết
quả tích cực, tạo ưu thế cho người Việt so với các dân tộc Đông Nam Á khác. Văn
minh Hoa Hạ chú trọng tới tổ chức xã hội nhiều hơn khuynh hướng siêu hình, trừu
tượng của Ấn Độ. Dân Việt tiêm nhiễm những đặc tính đó, đã dựng lên những mạng
lưới xã hội và guồng máy quốc gia tương đối vững và mạnh hơn các nước ở phía
nam. Nhờ sinh lực mới này mà cuộc Nam tiến thành công.
- Nền giáo dục Khổng Giáo có khả năng đào tạo ra bao nhiêu con người như Chu Văn An, Nguyễn Trãi,
Bùi Hữu Nghĩa, Phan thanh Giản, Phan Đình Phùng... Tổ tiên chúng ta đâu có dại
dột không học lấy ngay và áp dụng ngay trong cuộc sống của mình.
- Mặc cảm đối với văn hóa Trung Hoa thời nay còn rất nặng,
vì dân mình nhiệu lần bị người Hán đe dọa thôn tính, nền nếp văn hóa của mình
nhiều lần bị đe dọa xóa bỏ để đồng hóa. Mặc cảm đó đã ăn sâu trong tâm lý tập
thể kéo dài cả ngàn năm. Nhưng sống bên cạnh một nền văn minh rực rỡ như văn
minh Trung Hoa mà không thu nhận những cái hay của họ thì thật dại dột. Các giống
dân Hàn Quốc, Nhật Bản đều theo học các vị thầy từ Khổng Mạnh, Lão Trang cho tới
Hàn Phi, Tôn Tử. Không tìm học thì rất uổng. Cần phải nhấn mạnh: Thu nhận văn
minh Trung Hoa là một lựa chọn tự nguyện và khôn ngoan của dân Việt Nam, cũng
như các dân tộc Á Đông khác.
- Người Việt Nam tiếp nhận văn minh Trung Hoa cũng giống
như nước Mỹ sau khi giành được độc lập, đã tổ chức nền hành chánh và tư pháp
theo tư tưởng của các triết gia người Anh, theo mẫu các tổ chức đã có sẵn bên
Anh. Ảnh hưởng Trung Hoa giúp thêm cho trật tự xã hội, tổ chức chính quyền, nhờ
thế nền tảng độc lập của dân Việt càng vững chắc.
- Trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết
"Phương tiện để mở lòng mê muội, con đường soi rõ sự sống chết là đại giác
của Đức Phật. Còn việc giữ cán cân làm tiêu chuẩn, làm khuôn phép cho đời sau là
trách nhiệm nặng nề của tiên thánh vậy". Tiên thánh, những vị thánh đời
trước, là Khổng Tử, Mạnh Tử. Trong tinh thần đó, người Việt Nam tự tình nguyện
học Nho Giáo vì nhu cầu quản trị nước mình, chứ không phảI vì bị ai bắt buộc.
- Dùng Nho Giáo trong việc cai trị sau khi nước ta đã độc
lập là điều tự nhiên. Các quốc gia không hề bị người Hán đô hộ như Nhật Bản, Hàn
Quốc cũng theo mô hình quản lý xã hội của Nho Giáo. Cũng giống như các nước Mỹ,
Canada, Úc và Ấn Độ, sau khi độc lập vẫn dùng hệ thống pháp luật và tổ chức hành
chánh theo lối Anh Quốc.
III. Về Lời Khẳng định
Trong chương cuối Vang Vang Trời Vào Xuân, Ông Ngô Nhân Dụng
viết: Trong thời gian cuốn sách này đang thành hình, người Việt Nam ở trong và
ngoài nước đang tổ chức nhiều cuộc biểu tình chống chính quyền Trung Quốc xâm
phạm chủ quyền nước ta, nhất là trong vùng biển Đông. Trong không khí sôi nổi,
nhiều người tỏ ý lo mình có thể "mất nước". Ngẫm nghĩ về lịch sử thời
Bắc thuộc thì phải tin là nước Việt sẽ không bao giờ mất được. Ngàn năm trước đã
không mất thì ngàn năm sau chắc chắn sẽ không mất. Ngàn năm trước, tổ tiên từng
chịu đựng những áp lực lớn, nghĩ đã thấy rợn mình. Thế mà vẫn đứng vững. Bây giờ
dân mình đông hơn, ý thức dân tộc vững chắc hơn, kinh nghiệm dày dạn hơn. Loài
người bây giờ cũng văn minh hơn và liên đới chặt chẽ với nhau hơn, không để cho
nước lớn hiếp nước nhỏ.
Ông Dụng đã nói lời khẳng định - Nước Việt sẽ không bao
giờ mất - mấy lần ở những chương khác. Mỗi lần đọc tới câu này, chúng tôi đều
ngừng lại suy nghĩ và không chia sẻ với ông niềm tin này. Vì Việt Nam ở thế kỷ
20, từ việc đấu tranh giành độc lập với Thực dân Pháp, đã chia thành hai phe Quốc
Cộng không đội trời chung. Từ vị thế cướp được chính quyền năm 1945, gọi là Cách
Mạng Tháng 8, đảng Cộng Sản Việt Nam đã độc chiếm chính nghĩa dân tộc. Với chính
nghĩa đó Cộng Sản Việt Nam đã chủ động tác động vào vận mệnh đất nước, tiến hành
2 cuộc chiến tranh kháng Pháp (1946-1954) và xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa
(1960-1975). Trên đường thực hiện chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam đã vướng vào vòng
kiềm tỏa của Trung Cộng. Rồi khi thế giới Cộng Sản Nga và Đông Âu tan vỡ, vì
nhu cầu sống còn, Cộng Sản Việt Nam lại thò đầu vào cái thòng lọng của Trung Cộng
để Trung Cộng sai sử. Từ đó, những nhân tố giữ nước ngày xưa đã thay đổi. Ngày
nay Trung Quốc chỉ cần một yếu tố là có thể xâm chiếm Việt Nam mà không cần súng
đạn. Xin luận giải như sau:
Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc đã kết với nhau
bằng một mối duyên nợ. Duyên là chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa quốc tế vô sản,
còn nợ là qua cái duyên chủ nghĩa, Trung Quốc viện trợ Cộng Sản Việt Nam để thôn
tính Việt Nam mà ông Ngô Đình Nhu trong tập sách Chính Đề Việt Nam đã nhận định:
"Sự lệ thuộc chủ nghĩa và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi
phối và sự toan tính thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam đã tái hiện dũng mãnh
sau gần một thế kỷ vắng mặt. Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự
chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành
động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của
chúng ta mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Sở dĩ tới ngày nay, sự
thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình là vì hoàn cảnh chính
trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây
phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà
Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một
vấn đề thời gian" (Chính Đề Việt Nam - Đồng Nai xuất bản - Sài Gòn, 1964,
trg 301).
Như vậy là ông Nhu đã thấy trước sự toan tính của Trung Cộng
và Cộng Sản Việt Nam cũng đã thấy như thế, bằng chứng là Cộng Sản Việt Nam đã tố
cáo tham vọng của Trung Cộng trong 2 tập sách: Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam -
Trung Quốc Trong 30 Năm Qua và Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc (Sách
được công bố sau trận chiến xâm lăng của Tàu năm 1979). Nhưng Cộng Sản Việt Nam
đã không nghĩ đến lối thoát cho dân tộc mà chỉ nghĩ đến sự tồn tại của đảng Cộng
Sản và quyền lợi trước mắt của họ nên đã
để lỡ mất cơ hội ngàn năm, và đã tự nguyện rước voi về giày mồ một cách nhục nhã
ở Hội Nghị Thành Đô năm 1990. Ở hội nghị này, khi Giang Trạch Dân xuất hiện, Đỗ
Mười đã nhào tới ôm chầm lấy Giang trước sự ngỡ ngàng của họ Giang và theo ông
Dương Danh Di (nguyên Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc) thì
trong hội nghị, những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã không dám đòi hỏi bất
cứ một điều gì dù Cộng Sản Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam năm 1979. Như thế là
mấy ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã tới phòng hội để được chỉ
đạo và nghe lệnh. Vì thế từ Hội Nghị Thành Đô (9/1990), Trung Quốc đã dùng
phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng đến tương lai" và 4 tốt "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt" để áp đặt và bắt đầu đòi nợ và Cộng Sản Việt Nam cũng
dối dân bằng mấy chữ đó để trả nợ. Đó là cái nợ mà Trung Quốc đã viện trợ trên
24 năm cho sự chiến thắng của đảng Cộng Sản Việt Nam và cái nợ mà Trung Quốc giữ
cho Cộng Sản Việt Nam ở ngôi vị: Thống trị Việt Nam.
Kết quả của hội nghị Thành Đô mà Cộng Sản Việt Nam gọi là
để nối lại quan hệ ngoại giao. Còn theo ông Trần Quang Cơ, cựu Thứ Trưởng Ngoại
Giao Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong tập sách "Hồi Ức và Suy Nghĩ"
thì "Không phải là bình thường hóa quan hệ mà là phụ thuộc hóa quan hệ".
Rồi ông Cơ nói thêm: "Và từ sau Đại Hội VII, tiến trình bình thường hóa
quan hệ Việt Nam- Trung Quốc như cỗ máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến trơn
tru theo trình tự đã định... Ngày 5 đến 10/11/91, sau khi Hiệp Định về
Campuchia được ký kết ở Pa-ri, TBT Đỗ Mười và Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thăm chính
thức Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hóa mối quan hệ
trục trặc lớn từ tháng 2/1979. Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng
Trung Quốc "Bảo vệ xã hội chủ nghĩa chống đế quốc" thì họ đã xác định
quan hệ với ta là "thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu"
(thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu nhưng không đánh nhau). Trung Quốc
nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải ta, và hiểm
độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta". Trong Hồi Ức và Suy Nghĩ,
ông Cơ nói đến ý đồ của Trung Quốc: "Gấp rút biến biển Nam Trung Hoa thành
vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông nam Á với
mục tiêu khẳng định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung
Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài". (Trần
Quang Cơ - Hồi Ức và Suy Nghĩ - Truyền Thông số 14&15, mùa đông, mùa xuân
2005)
Lãnh đạo Cộng Sản
Việt Nam biết hết, nhưng họ phải cúi đầu hướng về thiên triều và mượn cái danh
Xã hội chủ nghĩa để giải quyết cái Thực của họ là thần phục Trung Quốc để duy
trì quyển lực, còn Trung Quốc muốn sao cũng được như Nguyễn Văn Linh đã nói:
"Dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa".
Với một lập trường như thế, từ Hội Nghị Thành Đô, lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã
bị Trung Quốc xoay vần, tự đưa đất nước vào vòng lệ thuộc Tàu về tất cả mọi mặt
chính tri, kinh tế và văn hóa.
Sự thỏa thuận ở Hội Nghị Thành Đô là những gì? Tất nhiên
chỉ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam biết. Nhưng từ đó đến nay, những sự việc
thấy được thì Việt Nam đã mất nhiều. Xin ghi lại một số:
1. Những cái mất
- Với Hiệp ước biên giới Việt Trung (30/12/90), Việt Nam
mất thác Bản Giốc (Cao Bằng), Ải Nam Quan và trên 1000km2 cùng những cao điểm ở
biên giới.
- Với hiệp ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ (25/12/2001), Việt
Nam mất trên 10.000 km2 biển.
- Với chương trình khai mỏ Bauxite, dân Tàu đến cao nguyên
lập làng.
- Với chương trình cho thuê rừng ở 10 tỉnh: Lạng Sơn, Quảng
Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Bình, Bình Định, Kon Tum và
Bình Dương đã cho doanh nghiệp nước ngoài thuê rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm),
với tổng diện tích hơn 300,000 Hectare , trong đó doanh nghiệp Trung Quốc và Đài Loan chiếm trên
264 ngàn Hectare (87%) ở các tỉnh xung yếu biên giới. Theo tướng Đồng Sỹ Nguyên
thì việc Trung Quốc chọn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây
Nguyên là có chủ đích, vì đó là những tỉnh xung yếu biên giới có những vị trí
chiến lược mang tính cốt tử. Theo ông Trần Văn Tri, Giám Đốc Sở Kế Hoạch và Đầu
Tư Quảng Nam cho biết thì công ty TNHH, một thành viên Innovgreen được miễn
100% tiền thuê đất trong 50 năm, vì đó là quy định của chính phủ về ưu đãi đầu
tư, được áp dụng trên cả nước. Như thế phải nói đây là chương trình cho không rừng
chớ không phải cho thuê rừng.
- Tỉnh Hà Tĩnh đã cấp cho Tập Đoàn Formosa Đài Loan-Trung
Quốc 33km2 đất cảng Vũng Áng từ năm 2008, theo dự án đầu tư của Tập Đoàn này, và
chủ đầu tư đã đem vào hàng ngàn công nhân Trung Quốc. Họ định cư lập làng quanh
Vũng Áng, kết hôn với con gái, phụ nữ địa phương. Vũng Áng thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh,
là khu vực nước sâu nằm ở cửa phía nam vịnh Bắc Bộ. Từ đây có thể khống chế tàu
ra vào cảng Hải Phòng, cũng như giao thông đường biển với cả miền Bắc, tiếp cận
thuận lợi các mục tiêu phòng thủ chiến lược trên biển Đông như đảo Cồn Cỏ, Hòn
Mê, Hòn Khói. Vị trí này nằm ở chân núi Hoành Sơn dọc quốc lộ 1, vị trí yết hầu
của cả nước, có thể chia cắt giao thông Bắc Nam. (caunhattan. Worlpress.com/2012/12/13
- Hoàng Trung Hải giúp Trung Quốc chiếm vị trí yết hầu của Việt Nam).
- Rồi bằng con đường kinh tế, trong 10 năm nay, chính quyền
Việt Nam đã để cho nhà thầu Trung Quốc chiếm tới 90% những gói thầu quan trọng
thuộc các lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế như điện, xi măng, hóa chất, luyện
kim, cầu đường, khai khoáng... Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành thì rất ít
doanh nghiệp Việt Nam lọt qua vòng sơ tuyển dự thầu. Có lẽ ông Thành không dám
nói thẳng ra, nhưng ta có thể hiểu là đã có một lực hậu thuẫn từ Trung Ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam yểm trợ để các dự án thầu quan trọng rơi vào tay nhà thầu
Trung Quốc. Cần biết thêm một vấn đề nữa mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ
ra là phần lớn dự án quan trọng ở lĩnh vực điện, giao thông mà phía Trung Quốc
đang làm nhà thầu đang sử dụng vốn vay ODA. Như vậy vốn giá rẻ mà Việt Nam đi
vay, các nước khác giúp đỡ, lại được sử dụng để mua máy móc Trung Quốc, làm lợi
cho họ. (vnexpress.net/11/28/2012).
2. Sự nhập cư ồ ạt của người Hoa
- Năm 2008, chính quyền Việt Nam đã quyết định miễn chiếu
khán nhập cảnh cho người Hoa vào Việt Nam. Quyết định này là một biện pháp giúp
người Hoa ở lại dễ dàng, vì họ có thể nhập vào những cộng đồng người Hoa trên
khắp Việt Nam (Từ trước kia và nay là những làng người Hoa mới xuất hiện theo
những dự án xây dựng kinh tế). Mỗi dự án là một làng mà nhà thầu Trung Quốc đã
giành được 90% các dự án thầu trọng điểm trên toàn quốc thì trong vài năm nữa
Việt Nam sẽ có bao nhiêu làng người Hoa. Trước hiện tượng này, ông Hà Sĩ Phu
trong bài "Từ Vụ Bauxite Nghĩ Về Vận Nước" đã nhìn sát: "Khả
năng bị đồng hóa toàn diện nặng nề hơn bao giờ hết. Đã có sự nhập cư ồ ạt không
thể kiểm soát của những người Tàu không
rõ lý lịch. Thông tin cho biết nhiều kẻ nhập cư lậu thuộc loại chất lượng xấu,
nhưng vừa chiếm chỗ lao động, vừa lấy được 2,3 người vợ Việt Nam để sinh đẻ cho
nhiều. Chẳng những bị Hán hóa mà còn lưu manh hóa và mông muội hóa để trở thành
những tộc dân mọi rợ. Dân tộc bị thoái hóa thì sẽ mất nước vĩnh viễn, trở thành
quận, huyện của người ta, uổng công tổ tiên nghìn đời xây đắp.
(doithoai.com/27/27/2009).
- Còn ở thành phố thì nhiều Chinatown đã xuất hiện như
khu đô thị Nam Hoàng I, xây dựng từ năm 2008 và hoàn thành năm 2013 ở Lạng Sơn.
Khu Chinatown Đông Đô Đại Phố ở trung tâm thành phố mới Bình
Dương do công ty Becamex xây dựng. Trong tài liệu giới thiệu Website của Đông Đô
Đại Phố đã viết:"Điểm gắn kết và hình thành cộng đồng người Hoa: Đông Đô Đại
Phố kết hợp việc phát triển kinh tế cho cộng đồng người Hoa, với khu trung tâm
thương mại sầm uất bậc nhất, một thiên đường mua sắm, giải trí và ẩm thực đặc sắc,
góp phần tạo dựng và gìn giữ vẻ đẹp văn hóa sắc màu của dân tộc Việt Nam cho thế
hệ mai sau".
- Trong bài "Từ Mũi Sa Vĩ Nhìn Về Móng Cái: Trung Quốc
Làm chủ, Việt Nam Làm Thuê", nhà báo Thiên Thư đã ghi lại những cái thấy,
điều nghe về chuyện người Trung Quốc đã chiếm Móng Cái, Trà Cổ bằng kinh tế với
thân phận người Việt ở đây: "Móng Cái cũng như nhiều thành phố vùng giáp
biên khác, nhiều cửa hàng, trung tâm
thương mại, khách sạn, khu vui chơi giải trí được đầu tư bởi các công ty, tập
đoàn lớn của Trung Quốc. Hai khu giải trí, kinh doanh lớn nhất thành phố Móng Cái
là của công ty Hồng Vận và công ty liên doanh Hải Ninh-Lợi Lai. Như nhiều nhà đầu
tư Trung Quốc khác, hai công ty này được thuê đất 50 năm với nhiều loại hình
kinh doanh như sòng bạc, khách sạn, sàn nhảy, dịch vụ mua sắm hàng hiệu (nhái),
cửa hàng ăn Trung Quốc. Cuối tuần, khách du lịch từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan đến Móng Cái nghỉ rất đông. Các cửa hàng, khách sạn cho đến sân golf hoạt
động hết công suất. Tất cả tiền của đều chảy vào túi chủ Trung Quốc, chẳng có
thứ gì của Việt Nam được tiêu dùng, trừ những người phục vụ là người Việt biết
hai thứ tiếng. Vì thế dân ba miền Bắc Trung Nam rủ nhau về Móng Cái như trẩy hội,
kẻ không ruộng nương lên đây làm cửu vạn, người có vốn lên đây đánh hàng. Một ông
lão làng chài nhìn thời vận mà thốt lên:
"Danh nghĩa là đất của mình, nhưng Trung Quốc đã thuê 50 năm, không chỉ Móng
Cái, Trà Cổ mà cả cái tỉnh Quảng Ninh này, từ sân golf, khách sạn, các khu
trung tâm mua sắm, quảng trường cho đến cái quán ăn vỉa hè đều có chủ là người
Trung Quốc. Sống trên đất Việt, nhưng người Việt chỉ là kẻ làm thuê, lại phải
tiêu dùng mọi thứ hàng của Trung Quốc thì có đau không, có lo không?"
(nguoiviet.com/7/29/2009)
3. Mấy ông tướng Cộng Sản nói về cái mất
- Từ vụ Bauxite, chúng ta đã được đọc những lời can ngăn
chính quyền ngưng dự án của các ông tướng Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn
Trọng Vĩnh và Lê Văn Cương. Trong đó, các vị ấy đều nói về tham vọng xâm chiếm
Việt Nam của Trung Quốc. Trong bài "16 Chữ Vàng Là Thật Hay Giả", tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh đã xác định rõ là "16 chữ vàng mà nhà cầm quyền Trung Quốc
vẽ ra chỉ là trò giả hiệu. Nó chỉ là lá bùa dán vào miệng để bịt miệng Việt
Nam, để ăn cướp mà Việt Nam không được la làng, xẻo thịt, cắt da Việt Nam cũng không được kêu. Đáng tiếc là những nhà lãnh
đạo Việt Nam vẫn "hữu nghị một chiều".
Ông Lê Hồng Hà, một cấp lãnh đạo ngành Công An (đã về
hưu), trong một cuộc phỏng vấn của Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã nói là Trung Quốc đã
và đang ráo riết thực hiện những kế hoạch dữ dội, xâm nhập, chèn ép, bao vây trên
mọi lĩnh vực kinh tế, an ninh, quốc phòng, lãnh thổ, nhằm thực hiện ý đồ thôn tính
Việt Nam. Còn về phía Việt Nam thì nhiều cán bộ lãnh đạo của Việt Nam lại đã và
đang bị Trung Quốc mua chuộc và khống chế. Tất cả những điều đó đều là một quá
trình liên tục từ Đại Hội VI của đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay".
(danluan.org/3/6/2012)
4. Trí thức nói về cái mất
- Giáo sư Hà Văn Thịnh, Đại Học Khoa Học Huế, trong bài
"Đất nước đang bất ổn thật rồi" có đoạn: "Dân tộc Việt Nam đang
sống trong nền văn minh nào đây? Nếu nói là nền văn minh "của dân", sao người dân khổ
thế? Nếu nói rằng đây là nền văn minh của chịu đựng và nhẫn nhục thì xin hỏi,
chờ đến bao giờ? Nếu nói rằng nền văn minh "hữu nghị", của "thỏa
đáng thật thà", sao dối trá và lường gạt cứ như chuyện chợ trời? 27 tháng
5, thả ngư dân bị bắt, sau khi đã trấn lột hơn nửa tỷ dồng tài sản của ngư dân
ta, ông Hồ Cẩm Đào nói rằng đã tìm được giải pháp "thỏa đáng" cho biển
Đông. Lời ông nói gió chưa kịp thổi bay thì 29/5, ông ta xấc xược và côn đồ khi
ngang nhiên ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở biển Đông, phần lớn thuộc chủ quyền
của Việt Nam, từ ngày 16/5 đến 1/8/2010. Năm ngày sau, ngày 4/5 lính Trung Quốc
lại bắt giữ tàu QNG-0281 với 12 ngư dân và đòi tiền chuộc 70 vạn nhân dân tệ. Đến
như vậy mà còn nhắm mắt đưa chân tin vào "Năm Hữu Nghị", thì tôi không
hiểu những người lãnh đạo có trách nhiệm với dân tộc, đất nước hiện nay đang muốn
làm gì khi cứ cúi đầu thấp hơn nữa? Điện Biên Phủ đâu? Hào khí Bạch Đằng,
Chương Dương, Hàm Tử ở đâu, hay đang rủ nhau cùng trốn chạy trong cái góc khuất
hay tăm tối đớn hèn nào đó?"
- Ông Hà Sĩ Phu, trong bài "Từ vụ Bauxite nghĩ về vận
nước", đã viết: "Trong lịch sử 4000 năm đã có bao giờ bị thất thủ mất
đất, mất biển đơn giản như thế, đã có bao giờ ngoại bang cưỡi lên lưng, tóm lấy
yết hầu, chi phối nhân sự dễ dàng như thế? Đã có bao giờ người cầm đầu xã hội bạc
nhược đến mức không dám gọi đến tên kẻ đã đánh giết dân mình, chứ chưa nói đến
có gan chống lại" (doithoai.com/7/27/2009)
Và trong bài "Giải Cộng Nhi Thoát" ông lại viết:
"Phơi bày hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không cần che đậy, tự "khỏa
thân chính trị" của chế độ chuyên chính trong nước. Đồng thời, sự chuyên
chính trong thế giới Cộng Sản với nhau cũng "khỏa thân" luôn không cần
che đậy: Việc chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ quy chế hành
chính và quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa đương nhiên của
Việt Nam, đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam... đã tự lột trần
cái bản mặt giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng Sản đến mức không còn chút lá
nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca khúc Việt -Trung và lời
kêu gọi tri ân kẻ đã xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ không thể chấp nhận.....
Đến giai đoạn này thì các Blogger trong nước cũng không giữ lễ nữa: Không cần ám
chỉ mà kể thẳng tên dù là thủ tướng hay tổng bí thư, hay Bộ Chính Trị. Mác-Lê
không còn là điểm nhạy cảm phải kiêng, lại còn nghi ngờ rằng Đảng và nhà nước có
định chống xâm lược thật không hay đã đồng tình với giặc xâm lược?, coi chính
quyền chỉ là một đám cướp lớn phản động đã rõ ràng" (danchimviet.info/8/10/2012)
Trên đây là những cái mất hữu hình của đất nước vào tay
Trung Quốc. Còn một cái mất vô hình mà chúng ta có thể cảm được qua Bản Tuyên Bố
Chung giữa Chủ Tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tống Bí Thư Nông Đức Mạnh ngày
17/11/2006 tại Hà Nội, nhân dịp ông Hồ qua thăm Việt Nam. Bản tuyên bố bao gồm
nhiều vấn đề, nhưng có một số điểm đặc biệt sau đây:
- Tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn
diện Việt Nam - Trung Quốc.
- Phát huy đầy đủ vai trò cơ chế hợp tác giữa các ngành
ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh. Mở rộng hợp tác thiết thực trong các
lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục.
- Hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp
đầu tiên của Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương Việt-Trung. Hai bên nhất trí
cho rằng sự kiện này có lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch hợp tác
và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
- Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác
lâu dài và cùng có lợi trong các lịnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp
chế tạo, khai thác nguồn nhân lực,năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực
quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án như Bô-xit Đắc Nông.
Qua những điểm hợp tác toàn diện các ngành ngoại giao, quốc
phòng, công an, an ninh với Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương và tăng cường chỉ
đạo vĩ mô, chúng ta có thể cảm được là đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị Trung Quốc
chế ngự. Vì vai trò chủ động trong các lĩnh vực này là Trung Quốc chứ không thể
là Việt Nam. Và ai chỉ đạo ai thì chúng ta có thể hiểu được.
Năm 1963 ở Vũ Hán, Mao Trạch Đông đã nói với lãnh đạo đảng
Cộng Sản Việt Nam: "Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông, đưa quân xuống
Đông Nam Á và chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á bao gồm cả miền Nam Việt
Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaxia và Singapore. Một vùng Đông Nam Á rất giàu. Ở
đây có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy."
(Bạch thơ - Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua). Trong đời
Mao, Mao chưa thực hiện được giấc mộng đế quốc Đại Hán, nhưng tới thập niên
1990 thì đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có thể tung hoành ở biển Đông và trên nội
địa Việt Nam. Vì thế năm 2000 và 2006, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào qua thăm
Việt Nam, nhưng đã đến Hội An tắm biển, nhìn ra Hoàng Sa và Trường Sa trước khi
ra Hà Nội. Chắc hẳn Giang và Hồ không dám hay không thể làm việc này ở Nam Hàn,
Phi Luật Tân, Thái Lan, Singapore hay Nhật Bản. Mà hẳn nhiên không có một nguyên
thủ nào đi thăm một nước khác lại có thể đi tăm biển trước, rồi mới tới thủ đô
của nước đó để được đón tiếp. Hành động của Giang và Hồ cao ngạo bất thường,
nhưng có lẽ họ đã làm như thế để nói với thế giới là Việt Nam và Biển Đông đã
thuộc quyền Trung Quốc. Và đến nay thì Trung Quốc đã có thể kiểm soát Việt Nam
qua kế sách là nắm đầu não đảng Cộng Sản Việt Nam, một yếu tố duy nhất để thực
hiện tham vọng bành trướng Đại Hán mà Mao Trạch Đông đã vạch ra từ thập niên
1960.
Kết luận
Đứng Vững Ngàn Năm là một tập đại thành để diễn giải những
nhân tố đã giúp Lạc Việt tồn tại hơn ngàn năm Bắc thuộc. Trước đây học sử Việt,
chúng ta mơ hồ về phép lạ này. Nhưng đến nay với Đứng Vững Ngàn Năm, ông Ngô Nhân
Dụng đã dùng kiến thức uyên bác về thế giới để soi rọi vào những nhân tố chủ
quan và khách quan giúp chúng ta thấy và hiểu rõ ngọn nguồn những nhân tố mà tổ
tiên ta đã tạo nên phép lạ. Có điều ông Dụng viết Đứng Vững Ngàn Năm vào đầu thế
kỷ 21, ở một giai đoạn việt Nam có thể rơi vào một thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
hai như ông như ông Trần Quang Cơ nhận định. Nhìn vào những sự việc đã và đang
diễn ra trên đất nước mấy chục năm qua, chúng ta đã thấy dân Tàu tràn vào Việt
Nam lập làng qua những dự án kinh tế, còn ở thành phố họ đã mua những khu đất tốt
để xây dựng khách sạn và khu thương mại như Đà Nẵng, Nha Tranh, Bà Rịa Vũng Tàu...
Dân Nha Trang đã phải kêu là người Hoa đông quá.
Phải chi ông Dụng viết thêm một, hai chương nữa về Việt
Nam trong thế kỷ 20 để so sánh Việt Nam ngày xưa và Việt Nam ngày nay và luận bàn
về số phận đất nước trước tham vọng của đảng Cộng Sản Trung Quốc và sự ươn hèn
của lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam khi phải bám vào Trung Quốc để tồn tại. Ông đã
không làm như thế mà chỉ nói phớt qua, rồi nói lên ước vọng: Việt Nam cần một
phong trào hồi sinh văn hóa để phát triển và một giấc mơ là sẽ có ngày đất nước
có tự do dân chủ. Sẽ có một ngày...Chắc hẳn người Việt nào cũng ước vọng và mơ
như ông để khỏi phải tìm mọi đường ra đi. Người Việt đang ra đi chớ không về.
Thực cảnh này ngược chiều với ông Dụng khi ông kết luận Đứng Vững Ngàn Năm với tinh thần lạc quan nhìn về tương lai theo hai câu thơ trong Ta Về của nhà thơ Tô Thùy Yên "Tiếng biển lời rừng nao nức giục - Ta về cho kịp độ xuân sang".
* Việt Dương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire