Hổi mới nghỉ hưu, người viết đã mơ tưởng là cặp vợ chồng
già này sẽ sang miền nắng ấm của Florida, California, Nam Mỹ… để qua mùa đông
cho đỡ lạnh.
Nhưng mà khó mà có thể thực hành điều đó lắm: xa nhà lâu quá đâu có được
vì còn có con, có cháu và có cái nhà để lại đằng sau! Vả lại, về già đôi chân
lại yếu cho nên không muốn đi đâu nhiều cho lắm. Trong cái bối cảnh đó, người
viết tìm ra cái thú viết văn để quên đi cái lạnh của xứ “Đất Lạnh ít Nồng hơn
Cóng này!”
Người đời khi nhìn
thấy các cây cầu vĩ đại, những tòa nhà trọc trời đồ sộ như hai cái tòa nhà được
mệnh danh là “Marilyn Monroe” và “Brigitte Bardot” tại thành phố Mississauga , Canada , người ta trầm trồ
khen ngợi rồi nghĩ rằng …thì…là…mà … cái ngành công chánh rất “hoành tráng” …
Thực ra thì ngành
này còn phải đương đầu với những cái cống để thải nước cống, rồi đến cái vụ hốt
rác rưởi… có những mùi rất khó ngửi và dơ bẩn…
Phần lớn các trường
Cao đẳng Công Chánh (Community College, Civil Engineeriong Technology program)
trong tỉnh bang Ontario tại Canada , thường hay có
chương trình (program) về “Public Works” (Kiều lộ) để dễ bề thu nhận sinh viên.
Điều quan trọng nhất là các trường này phải viết ra chương trình dạy học cho
thật là thực tiễn, thích hợp với các dịch vụ như: đi hốt và vứt rác rưởi (solid
waste management), lọc và phân phát nước uống (water treatment and
distribution), xây cất và sửa chữa các đường cống (design and maintenance of
sanitary sewers) để dẫn nước cống đến các nơi xứ lý nước cống (waste water
treatment plants) trước khi xả nước đó ra hồ/sông/biển…Các trường cao đẳng này
(còn được mệnh danh là “Đại Học Cộng Đồng”) hy vọng sẽ đào tạo ra các chuyên
viên có một kiến thức tổng quát khi đi kiếm việc trong các thành phố…ngoại trừ
khi họ đi làm trong những văn phòng liên quan đến phần tính toán, lập các bàn
vẽ hay làm những công việc hành chánh trong công, tư sở…
Nơi chúng tôi dạy,
thoạt đầu có hai "majors" (bộ môn) là "Structures"
(tính toán, kiến tạo) và "Public Works" (Lục lộ, xây cất, bảo trì…) Bộ
môn "Structures" đào tạo các phụ tá kỹ sư (Technicians/Cán sự học 2
năm và Technologists/Cán sự học 3 năm…để kiến tạo/design các đường phố, cầu,
cống , hãng xưởng, đập nước, sân bay…) Khoảng giữa thập niên 1980, Bộ môn
“Structures” bị ế ẩm (Canada bị nghèo tiền để có thể xây cất thêm) cho nên sinh
viên tốt nghiệp “major” này không kiếm được việc và một số người Canada đã phải
bỏ xứ mà sang Mỹ để kiếm việc làm.
Bộ môn “Public
Works “còn sống sót èo uột được là vì một số sinh viên tốt nghiệp trong ngành
này còn có thể kiếm được việc trong các “Municipalities” (Công sở trong “chính
quyền địa phương tại thành phố nhỏ ít dân cư/municipality”), nhất là trong một
số văn phòng của chính quyền thuộc các khu vực trong vùng Đại Đô Thị Toronto
(Greater Toronto Area) …
Sở dĩ, ngành Công
Chánh của College của chúng tôi còn sống sót được là vì Ban Giảng Huấn (Civil
Faculty) chúng tôi đã được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các thành viên trong “Civil
Program Advisory Committee” (Ban Cố Vấn bộ môn Công Chánh trường Centennial
College), gồm có một số các kỹ sư chuyên nghiệp (Professional Engineers) đang
làm việc trong nhiều khu vực “Đại ĐôThị vùngToronto/ Greater Toronto Area – GTA
-”, cũng như trong chính quyền Tỉnh Bang Ontario (Ontario Provincial
Government) và một số công ty chuyên về xây cất (consulting engineering firms)…
Những vị này đã giúp cho sinh viên của chúng tôi có chỗ để được đi thực tập
trong mùa hè, nhất là đi xin việc sau khi sinh viên đã tốt nghiệp.
Những vị ân nhân
này đã được chính quyền tỉnh bang Ontario đề cử ra nhập "Civil Program
Advisory Committee" (không ăn lương) để mà họ có cơ hội góp ý kiến cho Ban
Giàng Huấn chúng tôi nên "update" chương trình giảng dậy với mục đích
giúp cho sinh viên theo kịp trào lưu mới mẻ trong ngành nghề.
Chính họ đã
gửi tặng cho Ban Giảng Huấn chúng tôi những tài liệu mới nhất mà họ đang sử
dụng trong công sở của họ. Ngoài ra, Ban Giảng Huấn chúng tôi còn xin được khá
nhiều các "design drawings" (bản vẽ hợp thời) mới nhất đang được sử
dụng trong việc xây cất các “sub-divisions” (các khu đất trống nay đang
được mở mang để xây nhà cửa cho dân chúng) tại vùng "GTA".
Bộ ba chúng
tôi gồm có 3 GS Tom Transit, Rick Chan,và Phan Dam thường hay dùng chung các
bản vẽ (drawings) và tài liệu về xây cất (specifications) để giúp cho chúng tôi có
đầy đủ các chi tiết liên quan đến phần Địa Chánh (Surveying) cho GS TT; Đường
Phố, Cống Rãnh (Roads, Streets, Sewers) cho GS RC và hệ thống Nước Uống (Water
Treatment systems), Nước Phế Thải (Wasted treatment systems), dịch vụ về Rác
Rưởi cho GS PD.
Nhờ vậy mà sinh
viên của chúng tôi được am tường hơn vể công ăn, việc làm liên quan đến ngành
công chánh trong tỉnh bang Ontario để rồi biết cách
đi xin việc sau khi đã ra trường.
Cá nhân người viết
đã rất may mắn được College đề cử làm GS Đại Diên (Civil Faculty
Representative) của Trường Công Chánh (Civil Engineering Technology Department)
để phụ giúp ông Giáo Sư Trưởng Phòng luân phiên (2- years- term- Civil
Coordinator trong suốt thập niên 1980) trong những buổi họp ban đêm.
Nhờ sự giúp đỡ rất
hữu hiệu của các vị cố vấn này mà chúng tôi đã có thể thay đổi nội dung ngành
nghề hàng năm (annual curriculum change), nhất là những khi mà ngân quỹ về
giảng dạy của chúng tôi liên tục bị Bộ Đại Học và Đại Học Cộng Đồng tỉnh bang
Ontario cắt giảm.
Vấn nạn to tát nhất
của Chương Trình Công Chánh cấp cao đẳng trong toàn tính bang Tại Ontario : một số các sinh
viên sau khi đã ra trường phải gia nhập nghiệp đoàn “Ontario Association of
Certified Engineering Technicians and Technologists / OACETT) cho các ngành:
Điện, Cơ Khí, Hóa Học, Công Chánh… Nhiều công ty đòi hỏi nhân viên phải có "membership
licence" là một CET với OACETT (Thí dụ như: John Doe, CET là một Cán sự
của hiệp hội cán sự OACETT hay Jane Smith, P.Eng. là một Kỹ Sư của Hiệp Hội Ký
Sư của tỉnh bang Ontario thì mới được hãng sưởng thuê để làm việc theo đúng
chức năng…)
OACETT đòi hỏi các
điểu kiện khắt khao trên phương diện hoc vấn. Có nghĩa là Phân Khoa Kỹ Thuật
của chúng tôi phải giảng dậy rất kỹ càng. Muốn vậy, chúng tôi phải dậy rất quy
củ, có nghía là, nhà giáo chúng tôi cấn phải có nhiều thì giờ để giảng dạy cho
đâu vào đó trong khi đó, vì thiếu ngân sách, nhà trường phải cắt ngân sách… Cái
vòng lẩn quẩn…
Hầu hết các thành
viên của "Advisory Committee members", ngoài chức vụ cải tổ chương
trình Công Chánh của chúng tôi, họ còn đóng vai làm trọng tài để thương lượng
với bộ Đại Học và Đại Học Cộng Đồng (Ministry of Colleges and Universities,
MCU) trên phương diện ngân sách tối thiểu cho các ngành nghề trong Phân Khoa Kỹ
Thuật.
Kết cuộc là: trong
cuối thập niên 1980, MCU đã quyết định đóng cửa một số bộ môn (Departments)
trong một số các trường (Colleges) vì Chính Phủ Tính Bang không có đủ ngân quỹ.
Năm 1996, Civil Department của chúng tôi đã bị đóng cứa vì lý do thiếu ngân
sách…
May thay, cá nhân
chúng tôi đã được thuyên chuyển sang ngành Enviromental Protection Department
trong năm 1990…cho nên người viết không bị mất việc như các đồng sự Công Chánh
khác
* * *
Đầu thập niên 1970,
bà nữ giáo sư MK, chỉ có kinh nghiệm về “Structures” trong ngành Công
Chánh của chúng tôi. Bà được chỉ định dạy những môn liên quan đến các vấn để
tính toán (design), và soạn thảo các bản vẽ (technical drawings), cho nên
bà không gặp trở ngại gì.
Ba năm sau đó, bà
bị bắt buộc phải dạy môn” Nước Uống và Nước Cống (Water Supply and Sewerage)”.
Các giáo sư bị bắt
buộc phải dạy một số môn học khác nhau, dựa theo cái “Legal contract between
Faculty and College”). Môn này thuộc vào loại “killer” vì rất khó dạy và người
giáo sư cần phải soạn bài rất kỹ càng để có đủ kiến thức; phải ăn nói rất nhiều
(descriptive subject) và phải dùng đến các tài liệu về phim ảnh (films, slide
shows) để chiếu cho sinh viên xem cho “up-to-date”)… Ngoài ra bà còn phải có
bổn phận phải mang sinh viên đi viếng thăm nhà máy lọc nước uống cũng như nhà
máy lọc nước cống… có nghĩa là người giáo sư bị bắt buộc phải đọc sách rất
nhiều và sửa soạn kỹ càng các tài liệu giảng dạy cho sinh viên trong khi đó, vì
một lý do gì đó bà không ngồi soạn bài ở nhà cho đâu ra đó .
Bà bèn nảy ra sáng
kiến: cuốn “text book” (sách giáo khoa) của môn đó có 12 chương (chapters)
chính, bà chia ra 12 nhóm sinh viên trong lớp (mỗi nhóm có 2 hay 3 sinh viên) .
Mỗi nhóm phải tự soạn bài và sau đó cả nhóm phải đứng trước mặt cả lớp để trình
bày nội dung của chương sách cho cả lớp trong khi đó bà không phải soạn bài gì
hết.
Trong niên học,
sinh viên phản đối mãnh liệt vì họ đi học chứ họ không phải dạy cho cả lớp thay
thế cho bà. Sinh viên đã viết thư khiếu nại đến văn phòng ông Khoa Trưởng. Kết
quả là sau năm đó, bà giáo sư MK đã xin College chuyển sang ngành Kiến Trúc để
dạy những môn liên quan đến phần tính toán trong ngành Kiến Trúc… nhưng rồi vài
năm sau, bà đã trở thành vị nữ Khoa Trưởng (Dean) đầu tiên của Phân Khoa Kỹ
Thuật (vì nhà trường đang cần một Khoa Trưởng là một phụ nữ dựa theo tinh
thần “equity employment” sau khi ông Khoa Trưởng đương nhiệm bị mất chức . Nhưng
sau đó vài năm, bà cũng mất chức Khoa Trưởng luôn…
Một hôm,
trong lúc ăn trưa của nhân viên nhà trường, một ông giáo sư trường Điện đã khôi
hài như sau:
“Those who can
work, work. Those who can not work, teach. Those who can not teach,
administer!”
Đây là lời nhạo
báng của ông ta để ám chỉ đến ông “Chair” của Trường Điện và Bà Dean MK của
Phân Khoa Kỹ Thuật vì 2 vị này đã từng là GS, sau đó họ trở thành dân “Admin
(Chair, Dean)
Người viết đã bị
bắt buộc phải dậy môn Nước Uống và Nước Cống ngay sau khi bà GS MK “nhảy rào”
sang ngành Kiến Trúc.
* * *
Đã biết trước được
cái “hung tin” này, một năm trước khi chúng tôi bắt buộc phải dậy môn đó thay
bà MK, sau khi tất cả các ông giáo sư đàn anh chiếm hết các môn “dễ dạy”. “Giáo
Út” phải nhường nhịn các “ông anh yêu dấu”…
Bèn phải lập kế
hoạch ngay lập tức: lên thư viện của Campus để kiếm tất cả các sách giáo khoa
(Text Books, Reference Books) liên quan đến ngành Công Chánh.
Chúng tôi ngồi
xuống nói chuyện với bà “Reference Librarian” của Progress campus đế nhờ bà
lùng kiếm thêm các cuốn sách liên quan đến ngành “Public Works” không những của
nhà trường mà còn trong các “Public Libraries” và nhất là các thư viện của các
Colleges và Đại Học trong tỉnh bang Ontario , qua hệ thống “Inter Loan” của
Tỉnh Bang Ontario nữa. Bắt đầu phải làm việc ngay tức thì.
Mùa hè năm 1979 là
một mùa hè đẹp tuyệt trần đời cho “Giáo Út”: mỗi buổi sáng, PD để vài cuốn sách
liên quan đến các dịch vụ về ngành Công Chánh vào trong chiếc xe đẩy của con
trai út mới sinh vào giữa tháng 4 năm 1979. Mẹ của cu Út đưa cho Bố của cu út
một bình sữa đã được pha sẵn cùng với vài cái tã… Bố đẩy xe cho con trai ra cái Park gần nhà. Khi thằng
cu đang nằm ngủ, ông bố trẻ bèn mở từng cuốn sách ra để đọc qua loa các chương
sách. Cuốn sách nào thấy cách trình bày không “hot” cho lắm, bèn gấp nó lai,
ghi “notes” rồi giở sang cuốn khác, không quên ghi chép nội dung của từng
chương một – Đây là một mùa hè rất tươi đẹp cho tôi: vừa trông con, vừa sứa
soạn / xem từng cuốn sách một để sau này đi kiếm tài liệu mà không phải tốn quá
nhiều thì giờ
Khi viết đến những giòng này thì “cu út” đã 45 tuổi
và đang say mê làm việc tại New York! Thời gian qua mau!
Tôi đã may mắn chọn ra được một số sách rất khá hợp
trong ngành “Public Works” (Công Chánh) và “Environmental Protection” (Bảo Vệ
Môi Sinh) cho những môn học phải “nói nhiều” (descriptive subject) trong những
năm về sau này để làm tài liệu mỗi khi đi tìm kiếm các tài kiệu liên quan đến
một số các môn học mà tôi phải dạy mãi cho đến khi tôi về hưu non ở tuổi 60.
Theo lời đề nghị của bà “Reference Librarian”, tôi gặp
bà “Campus Librarian” JD để tìm cách “khuyếch trương” các sách giáo khoa cho
ngành Công Chánh.
JD và PD đã quen biết nhau từ đầu thập niên 1970. Cả
hai chúng tôi đều là “có job” đầu tiên tại College. JD gia nhập College sau tôi
vài năm, JD thua tôi vài tuổi. Chúng tôi rất thân nhau: con gái đầu lòng của JD
sinh cùng năm với con trai út của chúng tôi… Rồi cả hai chúng tôi đều được
chuyến sang khuôn viên mới (Progress Campus) để làm việc.
JD cho biết tin vui: thư viện có ngân sách mua
các sách Giáo Khoa cho các phân khoa Kỹ Thuật (Technology), Thương Mại
(Business), và Y Tế (Health Science)… Bà sẵn sàng mua thêm sách giáo khoa cho
ngành Công Chánh nếu tôi nộp cho bà một cái danh sách có tên những cuốn sách mà
chúng tôi muốn có.trong Thư Viện Sau đó, bà còn nhờ tôi nộp cho bà một cái
danh sách về các cuốn sách cho ngành Kiến Trúc nữa.
Bafiệu tôi với 3 vị
“Library Technicians”. Một bà chuyên môn đi “book film” (đi lùng các tài liệu.
phim ảnh liên quan đến kỹ nghệ xây cất và các dịch vụ về rác rưởi, điện nước ở
ngoài đời và nhất lá các hãng dầu xăng như “Shell”, “Esso”…).
Các tài liệu này
đểu không tốn ngân quỹ nhà trường (free service) gì hết. Bà này tự tiện “book”
các phim 8mm dùm cho tôi. Mỗi khi cuốn phim nào mà thư viện nhận được, 1 trong
2 ông “Library Technicians” sẽ tự ý lắp phim vào máy chiếu phim (film
projector) và báo cho tôi biết ngay lập tức. Trong thư viện còn có phòng cho
tôi ngồi xem phim. Dĩ nhiên là tôi luôn luôn mang theo một cuốn sổ tay để ghi
lại nội dung, tựa đề, xuất sứ, “cataloguing number” của từng cuốn phim một để
giúp cho thư viện “book dùm cho tôi một cách dễ dàng và nhanh chóng trong tương
lai…Khi có ngân quỹ, Thư Viện còn mua luôn vài cuốn phim để làm tài liệu giảng
huấn cho chúng tôi nữa.
Nhiệm màu thay, cái
“nhóm đi lùng phim ảnh” của chúng tôi đã “mang về dinh được ột số phim tài liệu
mà không bị quá phí tồn về tiền bạc: chúng tôi đi đi gõ cửa rất đúng lúc.
* * *
Rác rưởi trong các
thành phố được mệnh danh là “Municipal solid wastes /Garbage “.
“Food wastes,
Kitchen wastes” trong tiếng Anh nêu rõ các phần rác rưởi từ đồ ăn trong bếp hay
trong các hiệu ăn. Danh từ “Rubbish” cũng hơi giống danh từ “Garbage” nhưng
trong “Rubbish” không có những rác rưởi liên quan đến đồ ăn (Food wastes)
Rác rưởi trong các
đô thị bao gồm nhiều thành phần (composition) khác nhau cho nên phần rác rưởi
trong các thành phố cũng không đồng nhất cho lắm. Trong những thành phố mới mở
mang, trên phương diện rác rưởi, loại rác liên quan đến các phần “plastic” hay
những loại rác có thể dùng lại được sẽ được loại riêng ra.
vào đầu thế kỷ thứ
20, khoảng 53% rác rưởi ở bên Anh gồm có tro đốt của than đá, đến từ các lò đốt
than để sưởi nhà. Ngoài ra còn có rác từ thức ăn, đồ mua từ chợ, các hộp
bằng chất plastic, đồ đóng thùng và các thứ lặt vặt trong nhà cửa của dân
chúng, từ các nơi buôn bán (commercial), các cơ sở (institutional), các hãng
xưởng trong kỹ nghệ (industry) …
Các loại rác này
(house hold solid wates) thường không chứa các đồ phế thải trong kỹ nghệ, đồ phế
thải trong ngành canh nông, trong các cơ quan y tế, đồ phế thải của các chất
quang tuyến (radioactive materials), đồ phế thải trong nước cống (sewage
sludge).
Các đồ phế thải này
được chính phủ địa phương (municipality) hốt đi (collected), theo từng
khu vực một. Khi xe rác đã đầy (garbage trucks), tài xế lái xe rác đến
cái “Transfer Staion”, rồi thải rác. Tại nơi này, rác được loại ra theo kiếu
“wastes”, “recycle wastes “. Loại “wastes”được bỏ vào các xe chở rác rất dài
rồi chở thẳng ra bãi rác (landfills) để đem chôn (Xin mời xem youtubes ở phía
dưới).
Các đồ phế thải này
đượcphân loại như sau:
– Bio degradable
wastes (rác rưởi được thiên nhiên hấp thụ) gồm có: đồ ăn, rác trong bếp, các
cọng rau, giấy…
– Recyclable
materials: vật liệu có thể tái chế biến như giấy, thùng carton, thủy tinh,
chai, lọ, hộp bằng kim loại, đồ bằng nhôm, một số các loại pin
(batteries),
– Inert wates: chất
thải bền vững như: vật liệu xây cất, vật liệu sửa nhà, đá (stone), bê
tông…
- Electrical and
electronic wastes (dụng cụ trong ngành điện, điện tử…), bóng đèn, máy móc, TV,
telephones, đồng hồ chạy bằng điện…
- Composite wastes
(chất thải tổng hợp) như : các đồ carton , đồ chơi, các dụng cụ
bằng plastic dùng ngoài vườn..
- Hazardous wastes
(chất thải nguy hiểm) như: các loại sơn, các chất hóa học, lốp xe (xe đạp, xe
hơi), các loại pin, bóng đèn, các dụng cụ chạy bằng điện, các đèn nê ông, các
loại thuốc xịt, các chất thải bằng phân bón.
Xin nhắc Quý Vị đừng đổ bất cứ chất lỏng hóa học nào
trong vườn nhà mình hay trong bất cứ nơi nào khác. Lý do: các
chất hóa học độc hại này sẽ ngấm vào dòng nước trong lòng đất rồi chảy ra các
sông ngòi làm nguy hại đến con người và các động vật như cá, tôm…
– Toxic wastes:
(chất thải độc hại gồm có các thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ dại (herbicides),
thuốc trừ nấm (fungicides)…
– Bio medical
wastes (chất phể thải trong ngành y sinh học)
Các dịch vụ về rác rưởi tại vùng Đại Đô Thị Toronto , Canada :
Người viết là một
cư dân tại vùng Toronto, Canada đã lâu năm cho nên xin dùng nơi này làm “cứ
điểm” để mà… biết gì, viết nấy:
Nếu người dân ở
trong một căn nhà, trong nhà bếp cần phải có 2 cái thùng rác (garbage cans); 1
cái (A) cho “kitchen garbage” (gồm đồ ăn bỏ đi, giấy gói, đồ quét rác trong
nhà…), một thùng rác khác (B) đựng các chai, lọ bằng thủy tinh, các hộp đựng đồ
ăn bằng kim loại hay bằng plastic, các sách vở, báo chí…
Rác thuộc loại (A)
sẽ được mang ra khỏi nhà và bỏ vào một thùng rác lớn (màu xanh lá cây) cao gần
1 mét, được đậy nắp rất kỹ để cho các con “racoon” (chồn Canada ) không mở nắp được.
Rác thuộc loại (B)
cũng giống như loại (A) nhưng có màu xanh đậm để chứa các loại rác (B).
Mỗi tuần (giả dụ
như ngày Thứ Ba), rác loại (A) được xe hốt rác (garbage truck) đến từng căn nhà
để lấy đi (collected) rác loại (A) này rồi đổ vào xe hốt rác. Sau khi xe hốt
rác đã đầy, xe hốt rác chạy thẳng đến nơi nhận rác, được mệnh danh là Transfer
Station, rồi thả rác tại nơi đó.
Vào
ngày (giả dụ như Thứ Sáu), rác loại (B) được xe rác đén hốt đi, giống như hôm
Thứ Ba.
Trong các building
cao ốc, mỗi căn hộ (apartment: cho người ở thuê ; condo: cho người đã mua căn
hộ ) cũng phải theo quy luật như (A) và (B) đã nêu ra. Thường thì loại rác (A)
được vứt đi qua một cái “chute” ở mỗi từng lầu. Loại rác (B), dân chúng phải
mang xuống tầng trệt và bó vào một nơi đặc biệt. Mỗi tuần, sẽ co một xe rác đến
mang đi rác loại (A) và rác loại (B) đến cái “Transfer Station”.
YOUTUBES VỀ “GARBAGE COLLECTION & TRANSFER
STATIONS”
1. Bãi rác được lấp
đất
2. Một bãi rác tại California
3. Một bãi rác không
được lấp đất tại Serbia , Âu Châu.
4. Rác được “hỏa
thiêu” ở nhiệt độ cao:
Tai họa:
Rất tốn tiền
Rất bụi bậm
Gây mưa acid
Một số dân chúng có
thể bị dị ứng
Kết quả: Không nơi nào dám đốt rác nữa.
5. Thống kê cho thấy: Mỗi người dân sống trong các thành
phố xả 700 kg rác
trong mỗi năm trong khi đó Nhật Bản và một vài thành phố đang cố gắng không còn
xả rác trong tương lai.
Trong nhiều thành phố bên Nhật, rất khó kiếm được
thùng rác công cộng lắm. Mục đích là dân chúng phải cố gắng tránh việc xả rác.
Liệu các nơi khác có thể xả rác ít đi hay không?
* Đàm Trung Phán
GS Công
Chánh hồi hưu.
Mississauga,
Canada
Feb. 18,
2024
Tài
lệu ham khảo:
Internet
Wikipedia
Youtube
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire