Thế Chiến Thứ Hai đang diễn ra, Hoa Kỳ đứng ngoài vòng. Khi bắt đầu Thế
Chiến Nhật có 10 Hàng không mẫu hạm lớn và tối tân nhất thời đó. Ngày 7/12/1941
Nhật đem Hạm đội đánh Trân Châu Cảng gây thiệt hại nặng và kinh khiếp cho Mỹ:
20 tầu chiến bị chìm, hư hại,
gần 200 máy bay bị hủy hoại, 2400 phi công, thủy thủ bị thiệt mạng.
Hai ngày sau Mỹ
tham gia cuộc Thế Chiến, đưa 80% lực lượng sang Châu Âu chỉ để 20% tại Á Châu vì
Đức Quốc Xã nguy hiểm hơn. Hoa Kỳ đưa quân sang Châu Âu vì cái thế “môi hở răng
lạnh” chứ không phải đi làm nghĩa vụ quốc tế.
Sang năm 1942, Đồng
minh bắt đầu thắng thế, Hải quân Nhật thua to tại trận thủy chiến Midway, Đức
Quốc Xã đầu hàng tại Stalingrad, hai trận này đã được xếp trong số 10 trận đánh
lớn nhất Thế giới vì nó đã thay đổ khúc quành cuộc chiến. Năm 1944 quân Đức thất
bại trên khắp mặt trận miền Đông, tháng 6/1944 Mỹ-Anh đổ bộ vào Normandie,
tháng 2/1945 đã vào tới miền Tây nước Đức.
Chiến tranh Âu
Châu gần kết thúc Roosevelt, Staline, Churchill họp tại Yalta (từ 4 tới
11/2/1945) để bàn về chia chác ảnh hưởng (1). Tháng 4-1945 Đại Tướng Mỹ George
Patton đã tiến tới biên giới Tiệp Khắc nhưng phải dừng lại vì Tiệp đã được nhường
cho Nga (2). Người Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để bớt tốn xương máu, cũng là để
nhờ Nga phụ giúp đánh quân Nhật tại Á châu vì lực lượng địch còn khoảng bốn,
năm triệu, trù tính đánh từ một năm rưỡi tới hai năm (3). Trước Thế chiến thứ
hai chỉ một mình nước Nga theo Cộng Sản, Staline chủ trương tiến lên chủ nghĩa
xã hội trong phạm vi nước Nga trái với Trosky muốn tiến lên vô sản hóa toàn thế
giới. Khi Mỹ nhường Đông Âu cho Nga họ đã vớ được một lô đồng chí để bành trướng
thế lực. Các nước tư bản dân chủ Tiệp, Ba Lan, Lỗ Ma Ni, Hung Gia Lợi, Bảo Gia
Lợi ...đã chung lưng đấu cật cùng Tây phương chiến đấu chống phát xít Đức đến
khi chiến thắng đã bị Hoa Kỳ bán đứng cho Nga.
Cuộc nội chiến
Trung Hoa.
Tổng Thống
Roosevelt (Dân Chủ) mất ngày 12/4/1945, Phó TT Truman lên thay
Các hạm đội Mỹ,
Anh từ Âu châu chuyển về Thái Bình Dương để kết thúc mặt trận châu Á, Sô viết
chuyển quân bằng đường bộ từ Tây sang Đông như đã thỏa thuận tại Yalta. Ngày 6
và 9 tháng 8-1945 TT Truman ra lệnh ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở
Nhật, ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại
Mãn Châu. Sự thực Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử,
khoảng một triệu quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể
cả xe tăng thiết giáp giao cho Mao Trạch Đông, giáo vào tay giặc.
Năm 1946 Tổng thống
Truman cử Tướng George Marshall sang Tầu hòa giải Mao-Tưởng, Mỹ hy vọng Quốc-Cộng
sống chung hòa bình. Người Mỹ vẫn lạc quan không hay biết gì về âm mưu thâm độc
của Staline, ông ta lừa gạt Mỹ từ đầu chí cuối. Mao vận động Nga yêu cầu Anh, Mỹ
bắt ép Tưởng Giới Thạch ký đàm phán (4). Tưởng-Mao thảo luận một tháng (cuối
8/1945 tới 10/10/1945) rồi ký hòa ước tháng 1/1946 nhưng chỉ được 6 tháng thì nội
chiến nổ ra. Lúc này theo tài liệu CS, Mao chỉ khiểm soát 1/4 đất đai và 1/3
dân số.
Tưởng Giới Thạch
đưa 1 triệu 6 trăm ngàn quân từ miền Nam lên Mãn Châu, Mỹ giúp máy bay chuyên
chở. Tưởng thắng được những tháng đầu rồi dần dần mất ưu thế, năm 1948 Mao bắt
đầu thắng thế. Quốc Dân Đảng chia rẽ lại cách xa căn cứ tiếp liệu tại miền
Trung nước Tầu, đất đai bị Cộng quân chiếm. Mao vừa khủng bố và dụ dỗ người dân
để đưa họ ra trận tuyến gian khổ. Quốc dân đảng cũng mất lòng dân vì dùng bạo lực
nên họ đã bỏ theo CS (5). Quốc dân Đảng (QDĐ) mất hơn một triệu quân tại đây và
bắt đầu thất thế.
Từ 12/9 tới
12/11/1948 diễn ra những trận đánh lớn, Quốc Dân Đảng ở thế thủ, dần dần xa
cách Mỹ. Cộng quân chiếm được nhiều thành phố lớn Hoa Bắc, họ chiếm Mãn Châu
hoàn toàn. Mao tiêu diệt được 144 sư đoàn thiện chiến của Tưởng. Cuối năm 1948,
đầu năm 1949 bà Tống Mỹ Linh, phu nhân Tưởng Giới Thạch sang Mỹ xin viện trợ
nhưng bị bác bỏ. Tháng 9-1948 Cộng quân chiếm tỉnh Sơn Đông, tháng 4-1949 Cộng
quân vượt sông Dương Tử chiếm Nam Kinh Thủ đô Quốc Dân Đảng Trung Hoa, họ tiến
về Hoa Nam.
Ngày 1 tháng 10
năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ đô
là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng Giới Thạch và khoảng 2
triệu người Quốc Dân Đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan.
Dư luận Mỹ chỉ
trích, lên án Tổng thống Truman đã để mất Trung Hoa vào tay Cộng Sản. Thượng
nghị sĩ Joe McCarthy cho rằng việc ngăn chận CS Tầu cần phải viện trợ nhiều hơn
và có lẽ phải dùng cả không lực. Người ta bắt đầu hỏi ai đã làm mất Trung Hoa?
tỷ lệ ủng hộ Truman từ 70% xuống còn 35%. Bộ trưởng ngoại giao của Truman bị
coi là thằng hèn, Tướng George Marshall, bộ trưởng ngoại giao tiền nhiệm bị coi
là tên phản bội.
Lyndon Johnson hồi
đó là Thượng nghị sĩ tiểu bang Texas (Jan/1951-Jan/1953) cho rằng Truman đã
không tròn trách nhiệm để mất Trung Hoa, khi Johnson lên làm Tổng thống (1964)
ông đã cố không đi vào vết xe đổ của quá khứ.
Cuộc Cách mạng
Trung Hoa chỉ là sự nối dài quyền lực của Sô Viết. Dean Rusk nói Cách mạng
Trung Hoa không phải của người Tầu mà là Made in Moscow. Nhiều người Mỹ cho rằng
CS đang tiến bước mạnh và nếu không ngăn chận chúng sẽ tràn ngập thế giới
(6). Các tài liệu về cuộc chiến vĩ đại
này cho biết:
Năm 1946-1947 Tưởng
có hơn 4 triệu quân chủ lực - Mao có khoảng 1 triệu 3 trăm ngàn quân chủ lực và
2 triệu du kích,
Giữa năm 1948 Tưởng
còn 3 triệu rưỡi - Mao có 2 triệu 8,
Tháng 6-1949 Tưởng
còn 1 triệu rưỡi - Mao có 4 triệu.
Có dư luận chê
Quốc Dân Đảng Trung Hoa có một lực lượng hùng hậu, được Mỹ viện trợ 4 tỷ đô la quân sự nhưng lại bị Cộng quân yếu
hơn đánh bại. Người ta cũng nêu lý do Quốc Dân Đảng mất lòng dân, tàn ác trong
khi đối phương tuyên truyền khiến đạo quân ngày càng lớn mạnh chuyển bại thành
thắng.
Cũng có tài liệu
nói sau Thế chiến thứ hai, cán cân quân sự nghiêng về phía Cộng Sản Tầu. Chủ lực
quân của họ tăng lên 1 triệu 2 và 2 triệu du kích. Vùng kiểm soát của họ có 19
căn cứ chiếm 1/4 lãnh thổ Trung quốc và 1/3 dân số gồm nhiều tỉnh thành quan trọng.
Ngoài ra Nga Sô đã trao cho CS Tầu kho vũ khí to lớn lấy được của Nhật cũng như
đã giúp họ nhiều quân viện, CS cũng được Nga giao cho miền Đông Bắc Trung Hoa
(7)
Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch (phải) trước nội chiến
Quốc Dân Đảng có
ưu thế quân sự, họ chống quân Nhật hồi Thế chiến thứ hai đã bị mất nhiều đơn vị
tinh nhuệ trong những trận đánh lớn khi ấy CS Tầu ít thiệt hại, họ ít đụng chạm
Nhật. Tưởng Giới Thạch cho Mãn Châu là một vị trí chiến lược quan trọng cần phải
chiếm giữ và đã đưa 1 triệu 6 trăm ngàn quân lên đánh CS được Mỹ giúp cho máy
bay chuyển quân. Tưởng Giới Thạch thua trận mùa thu 1948 đó là một khúc quành
quan trọng trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng , QDĐ chia rẽ và vì xa trung tâm tiếp
liệu ở miền Trung nên đã thảm bại (8). Một phần vì tại Hoa Bắc, Mãn Châu địch mạnh,
một phần QDĐ bị suy yếu vì Thế chiến thứ hai, sự sai lầm của Tưởng cho chuyển
quân lên vùng xa xôi nên đã mất hơn một triệu quân. Địch tuyển được nhiều quân,
đánh biển người, một chiến thuật man rợ và lợi hại khiến QDĐ ngày càng thua nhiều
trận lớn.
Tướng George
Marshall nói không có dấu hiệu gì cho thấy Nga Sô viện trợ quân sự cho Mao, đó
là điều ngây thơ lạc quan, khinh địch vốn dĩ của người Mỹ. Cuộc chiến Quốc-Cộng
kéo dàì mấy năm, sôi động nhất là những năm 1947, 1948, 1949, hai bên đánh bằng
cấp quân đoàn, lộ quân có khi lên tới hàng trăm sư đoàn. Nếu không có viện trợ
của Sô Viết, Tầu Cộng lấy đạn dược tiếp liệu ở đâu để tham gia những trận đánh
long trời lở đất trong cuộc nội chiến vĩ đại này?
Cũng y như trong
cuộc chiến VN, các nhà học giả Mỹ nghiên cứu chiến tranh VN thường ít nói tới
việc Quốc Hội Dân Chủ cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm từ giữa 1973, họ chỉ chê
bai chính phủ VNCH thối nát tham nhũng, sai lầm trong chiến thuật. Quốc Hội Mỹ
cắt giảm viện trợ xương tủy, tháng 4/1975 quân đội VNCH không còn gì để chiến đấu.
Người Mỹ chỉ trích QDĐ Trung Hoa và VNCH tham nhũng để mất nước mà không bao giờ
nhìn nhận trách nhiệm của họ.
Chiếm được Trung
Hoa, dân số chiếm một phần tư (1/4) thế giới hồi đó, cán cân giữa Thế giới Tự
Do và khối CS lệch hẳn đi. Trước Thế chiến Thứ Hai chỉ có một mình nước Nga
theo CS, dần dần trước sự sai lầm và dễ dãi của Hoa Kỳ, Staline chiếm được một
giải đất rộng mênh mông từ Âu sang Á.
Sau này năm 1985
cựu Tổng thống Nixon nói (9) )“Sô Viết không phải gửi quân nhưng đã thống trị được
9 nước kể từ 1974” . Nixon cảm phục Nga không đem quân sang, chỉ đứng
ngoài giật giây mà đã chiếm được nhiều nước. Cuộc chiến tranh Quốc - Cộng
1946-1949 cho thấy Nga không đem quân vào, trong khi Mỹ đã đưa vào 50,000 quân
mà vẫn thất bại.
Hoa Kỳ nhường
Đông Âu cho Nga năm 1945 để nhờ họ đánh quân Nhật là một lỗi lầm tai hại, vừa mất
Đông Âu rồi mất cả Trung Hoa. Người Mỹ bỏ rơi Tưởng Giới Thạch vì vai trò chống
Nhật của ông đã hết. Họ bỏ Trung Hoa cũng vì không thấy tầm quan trọng của vấn
đề, chưa nhìn ra hậu quả lớn lao ngay sau đó là những cuộc chiến đẫm máu do CS
gây ra.
Năm 1950, cuộc
chiến Cao Ly và Việt Nam.
Ngày 5-12-1949
Mao đã ra lệnh sửa chữa các sân bay, chuẩn bị đổ bộ chiếm Đài Loan. Ngày 5-1-1950 Truman tàn nhẫn tuyên bố thừa
nhận Đài Loan là lãnh thổ Trung Quốc, ông ta nói sẽ không can dự vào cuộc tranh
chấp, sẽ không viện trợ quân sự cho Tưởng, có nghĩa là công khai tuyên bố bỏ
Đài Loan (10)
Mỹ công kích Tưởng
và các Tướng lãnh QDĐ bất tài, tham nhũng làm mất Trung Hoa để tự bào chữa cho
họ. Tháng 8-1949, Nga có bom nguyên tử không còn sợ Mỹ, CS giúp Bắc Triều Tiên
(Cao Ly) vượt vĩ tuyến 38 xâm lăng Nam Triều Tiên. Nga, Tầu bây giờ công khai
đương đầu với Mỹ. Cuộc chiến bùng nổ khiến Truman hốt hoảng đưa quân vào miền
Nam Triều Tiên can thiệp dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc. Mỹ tuyên bố bảo vệ Đài
Loan khiến Đài Loan thoát chết trong gang tấc.
Tướng Navarre, cựu
Tư lệnh Đông Dương nhận định.
“Qua kinh nghiệm
đau thương Trung Hoa và nhất là Triều Tiên, người Mỹ mới nhận ra mối nguy Cộng
Sản bành trướng tại Đông Nam Á, nhưng họ biết trễ mất 5 năm (11)
Người Mỹ biết tới
sự nguy hiểm của CS trễ mất 5 năm vì không đề phòng Staline.
Hoa Kỳ từ 1950 bắt
đầu được nếm mùi hậu quả của việc bỏ rơi Trung Hoa: đồng thời với chiến tranh
Triều Tiên, từ 1950 Trung Cộng tiến sát biên giới Việt Hoa viện trợ, huấn luyện
cho Việt Minh và thành lập nhiều sư đoàn chính qui (304 và 308, 312, 316,
320...) những năm 1950 và 1951, Việt Minh ngày càng lớn mạnh.
Chiến tranh Triều
Tiên.
Tháng 6/1950 Bắc
Triều Tiên đưa 135,400 quân cùng 150 xe tăng, gần 200 máy bay vượt vĩ tuyến 38
xâm lăng Nam Triều Tiên... Nam Triều
Tiên yếu, thua chạy. Ngày 28-6, Bắc quân chiếm Hán Thành (Seoul).
TT Truman lệnh
cho Tướng McArthur chở súng đạn giúp Nam Hàn. Ông không nghe cố vần đề nghị
oanh tạc Bắc Hàn, các nước Tây phương đồng ý với Mỹ gửi quân. Truman ra lệnh
cho Hải, Không quân Mỹ đánh vượt qua vĩ tuyến 38 nhưng không vào địa phận của
Nga, Tầu.
Tháng 8-1950
quân Nam Hàn và Mỹ mới đến tiếp cứu rút về một góc tại bán đảo quanh tỉnh
Pusan. Không quân Mỹ oanh kích mỗi ngày 40 phi vụ yểm trợ bộ binh, chống thiết
giáp. Oanh tạc cơ chiến lược B-29 từ căn Nhật sang yểm trợ, phá hủy hầu hết đường
xe lửa, cầu, kho hàng tại Bắc Hàn. Thượng tuần tháng 9, quân đội Liên Hiệp Quốc
và Nam Hàn đông và mạnh hơn Bắc Hàn nhiều theo tỷ lệ 180 ngàn so với 100 ngàn.
Mỹ bắt đầu phản
công, đổ bộ tại Inchon và tiến về Bắc, lực lượng gồm Quân đoàn 10 (70 ngàn
lính) có sự yểm trợ của 8,600 quân Nam Hàn. Tướng McArthur chiếm lại Seoul
nhanh chóng. Quân Bắc Hàn bị chia cắt vội rút về Bắc, quân Liên Hiệp Quốc truy
đuổi quân Bắc Hàn qua vĩ tuyến 38, Mỹ thừa thế tiến lên để chiếm luôn Bắc Hàn.
Ngày 4-1-1951
quân Trung Cộng và Bắc Hàn lại chiếm Seoul khiến Mỹ phải rút, Tướng Walker chết
vì tai nạn, Tướng Ridway lên thay. Tình thế nghiêm trọng, McArthur dự tính xử dụng
bom nguyên tử đối với Trung Cộng
Ngày 16-3-1953,
Lộ quân 8 chiếm lại Seoul lần thứ 4 trong một năm, thành phố tan nát không còn
gì, Tướng McArthur bị TT Truman cách chức ngày 14-5-1951: công khai đòi mở rộng
chiến tranh và xử dụng bom nguyên tử. Ridway thay thế McArthur, tập hợp quân sĩ
để phản công.
Khi cuộc chiến mới
bắt đầu hai bên càn qua, quét lại các phần đất, nay mặt trận đã được định vị
trí, hai bên đã bắt đầu thương thuyết. Họ đàm phán tại Kaesong ngày 10-7-1951,
cả hai phía đều vừa đánh vừa đàm.
Ngày 29-11-1952
TT Eisenhower (Cộng Hòa) mới đắc cử hứa sẽ đem lại hòa bình, ông đi Triều Tiên
tìm giải pháp. Liên Hiệp Quốc chấp nhận đề nghị của Ấn Độ hai bên đình chiến. Ngưng
bắn được thực hiện ngày 27-7-1953 tại vùng giới tuyến gần Vĩ tuyến thứ 38 và một
vùng phi quân sự Demilitarized zone (DMZ) được thiết lập quanh vĩ tuyến cho tới
nay vẫn được giữ nguyên. Cho tới nay không có Hiệp định nào được ký kết.
Bản tin CBS news
cho biết con số của Ngũ Giác Đài (12) tại Triều Tiên 1950-1953, Mỹ có 36, 516
người lính tử trận.
Chiến tranh Việt
Nam.
Người Mỹ tránh
can thiệp Trung Hoa những năm 1947, 48... vì sợ sa lầy nhưng sau đó họ đã bị sa
lầy vì chiến tranh Triều Tiên và sau Triều
Tiên là cuộc chiến VN lớn và tàn khốc, lâu dài, tối tân gấp 10 lần cuộc chiến
Triều Tiên.
Năm 1950 Trung Cộng
giúp Việt Minh thành lập năm sư đoàn chính qui: 304, 318, 312, 316, 320, sau đó
sư đoàn 351 vũ khí nặng. Việt Minh nay công khai đánh Pháp bằng những đơn vị lớn.
Cuối tháng 7-1953 Triều Tiên đình chiến, Trung Cộng viện trợ cho VM tăng vọt hơn
trước để đánh Điện Biên Phủ. Mỹ cũng tăng viện trợ cho Pháp, năm 1954 Mỹ đã
gánh 78% chiến phí (13). Việt Minh đưa gần hết các sư đoàn chính qui của họ vào
trận đánh lịch sử này, tổng cộng 63,000 người gấp 4 lần Pháp (12 tiểu đoàn và 5
tiểu đoàn nhẩy dù) (14). Tháng 3/1954 Tình hình quân sự ĐBP ngày một xấu, phi
trường bị pháo kích hư hại, sau ngày 26-3-1954, khu lòng chảo chỉ còn tiếp tế
tăng viện bằng thả dù quân lính cũng như lương thực, đạn dược, số phận của ĐBP
đã được quyết định rồi.
Pháp và Mỹ đều
thấy nguy cơ ĐBP sẽ thất thủ. Từ cuối tháng 3, Tòa Bạch Ốc đã nghiên cứu kế hoạch
cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt với khoảng gần 100 oanh tạc cơ hạng nặng B-29,
mỗi chiếc mang 9 tấn bom cùng với 400 máy bay chiến đấu hộ tống. Kế hoạch lấy mật
danh Kên Kên
TT Eisenhower muốn
hỏi ý kiến Quốc hội vì rút kinh nghiệm chính phủ Truman tham chiến tại Triều
Tiên không đưa ra Quốc hội đã bị chỉ trích. Kế hoạch này được các sử gia
Bernard Fall và Philippe Devillers tường thuật lại thập niên 60 (15).
Ngày thứ bẩy
3-4-1954, tám vị Đại diện Quốc hội được mời tới Bộ ngoại giao để hội thảo bí mật
với các vị Đại diện Hành pháp. Thượng nghị sĩ Lyndon Johnson (Texas) phát biểu
đòi phải lập Liên Minh quân sự, các vị Đại diện Quốc hội khác đồng ý với
Johnson nên người ta coi như ông đóng vai chính trong việc ngăn cản chiến dịch
cứu nguy bằng oanh tạc trong khi tình hình ĐBP vô cùng nguy khốn không có thì
giờ lập liên minh quân sự.
Sáng 23-4 Ngoại
trưởng Pháp Bidault đưa cho Ngoại trưởng Mỹ Dulles thư của Navarre mới gửi, ĐBP
sắp sụp đổ, muốn ngăn chận tai họa đó chỉ còn cách cho oanh tạc ồ ạt, nước Mỹ
có thể xét lại kế hoạch Kên Kên được không?
Bi kịch cuối
cùng là cuộc họp của TT Eisenhower, Đô đốc Radford TTMT, một số viên chức cao cấp
ngày 29-4 tại Hoa Thịnh Đốn, họ duyệt lại toàn bộ tình hình một lần nữa. Giới
quân sự chỉ có Đô đốc TTMT Radford vẫn ủng hộ hoàn toàn dù là can thiệp đơn phương
(không cần Quốc Hội) để cứu ĐBP. Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Carney và Tướng
Twining, TMT Không quân không nhiệt tâm với kế hoạch này. Tướng Ridway, TMT
quân đội Mỹ chống đối hoàn toàn kế hoạch, cuối cùng TT Eisenhower quyết định
không giúp Pháp. ĐBP thất thủ ngày
7-5-1954.
Hậu quả của Việc
Hoa Kỳ không thực hiện được kế hoạch Kên Kên đã ám ảnh theo đuổi chính phủ
Eisenhower một cách kỳ lạ ngay cả sau khi ngoại trưởng Dulles qua đời năm 1959
(16). Người Mỹ hối tiếc đã không thực hiện chiến dịch Kên Kên để cho Việt Minh,
phía CS thắng lớn, ĐBP đã làm rung động cả thế giới, nó thay đổi cả một khúc
quành lịch sử.
Trong phần kết
luận cuốn ĐBP, GS Bernard Fall cho rằng Tây phương (Anh-Mỹ) tránh can thiệp vào
Đông Dương năm 1954 mà sau này họ phải can thiệp năm 1967 (VNCH). Nếu ĐBP không
bị thất thủ năm 1954 có lẽ lịch sử VN sẽ ít phức tạp hơn (17) và gần đây hai
nhà sử gia Logevall, Ted Morgan cũng đồng quan điểm trong hai cuốn sách lớn viết
về ĐBP và cuộc chiến Đông Dương lần thứ I
Bernard Fall nói:
Ở đây ĐBP không
phải chỉ là thất trận của Pháp mà cả của Mỹ.
(18)
Hoa Kỳ đã bỏ lỡ
cơ hội tiêu diệt chủ lực quân địch, để 10 năm sau vào năm 1964, 65 đạo quân đó
lớn mạnh và người Mỹ phải đương đầu với một cuộc chiến vô cùng đẫm máu. Thượng
nghị sĩ Johnson đã trở thành Tổng Thống Mỹ, ông phải gánh chịu hậu quả của
chính ông, 10 năm trước (1954) Johnson đã ngăn cản chiến dịch Kên Kên.
Mỹ sợ sa lầy tại
ĐBP và cuối cùng họ phải tốn kém 141 tỷ đô la (19) và hơn 58,000 người lính tử
trận. Thượng Nghị Sĩ Lyndon Johnson và TT Eisenhower là hai người chịu trách
nhiệm nặng nề nhất về sự sai lầm này. Nếu thực hiện kế hoạch Kên Kên chưa chắc
đã mất miền Bắc, chưa chắc đã có Hiệp Định Geneve và cuộc di cư vĩ đại.
Chiến tranh Việt
Nam sang thập niên 60, 70 lớn và tàn phá hai miền lâu dài và nhiều hơn Triều
tiên gấp 10 lần, số bom đạn được ném tại Việt Nam và Đông Dương từ thập niên 60
nhiều hơn số bom ném tại Âu Châu thời Đệ Nhị Thế Chiến. Trận oanh tạc
Linebacker từ tháng 5 tới tháng 9-1972 tại Vùng I và trận oanh tạc Linebacker
II cuối năm 1972 tại Hà Nội, Hải Phòng đã xử dụng mỗi trận khoảng 200 B-52, tức
một nửa số B-52 của Mỹ. Riêng trận oanh tạc cuối năm 1972 tại Bắc Việt trong 11
ngày đêm được coi là lớn nhất thế giới kể từ sau Thế Chiến Thứ Hai.
CSBV đưa vào trận
Mùa hè đỏ lửa 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập, và 300 xe tăng, phía VNCH có
13 sư đoàn và 15 liên đoàn Biệt động quân. Trận tấn công Sài Gòn tháng 4-1975,
CSBV đã đưa vào đây khoảng 15 sư đoàn (tương đương 5 quân đoàn) và trên 10
trung đoàn độc lập, tổng cộng 20 sư đoàn. Phía VNCH có 13 sư đoàn nhưng bị cạn
kiệt về tiếp liệu đạn dược
Năm 1972, TT
Nixon tìm cách ra khỏi cuộc chiến không lối thoát, ông thành công trong việc
hòa với Trung Cộng để tìm hòa bình cho VN. Tháng 2/1972 TT Nixon sang Tầu, cái
bắt tay giữa Mao Trạch Đông và Richard Nixon ít ra cũng đã làm cho nước Mỹ và cả
Đông Nam Á một nền hòa bình cho tới nay đã được nửa thế kỷ. Nhiều người Việt quốc
gia lên án Nixon hòa với Tầu Cộng để rút bỏ miền Nam, nhưng ông không có thực
quyền để làm vậy. TT Nixon vẫn đứng sát TT Thiệu thành một phòng tuyến chống CS
(20), nhưng người dân Mỹ, Quốc Hội (Dân Chủ) muốn ký Hiệp Định để chấm dứt sự
can thiệp một cách có danh dự, nguyên nhân cuộc chiến nay không còn nữa (21)
Ngày 7-11-1972,
Nixon đại thắng với số phiếu cao nhất từ xưa đến nay: 520 phiếu Cử tri đoàn
(96% số phiếu), hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu Phổ thông, nhưng đối lập
Dân chủ vẫn giữ ưu thế Lưỡng viện: Hạ Viện 56%, Thượng viện 57%. Họ kết hợp với
Truyền thông và Phản chiến nên rất mạnh, Nixon không có quyền gì mấy.
Kết Luận
Các vị chức sắc
Quốc Hội muốn TT Nixon phải ký sớm Hiệp Định Ba lê nếu không họ sẽ ra luật chấm
dứt chiến tranh đem quân về nước để đổi tù binh (22). Ngày 2-1973 Hạ Viện Dân
Chủ bầu nội bộ tỷ lệ 154/75 cắt hết viện trợ Đông Dương để đổi lấy tù binh tại
Hà Nội và rút hết quân, khi lên Thượng Viện tỷ lệ 30/12. Dân Chủ đe dọa VNCH
Sáu tháng sau Hiệp
Định Paris 27-1-1973, Quốc Hội (Dân Chủ) cắt giảm viện trợ VNCH mỗi năm 50%.
Ngày 8/8/1974 Nixon từ chức để khỏi bị Quốc Hội truất phế vì vụ Watergete. Tới
cuối tháng 4/1975, quân dội VNCH chẳng còn gì để tiếp tục cuộc chiến.
Năm 1975 họ vứt
bỏ Đông Dương và bây giờ cũng chẳng còn gì để vứt bỏ.
Khi bỏ rơi Quốc
Dân Đảng Trung Hoa, TT Truman không nghĩ tới hậu quả tàn khốc của nó ngay sau
đó và còn kéo dài tới tận ngày hôm nay.
So sánh Tổng sản
lượng Mỹ-Hoa từ 1970 tới nay ta thấy Hoa Lục tiến rất nhanh từ thời TT Clinton,
nhất là thời TT Obama họ đi hia bẩy dặm.
Năm 1970 TSL Mỹ
là 1,075 tỷ. TSL Trung cộng 89 tỷ.
Năm 1980 TSL Mỹ 2,862
tỷ. TSL TC lên 305 tỷ
Năm 1990 TSL Mỹ
5,979 tỷ, TSL TC lên 398 tỷ
Năm 2000 TSL Mỹ
10,284 tỷ, TSL TC lên 1,214 tỷ
Năm 2010 TSL Mỹ
14,964 tỷ, TSL TC lên 6,066 tỷ
Năm 2015 TSL Mỹ
18,036 tỷ, TSL TC lên 11,158 tỷ
Năm 2019 TSL Mỹ
21,439 tỷ, TSL TC lên 14,140 tỷ
(GDP in the
United States and leaders; List of countries by largest historical GDP)
Trung Cộng làm
gia công cho các nước phát triển, nhờ cái đống thịt nên giá thành hàng hóa rẻ họ
thu được rất nhiều ngoại tệ.
Tiền nhiều họ
tăng cường Ngân sách Quốc Phòng.
Từ 1992 tới 2002
Ngân sách quốc phòng Hoa Lục tăng khiêm tốn từ 7 tỷ tới 20 tỷ, nhưng 10 năm sau NSQP của họ tăng vọt hơn 5 lần
(23).
Năm 2002 tới
2012 NSQP tăng từ 20 tỷ tới 107 tỷ. Trung Cộng càng phồn thịnh về kinh tế lại
càng tăng cường quân sự khiến Mỹ, các nước Đông nam Á lo ngại. Những năm gần
đây thời Tập Cận Bình họ gia tăng NSQP với tỷ lệ cao: Năm 2014 NSQP là 132 tỷ,
năm sau 2015 lên 141 tỷ, năm 2016 lên 147 tỷ, năm 2018 lên 175 tỷ, 2019 tăng
224 tỷ, nay 2020 tăng 237 tỷ (Mỹ nay 750
tỷ)
Ngày 28/5/1993 TT Bill Clinton ký Executive order
khiến nước Mỹ mất 10 triệu
jobs (xin coi How Bill Clinton sent manufacturing jobs to China ) và GDP Trung Cộng tăng nhanh vùn vụt.
TT Trump chống Tầu
từ nhiều năm trước. Ông đã viết sách nhắc nhở mối nguy của Hoa Lục. Một bài
trích trong cuốn sách của Donald Trump đã đăng trên truyền thông cho thấy chủ
trương chính sách chống Tầu của ông: Mỹ sẽ không để mất việc làm vì Trung Cộng,
ta cần hành động.
Mặc dù những sai
lầm của quá khứ nhưng việc ngăn chận sự bành trướng quân sự của Hoa Lục và sự
cướp đoạt công việc của Mỹ nay vẫn chưa muộn.
* Trọng Đạt
Cước chú
(1) Arthur Conte, Yalta Ou Le Partage Du
monde, viết năm 1974.
(2)
Lịch Sử Thế Chiến Thứ Hai (Histoire de La Seconde Guerre Mondiale)
(3) Năm 1957 C .V Gheorghiu viết Les Sacrifies du Danube,
thể hiện nỗi uất hận của những nước Đông Âu trong vùng Danube: … đã bị Hoa Kỳ
bán cho Sô Viết
(4) Quốc Cộng Đàm Phán, phim lịch sử Hồng
Kông quay thập niên 80 kể lại giai đoạn này
(5)
La Guerre civil en chine, Geographie.blog le monde.fr
(6) Communists Win China ’s War, Macrohistoory and World Time
Line, Fsmitha.com
(7) Chinese civil war, Wikipedia
(8) Chinese Communist Revolution,
Wikipedia
(9) Richard Nixon, No More Vietnams
trang 214
(10) https://nationalinterest.org/blog/buzz/history-question-why-did-china-never-invade-taiwan-96271
(11)
Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 27
(12) United States military casualties of war
Wikipedia
(13)The Pentagon Papers Volum 1,
Chapter 2.
(14) Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH 1972 , trang 160
(15) Bernard Fall, Hell In A Very Small
Place, The Siege of Dien Bien Phu;
Philippe Devillers: End of a War,
Indochina, 1954
Gần đây, Giáo sư Fredrik Logevall và ký giả Ted Morgan đã đề cập lại đề
tài này trong hai tác phẩm lớn của họ: Fredrik Logevall: Embers Of War, The
Fall Of An Empire And The Making of America’s Vietnam, 2012; Ted Morgam: The
Valley Of Death, The Tragedy at Dien
Bien Phu That Led America In to The Vietnam, 2010.
(16) Bernard Fall, Hell In A Very
Small Place trang 313
(17) Bernard Fall, Hell In A Very
Small Place trang 462
(18) Hell In A Very Small Place
trang 461.
(19) New york Times- US spent $141-Billion in Vietnam in 14 years
(20) Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and
Betrayal in Vietnam ,
trang 199
(21) Sách nói trên trang 200
(22) Sách kể trên trang 200: Legislation to terminate the war
(23) Wikipedia: Military budget of China
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire