Chín Mươi Năm Nhìn Lại Cuộc Đời 1930 - 2020 - Tập 1/2 * Phạm Bá Hoa


Lời nói đầu.
Thưa quí vị,
Tôi chào đời năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
Năm 1937, học sơ học tại Đại Ngãi, và học tiểu học tại Sóc Trăng.
Năm 1944, chuyển sang Bến Cát quận Cầu Kè tỉnh Trà Vinh vì Ba tôi làm cho nhà máy xay lúa ở đó.
Giữa năm 1945, theo Ba Má tôi dọn về quê Nội ở Nha Mân, Sa Đéc, vì ngay sau thế chiến thứ hai thì thực dân Pháp quay lại chiếm Việt Nam, và cộng sản Việt Nam dưới võ bọc Việt Minh chống Pháp.

Đầu năm 1947 tôi lên Sài Gòn, vừa làm thợ may (sau 6 tháng học) vừa học trung học lớp đêm.
Năm 1949, Ba tôi bị Việt Minh cộng sản bắt, trong khi Má tôi và các em tôi vẫn ở Nha Mân. Năm 1952, Ba tôi được chúng thả về trong tình trạng kiệt sức.
Ngày 12 tháng 5 năm 1954 vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, hai tuần sau đó thì Bộ Quốc Phòng đưa lên học nhờ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vì Trường Thủ Đức không đủ cơ sở. Học xong, trở về Thủ Đức dự lễ tốt nghiệp tại Sài Gòn với cấp bậc Thiếu Úy ngày 1/2/1955.
Đơn vị đầu tiên là Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân đồn trú tại Vĩnh Long.
Tháng 11/1955, theo Tiểu Đoàn chuyển lên Cheo Reo (sau này là tỉnh Phú Bổn) trong chương trình thành lập Trung Đoàn 35 trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Đầu năm 1956, Trung Đoàn 35 chuyển đến đồn trú cạnh đồn điền trà Catecka cạnh quốc lộ 19 bis Pleiku - biên giới Cam Bốt. Tôi được cử đi học khóa Đại Đội Trưởng tại Chi Nhánh Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Giữa năm 1956 mãn khóa, trở về Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 35/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến.
Đầu năm 1957, tôi được thăng cấp Trung Úy. Được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó.

Đầu năm 1958, Trung Đoàn 35 chuyển lên Kontum cũng là dãy Trường Sơn nhưng cao hơn Pleiku, cùng lúc tôi được chuyển lên Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 35 giữ chức Trưởng Ban 3 kiêm Trưởng Ban 5.

Tháng 3/1958, tôi về Vĩnh Long cưới vợ, và chúng tôi cùng sống bên nhau tại Kontum.
Tháng 4/1959, Sư Đoàn 12 Khinh Chiến cũng như các Sư Đoàn Khinh Chiến khác- lần lượt giải tán để thành lập Sư Đoàn Bộ Binh. Tôi được chuyển đến Sư Đoàn 11 Khinh Chiến đồn trú tại Sa Đéc, và trách nhiệm Trưởng Ban Hành Quân/Phòng 3 Bộ Tham Mưu Sư Đoàn.

Tháng 6/1959, Sư Đoàn 11 chuyển lên đồn trú tại Bến Kéo cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 6 cây số, và tiếp nhận Sư Đoàn 13 Khinh Chiến giải tán để thành lập Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ ngày 1/7/1959.
Tháng 3/1960, Sư Đoàn 21 Bộ Binh chuyển trở lại Sa Đéc phụ trách hành quân an ninh các tỉnh bờ bắc Sông Tiền và các tỉnh Vĩnh Long Vĩnh Bình Sa Đéc trên dãi đất cù lao giữa Sông Tiền với Sông Hậu.

Tháng 6/1960, tôi theo học khoá tham mưu tại Trường Đại Học Quân Sự, đồn trú trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Học xong, trở về Sư Đoàn 21 Bộ Binh vẫn chức vụ Trưởng Ban Hành Quân/Phòng 3 Bộ Tham Mưu Sư Đoàn. Đầu năm 1961 Bộ Tham Mưu Sư Đoàn chuyển sang đồn trú tại thị xã Cần Thơ.

Tháng 11/1961 tôi được thăng cấp Đại Úy, và giữ chức Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh.

Tháng 12/1962, tôi thuyên chuyển lên Bộ Tổng Tham Mưu và giữ chức Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân.

Tháng 11/1963, được thăng cấp Thiếu Tá, giữ chức Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 9/1965, được thăng cấp Trung Tá.

Tháng 12/1966, chuyển xuống Cần Thơ giữ chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh.

Tháng 4/1968, chuyển về Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu, trách nhiệm nghiên cứu và cải tổ về tổ chức và nhiệm vụ Đại Đội Hành Chánh Tiếp Vận của hơn 40 Tiểu Khu, thành Trung Tâm Hành Chánh Tiếp Vận Tiểu Khu với “bảng cấp số” có 5 loại A, B, C, D, E, tùy theo quân số Địa Phương Quân & Nghĩa Quân từng Tiểu Khu (A là quân số ít nhất, và E là quân số từ 10.000 người trở lên).

Tháng 6/1969 thăng cấp Đại Tá. Trách nhiệm Trưởng Ban Nghiên Cứu chuyển công tác quản trị các loại quân trang quân dụng toàn ngành Tiếp Vận bằng tay, sang công tác quản trị bằng máy computer từ năm 1971. Bắt đầu bằng máy computer IBM 360/20, rồi thay bằng máy computer IBM 360/40, và sau cùng là máy computer IBM 360/50.
Tháng 6/1970, theo học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu Cao Cấp tại Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Đà Lạt. Sau khóa học, trở về Tổng Cục Tiếp Vận giữ chức Chánh Sở Kế Hoạch & Chương Trình.

Tháng 2/1972, chuyển xuống Cần Thơ giữ chức Chỉ Huy Phó Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận.
Tháng 6/1972, chuyển về Sài Gòn giữ chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch.
Tháng 12/1974, giữ chức Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975, là ngày thứ 7.583 thời chiến tranh chống cộng sản Việt Nam.

Trong mọi trường hợp, vợ chồng tôi và các con chúng tôi luôn sống bên nhau.
Sau ngày 30/4/1975, tất cả quí vị Tướng Lãnh và hầu hết sĩ quan các cấp cùng với viên chức hành chánh và Dân Biểu Nghị Sĩ, bị cộng sản Việt Nam đẩy vào các trại tập trung. Tất cả sĩ quan cấp Úy và cấp Tá bị giam tại trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh ngày 14/6/1975. Chuyển đến trại tập trung Tam Hiệp tỉnh Biên Hòa ngày 24/10/1975.
Ngày 14 & 16/6/1976, sau khi sàng lọc hầu hết chúng tôi bị chuyển đến trại tập trung trên đất Bắc. Cấp Tướng và cấp Đại Tá di chuyển bằng phi cơ đến Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, các cấp còn lại di chuyển bằng tàu vận tải đến các trại tập trung hầu hết các tỉnh vùng Tây Bắc và Tây Nam Hà Nội.
Tháng 4/1978, cấp Tướng và cấp Đại Tá bị chuyển xuống trại tập trung Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh, và các tỉnh phía Nam và Tây Nam Hà Nội.

Sau cùng là ngày 9/9/1987, tôi trong số 91 tù chính trị cấp Tướng và Đại Tá ra khỏi trại Nam Hà và về đến nhà ở Sài Gòn lúc 6 giờ chiều ngày 12/9/1987 bằng xe lửa.

Sau thời gian làm thủ tục xuất ngoại, vợ chồng tôi đặt chân đến phi trường Houston tiểu bang Texas chiều ngày 5/4/1991 trong đợt H.O.5. Suốt thời gian tôi bị giam trong trại tập trung, vợ tôi đã lần lượt tìm cách cho năm con chúng tôi vượt biển, tất cả đều an toàn và định cư tại Houston, Hoa Kỳ. Sau những năm "cực mà vui" vợ chồng tôi ổn định cuộc sống, lần lượt tôi viết được:
Quyển "Đôi Dòng Ghi Nhớ". Tôi kể lại những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, những gì mà mắt tôi thấy, và những gì mà tai tôi nghe, từ cuộc Đảo Chánh ngày 1/11/1963, Chỉnh Lý ngày 30/1/1964, Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/9/1964, Đảo Chánh 19/2/1965, Quân Đội Lãnh Đạo Quốc Gia từ ngày 19/6/1965, Khủng Hoảng Chính Trị từ ngày 9/3/1966, và năm cuối cùng của chiến tranh bảo vệ tổ quốc dân tộc cho đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975, khi quân cộng sản Việt Nam, tôi gọi là Việt Cộng - từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ cộng sản độc tài, tràn vào nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo.
Do nhà sách Ngày Nay tại Houston ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và nhà sách Tú Quỳnh tại Nam California ấn hành năm 2007. Mỗi lần ấn hành, đều có bổ túc thêm nội dung

Quyển "Ký Sự Trong Tù". Trong một góc độ nào đó, tôi cố gắng ghi lại nét nhìn của tôi khi quân cộng sản từ ngoài rừng tràn vào thủ đô Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975, với nội dung chính được dựng lại một số góc cạnh xã hội của nước Việt Nam, đã và đang bị các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam biến thành một xã hội mà mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng trong nghèo đói. Riêng hằng nửa triệu gia đình công dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi mà cộng sản gọi là “ngụy quân ngụy quyền”, càng bị đối xử khắc nghiệt trong xã hội đó.

Do nhà sách Tú Quỳnh tại Nam California ấn hành năm 2008.
Quyển "Quê Hương & Quân Ngũ". Quê Hương, cho dù bất cứ người Việt Nam nào chưa hề leo núi qua đèo đến tận Ải Nam Quan cực bắc, cũng chưa hề băng đồng lội ruộng hay xuôi dòng sông rạch đến tận Mũi Cà Mau cực nam, nhưng từng tấc đất tấc biển thân thương vẫn trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta, vì đó là Quê Hương Việt Nam. Càng xa đất nước, chúng ta càng thấm thía sâu sắc hai chữ Quê Hương để mà thương mà nhớ! Bởi, quê hương đất nước của mình là cái gì mà mình không chọn lựa, nhưng là dãi đất mà tổ tiên ông bà cha mẹ mình chào đời cũng là nơi an nghĩ vĩnh cửu, cho nên mình yêu thương trân quí một cách tự nhiên. Trong một khoảnh khắc yên ắng nào đó, bất chợt quí vị nhận ra tình cảm của mình dù đang là công dân bản xứ, nhưng rõ ràng là mình có yêu thương đất nước bản xứ đến đâu đi nữa, cũng khó lòng mà thương như thương dãi đất quê hương Việt Nam nghèo khổ của mình!

Quân ngũ, với tôi là trường học tốt cho tuổi thanh niên. Đây là tổ chức qui mô nhất, chặt chẻ nhất, là một trong những hợp phần gộp lại biểu thị quyền lực quốc gia. “Trường học trong quân ngũ” là những mái trường đào tạo từ người quân nhân thấp nhất đến cao nhất, đào tạo từ khả năng tổng quát đến chuyên môn, từ tổ chức Tiểu Đội, Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, đến Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn. Chính những mái trường quân sự, từng bước tạo cho Người Lính chẳng những có căn bản vững chắc về quân sự, mà còn trang bị cho Người Lính một căn bản về tổ chức và quản trị trong phong cách Người Lính trong quân ngũ, lẫn phong cách Người Quản Trị trong các ngành sinh hoạt quốc gia. Hơn hết, là tình đồng đội tiêu biểu “trái tim thứ hai trong Người Lính”, bởi trên chiến trường súng nổ đạn bay, đồng đội này ngã xuống đồng đội khác tiến lên, lúc ấy bất cứ Người Lính nào cũng sẳn sàng cứu giúp đồng đội mà không hề nghĩ đến tính mạng của mình, cho dù đã có biết bao trường hợp Người Lính cứu đồng đội nhưng chính mình hi sinh!

Quyển "Tôi Là Một H.O.". Tôi là một thành viên nhỏ bé li ti trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung (khoảng 3.000.000 người), và tại Hoa Kỳ nói riêng (trên dưới 2.000.000 người), tôi kể lại cuộc đời tị nạn rất cực nhưng rất vui của vợ chồng tôi trong những năm đầu trên đất Hoa Kỳ. “Rất cực” vì trong những năm đầu chúng tôi phải cặm cụi làm việc ban ngày lẫn ban đêm. “Rất vui” vì được cùng các con sống trong một xã hội dân chủ pháp trị được xem là bậc nhất của thế giới. Trong điều kiện an cư lạc nghiệp đó, tôi tham gia sinh hoạt Cộng Đồng và sinh hoạt trên hệ thống internet, trong mục đích góp phần dân chủ hóa Việt Nam.

Quyển "Bằng Hữu Gần Xa” tập 1, tập 2, tập 3. Từ năm 1998, tôi có nhiều cơ hội liên lạc với các đồng môn dưới những mái trường xưa, với các bạn đồng đội suốt chiều dài 21 năm phục vụ quân ngũ trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc dân tộc, với các bạn đồng tù trong một số trại tập trung của cộng sản, và những bằng hữu trên các diễn đàn mà tôi chưa một lần tay bắt mặt mừng, cùng nhau trao đổi:
Thứ nhất. Những tài liệu trong nội dung quyển "Đôi Dòng Ghi Nhớ" và quyển "Ký Sự Trong Tù".
Thứ hai. Những tin tức thời sự Việt Nam và thế giới.
Thứ ba. Những quan điểm về nhiều vấn đề trong sinh hoạt Cộng Đồng.
Thứ tư. Những tâm tình của người dân Việt trong đời sống lưu vong.
Thứ năm. Và ước vọng góp phần vào công cuộc dân chủ hóa chính trị trên quê hương Việt Nam.

Quyển “Thời Sự Việt Nam 2001-2006”, với nội dung chọn lọc trong số 312 bài mà tôi viết và diễn đọc trên làn sóng đài phát thanh TNT từ năm 2001 đến 2006. Mỗi tuần một bài 15 phút trong năm thứ nhất, và từ năm thứ hai trở đi thì mỗi bài dài 30 phút, xoay quanh chủ đề “Những Vấn Đề Hôm Nay” bao gồm bốn lãnh vực:
Một. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Hai. Dân chủ và nhân quyền.
Ba. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bốn. Thành công của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại.
Trong cùng thời gian, tôi tham gia Ban Phát Thanh "Tiếng Chuông Tĩnh Thức" từ tháng 4/1998 đến tháng 1/2008. Trưởng Ban là Anh Võ Minh Thế, một cư sĩ tu tại nhà. Mỗi tuần phát thanh một show trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, gọi tắt Anh ngữ là VOVN. Tôi đã đọc 98 bài của các vị Tỳ Kheo Tây Tạng, Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, ..v..v..
Từ năm 2010 cũng là năm tôi vào tuổi 80, tôi không tham gia tổ chức nào nữa -ngoại trừ Hội đồng hương Vĩnh Long Vĩnh Bình Sa Đéc- vì tôi e rằng đến lúc nào đó bản thân tôi không kiểm soát được sự suy nghĩ cũng như lời nói của mình, sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt của tổ chức. Nhưng, tôi tự hứa là vẫn sinh hoạt với tính cách cá nhân, cho đến khi không thể. Thật ra thì tôi đã chuẩn bị cho sinh hoạt cá nhân khi nhận lời cộng tác với:
- Đài VAN TV 55.2 với chương trình “Tản Mạn Lịch Sử 1954-1975” trên đài VAN TV 55.2 trong những năm 2009 – 2011. Hai tuần một show 30 phút.
Sau đó, tôi cộng tác với:
- Đài SGN TV 51.3 trong những năm 2011 - 2014 với chủ đề "Nhìn Lại Trang Quân Sử". Hai tuần một show 30 phút.
- Và đài ABTV 55.4 từ tháng 1/2015 với chủ đề "Chuyện Ngày Tháng Cũ". Đến nay -tháng 3/2020- là show thứ 267 và vẫn tiếp tục, trong mục đích góp phần triệt tiêu chế độ cộng sản độc tài trên quê hương Việt Nam. Mỗi tuần một show 30 phút, và chiếu bốn lần trong tuần.

Thêm nữa, từ tháng 11/2011, tôi bắt đầu viết thư gởi người lính cộng sản Việt Nam trong mục đích giúp họ nhận ra tội ác của các nhóm lãnh đạo Việt Cộng, đồng thời cuốn họ về phía đồng bào, để lật đổ chế độ cộng sản độc tài tàn bạo với dân, nhưng vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng. Mỗi tháng ít nhất là một lá thư dài 7 hoặc 8 trang, và tùy theo tình hình Việt Nam mà tháng nhiều nhất là bốn lá thư. Những lá thư thứ hai thứ ba trong tháng, kèm theo mẫu tự a, b, c, theo sau số thứ tự của thư. Thí dụ: Tháng 5/2014 là Thư số 31, thì thư thứ 2 thứ 3 trong tháng 5/2014 là Thư số 31a, Thư số 31b. Tháng 3/2020 là Thư số 101, và vẫn tiếp tục ...

Trên đây là suốt chặng đường 90 năm -1930 đến 2020- mà tôi cố gắng dựng lại với những lời thuật trên trang giấy, qua lời kể trên đài truyền thanh Audio, đài truyền hình Video, cùng với những video sinh hoạt trong gia đình, và những video du lịch qua từng thời gian, với hy vọng đây là bài học kinh nghiệm giúp các Con các Cháu chúng tôi và thân nhân thân quyến chúng tôi -trong mức độ nào đó- hiểu được quan niệm sống trong mái ấm gia đình, hiểu được trách nhiệm thành viên trong xã hội, và hiểu được bổn phận công dân đối với quê hương đất nước, nhất là quê hương đất nước trong thời chinh chiến của vợ chồng tôi.
Xin mời quý vị vào nội dung ....
*  *  *

Trang
Phần Một: NỀN TẢNG QUAN NIỆM SỐNG                                                         11
1. Tôi chào đời năm 1930                                                                                          11
2. Quê tôi làng Đại Ngãi                                                                                            13
3. Lời dạy của Sư Ông chùa Vạn An                                                              22
4. Quan niệm sống của vợ chồng tôi                                                                            26
5. Đôi lời với từng cháu Nội/Ngoại trước khi cháu bước vào xã hội                 29
6. Ước mơ cuối đời của vợ chồng tôi                                                                          50

Phần Hai. VIỆT NAM QUA DÒNGLỊCH SỬ (tóm tắt)                                            55
7. Tổ quốc Việt Nam                                                                                                 55
8. Việt Nam thời cổ đại vừa chống Trung Hoa vừa mở nước 0039 – 1857                 61
9. Việt Nam thời cận đại bị thực dân Pháp cai trị 1858 - 1945                                    95
10. Chiến tranh giữa Pháp thực dân với Việt Minh cộng sản 1945 - 1954                   99
11. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam hình thành 1950 - 1954                                         115
12. Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức 1954                                                 118
13. Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân 1955 Vĩnh Long - Cheo Reo                                     136
14. Trung Đoàn 35 Bộ Binh 1956-1959 Pleiku & Kontum                                         160
15. Sư Đoàn 21 Bộ Binh 1959-1962 Sa Đéc - Tây Ninh - Cần Thơ               183
16. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH 1962 - 1966 Sài Gòn                              203
17. Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh 1966 - 1968                           344
18. Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu 1968 - 1971 Sài Gòn                            366
19. Cục Mãi Dịch 1972 - 1974 Sài Gòn                                                                    383
20. Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ TTM 1974 -1975 Sài Gòn                                              397
21. Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975 ngày thứ 7.583 chống Việt Cộng                              441

Phần Ba. TRẠI TẬP TRUNG CỦA CSVN SAU NGÀY 30/4/1975                                    455
22. Trước ngày vào trại tập trung ngày 30/4 - 13/6/1975                                            455
23. Trại tập trung Long Giao (Long Khánh) ngày 14/6 - 10/1975                               475
24. Trại tập trung Suối Máu (Biên Hòa) tháng 10/1975 - 15/6/1976               503
25. Trại tập trung Yên Bái (Hoàng Liên Sơn) 16/6/1976 - 28/4/1978              528
26. Trại tập trung Nam Hà (Hà Nam Ninh) 29/4/1978 - 9/9/1987                              591
27. Ra khỏi trại tập trung sau 4.444 ngày tù chính trị                                       732

Phần Bốn: TỊ NẠN CỘNG SẢN & GÓP PHẦN CHỐNG CỘNG SẢN                 749

Tị nạn cộng sản
28. Chờ đợi và thủ tục rời khỏi Việt Nam 13/9/1987 - 29/3/1991                               749
29. Đến Houston, Texas, Hoa Kỳ ngày 5/4/1991 tị nạn chính trị                                 761
30. Bước đầu hội nhập xã hội 1991-2001                                                                  757
31. Du lịch đó đây 2002-2006                                                                                   769
32. Niềm vui không đợi                                                                                              780
33. Nhìn lại Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa                                                   784
34. Tưởng niệm những vị tuẫn tiết trong và sau ngày 30/4/1975                                   850
35. Quốc kỳ truyền thống Việt Nam tại hải ngoại 1984-2020                          857
36. Viết phim bản phim Hồn Việt Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam 2012 922 (phim dài 57 phút)
37. Trả lời phỏng vấn 500 người về lịch sử truyền khẩu 2011                          1057

Góp phần chống cộng sản
38. Trao đổi tâm tình và quan điểm với bằng hữu gần xa 2003-2010               1071
39. Hôm nay suy nghĩ cho ngày mai                                                                            1665
40. Những bài viết đưa lên internet 2002-2011                                                          1695
41. Sưu tầm chuỗi tội ác của lãnh đạo Việt Cộng 1945-2020                          1895
42. Thư kêu gọi người lính Việt Cộng đứng dậy cùng đồng bào ...                               1987
Năm 2011       1995 (02 thư)
Năm 2012       2023 (13 thư)
Năm 2013       2143 (19 thư)
Năm 2014       2303 (28 thư)
Năm 2015       2541 (20 thư)
Năm 2016       2715 (19 thư)
Năm 2017       2885 (37 thư)
Năm 2018       3191 (39 thư)
Năm 2019       3447 (23 thư)
Năm 2020       3676 ( 3 thư)
Cộng chung: 203 thư.
(Còn khoảng 8 thư nữa)
*  *  *
Lời nói cuối.
Thưa quí vị,
Vậy là quí vị vừa đọc xong ..... trang giấy mà tôi trích ra từ hai quyển sách đã ấn hành và tám quyển sách không ấn hành, cùng với những loạt bài góp phần dân chủ hóa Việt Nam phổ biến trên internet, gói ghém 90 năm cuộc đời của tôi và gia đình tôi, giúp tôi học được những bài học kinh nghiệm qua từng giai đoạn, và vợ chồng tôi ứng dụng vào cuộc sống. Dưới đây là bốn bài học kinh nghiệm:
Giai đoạn 1930 -1954, với bài học từ Ông Bà Cha Mẹ tôi như sau: “Con phải làm người tử tế trong xã hội. Nhưng, trước khi Con tử tế với xã hội, Con phải tử tế với gia đình trước. Nhưng, trước khi Con tử tế với gia đình, Con phải tử tế với bản thân của Con trước. Đó là danh dự làm người trong xã hội”.
Giai đoạn 1954-1975, với bài học trong 21 năm phục vụ quân đội, như sau: “Quê hương cho tôi đất sống. Lịch sử cho tôi nguồn sống. Dân Tộc cho tôi nếp sống. Quân ngũ cho tôi cách sống. Quân ngũ cũng cho tôi tình yêu. Tình yêu quê hương, tình yêu con người, tình yêu quân ngũ. Và tình yêu, đã cho tôi ý nghĩa cuộc đời”.
Giai đoạn 1975-1991, với bài học trong trại tập trung của cộng sản Việt Nam và trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như sau: “Cộng sản Việt Nam với bản chất độc tài và dối trá, họ sử dụng người dân như một loại phương tiện đa dụng để phục vụ họ. Vì vậy mà chiến lược giáo dục của họ chỉ đào tạo những tầng lớp thần dân để tuân phục họ, chớ họ không đào tạo những thế hệ công dân để xây dựng đất nước. Với lịch sử, đây là tội ác kinh hoàng nhất trong các loại tội ác mà các nhóm lãnh đạo Việt Cộng gây ra cho dân tộc”.
Giai đoạn 1991-2020, với bài học khi tham gia Ban Phát Thanh "Tiếng Chuông Tĩnh Thức" trong 10 năm, cộng với những gì học được khi tham gia sinh hoạt Cộng Đồng trên hệ thống internet, như sau: “Tôi tin chắc rằng, không một ai trong thế giới này có thể nhìn thấy thiên đường và địa ngục, vì thiên đường với địa ngục không phải ở trong bầu trời hay trong lòng đất, mà thiên đường với địa ngục chỉ là một trạng thái tâm hồn. Hãy thử cảm nhận. Khi mình làm điều tốt thì mình cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản với đôi mắt sáng lên, với nụ cười tươi tắn, đó là lúc tâm hồn mình lơ lững ở trạng thái thiên đường, còn khi mình làm điều gì xấu thì mình cảm thấy ray rức, ân hận, giằng xé, thậm chí là đau đớn, đó là lúc tâm hồn mình rơi vào trạng thái địa ngục”.
Cả bốn bài học kinh nghiệm gộp lại cho tôi quan niệm rằng: “Trong gia đình cũng như trong xã hội, bản thân mỗi người là chánh, vì không một ai -dù là người thân của mình- cũng không thể làm thay cho mình những gì liên quan trực tiếp đến bản thân mình trong cuộc sống từ khi vào tuổi thành niên, mà chỉ có thể trợ giúp mình khi mình thật sự cần giúp”.
Thực tế là:
Không ai ăn giùm mình khi mình đói.
Không ai đi học giùm mình khi mình muốn có kiến thức.
Không ai luyện tập giùm mình khi mình muốn có một cơ thể lành mạnh.
Không ai đi làm giùm mình khi mình muốn có đồng lương để chi phí cho cuộc sống.
Không ai uống thuốc giùm mình khi mình muốn hết bệnh.
Không ai bước giùm mình khi mình muốn đi về phía trước.
Không ai tạo dựng hạnh phúc giùm mình khi mình muốn được sống trong mái ấm gia đình.
Không ai đứng dậy giùm mình khi mình vấp ngã và muốn tiếp tục phụng sự.
Và ..v..v...
Đó, chính là mình thương bản thân mình, giúp bản thân mình trở thành người tử tế. Khi mình có tử tế với chính mình, thì mình mới tử tế được với gia đình. Và từ đó, mình sẽ tử tế với mọi người khi hòa mình vào sinh hoạt xã hội”.
“Tại sao mình phải tử tế với xã hội? Bởi, khi chào đời mình đã mang ơn xã hội, từ khu bệnh viện rộng lớn khang trang đến những vật dụng trang bị cần thiết, từ vị Bác Sĩ, cô y tá, giường nằm mền đắp, nước tắm khăn lau, sữa uống kem thoa, đến chuyên viên nấu ăn và công nhân dọn dẹp vệ sinh,..v..v.... Đến tuổi cắp sách đến trường, mang ơn xã hội từ mái trường sân rộng, bàn viết ghế ngồi, đến Giáo Viên Giáo Sư truyền đạt kiến thức + đạo đức + nghị lực, cùng với những phương tiện khoa học kỹ thuật trợ giúp bài học thêm phần thực tiễn. Vì vậy mà khi bước vào xã hội với hành trang kiến thức, hãy miệt mài phụng sự xã hội. Thực tế là mình làm việc có lãnh lương với cuộc sống ổn định, chính là lúc mình trả ơn xã hội dù không ai nhận ra điều đó, đồng thời mình góp phần làm cho xã hội ngày càng tốt hơn dù không ai hiểu được điều đó, lại là những việc mà chính mình cảm nhận niềm vui khi làm được những việc mà mình mong muốn”.
“Guồng máy sinh hoạt xã hội vận hành và phát triển thích ứng theo từng giai đoạn, là do mọi thành viên trong xã hội chung lòng chung sức mà không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, giáo dục cao hay thấp, nghiên cứu bằng đầu óc hay làm việc bằng tay chân, ngành nghề chuyên môn hay những dịch vụ trong đời sống. Cũng không phân biệt từng công việc mà mỗi người trách nhiệm, dù là trách nhiệm lãnh đạo hay chỉ huy, quản trị hay điều hành, cầm súng trong quân đội hay cày bừa trồng trọt trên ruộng đồng nương rẫy, miệt mài trong các công ty hãng xưởng hay những công trình kiến trúc mỹ thuật, quét dọn đường phố nắng nóng hay trong hầm mỏ lạnh lẽo trong lòng đất, ..v..v..., đều là nhu cầu cần thiết cho guồng máy xã hội vận hành và phát triển”.

Vì vậy mà tôi quan niệm rằng: “Mỗi người đều có bổn phận góp phần vào sự phát triển xã hội, cũng là bổn phận nối tiếp dòng lịch sử oai hùng Việt Nam, bảo tồn văn hoá Việt Nam thích nghi qua từng thời đại, bảo vệ ngôn ngữ Việt Nam, và gìn giữ lá quốc kỳ truyền thống Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ đến khi có Quốc Hội Lập Hiến sau thời cộng sản quyết định”.

Kết luận.
“Tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử sách và truyền mãi trong dân gian là do mỗi người tạo nên, bắt nguồn từ thời thơ ấu đến tuổi thành niên và trước khi bước vào xã hội, đã nhìn lại túi hành trang vào đời để biết chắc là mình đã sẳn sàng khối kiến thức học hỏi để làm việc, lòng nhân ái để phân biệt phải trái đúng sai, sự kiên nhẫn để vượt qua khó khăn trở ngại, và một tâm hồn phụng sự quốc gia dân tộc. Rồi từ đó, không ngừng học hỏi kinh nghiệm, vừa góp thêm vào hành trang những gì đang có, vừa thích ứng với mọi hoàn cảnh xã hội qua từng giai đoạn trong cuộc sống”.
Kính chào quý vị./.
*  *  *

Các phụ bản trong hardwrite: (trong sách in không có)
Phụ bản 1: Hình gia đình 1955-2020 với 5.700 tấm hình
Phụ bản 2: Video gia đình sinh hoạt và video du lịch với 220 files. Video góp phần dân chủ hóa Việt Nam trên đài TV 2009-2020 với 590 files
Phụ bản 3: Audio các cuộc phỏng vấn và hội luận với 259 files
Phụ bản 4: Bộ sách gia đình

Aucun commentaire: