Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ: bắc tới Hồ Động Đình, đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn. Như vậy ranh giới của Xích Quỷ gần như trùng với ranh giới của nhà nước Lương Chử. Cố nhiên, ranh giới quốc gia theo truyền thuyết và ranh giới quốc gia theo khảo cố chỉ là tương đối bởi lẽ thường có sự chồng lấn văn hóa nên ranh gới văn hóa thường không phải là ranh giới quốc gia. Dù có như vậy thì ta cũng thấy một thực tế là về đại thể, ranh giới của nhà nước Lương Chử trong khảo cổ học gần khớp với ranh giới của Xích Quỷ truyền thuyết.
3.
Kinh đô
Trong
khi khảo cổ học phát hiện kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ thì truyền thuyết nước
Xích Quỷ hầu như không nói tới Thái Hồ mà chỉ nhắc tới hồ Động Đình là nơi mà
Kinh Dương Vương đi chơi thuyền rồi gặp Long nữ con gái Động Đình Quân. Cũng ở
đây còn có sông Tương với cánh Đồng Tương là nơi các người con của Lạc Long
Quân gặp lại nhau. Nhưng câu hát ru dân gian nhắc tới trăng Tiền Đường:
Gió Động
Đình mẹ ru con ngủ
Trăng
Tiền Đường thức đủ năm canh.
Sông
Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, bắt nguồn từ vùng ranh
giới giữa hai tỉnh An Huy và Giang Tây, chảy theo hướng Tây nam-Đông bắc qua
Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, đổ ra vịnh Hàng Châu.
Những
điều trên phải chăng là chút ánh sáng từ ngôi sao đã tắt gửi tới chúng ta dấu vết
hiếm hoi của tổ tiên từng sống bên sông Tiền Đường?
4. Về
chủ nhân Lương Chử
Từ vật
chứng ADN lấy trực tiếp trên di cốt Lương Chử, khoa học xác nhận, dân cư Lương
Chử là người Lạc Việt. Khoảng 2300 năm
TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, người Lương Chử phải dời
đi nơi khác. Chủng người Indonesian đi lên vùng đất cao xung quanh còn chủng
Melanesian di tản sang đảo Đài Loan rồi xuống Philippines, góp phấn làm nên dân
cư Polynesian, chiếm lĩnh các đảo Nam Thái Bình Dương. Phải chăng điều này là gợi
ý cho “50 con trai của Mẹ Âu Cơ lên rừng và 50 con trai xuống biển?”
Từ vật
chứng khảo cổ, các học giả Trung Quốc thừa nhận, chủ nhân nền văn hóa Lương
Chử là người Lạc Việt! Từ những hình thao thiết “thần nhân thú diện” khắc
trên ngọc thờ, các học giả Trung Quốc xác nhận: người Lương Chử là “Vũ nhân”
hay “Vũ dân” (羽人或羽民) thờ vật tổ chim và thú. Đấy là một phát hiện
đặc biệt. Các tộc người thời cổ đều thờ vật tổ. Vật tổ của người Nga là con gấu,
của người Pháp là con gà trống. Còn người Mông Cổ du mục thờ con sói trắng.
Nhìn chung, với loài người, vật tổ chỉ đơn nguyên, hoặc là chim hoặc là thú.
Riêng có người Lạc Việt nhận vật tổ kép chim và thú, được hình tượng hóa
thành Tiên và Rồng. Quan niệm này được phản ánh trong truyền thuyết Hồng Bàng
thị (鴻龐). Thời đó, do trong tiếng Việt phụ âm chưa phân biệt và
thanh điệu chưa xác định nên có thể có những dạng: krong => hồng
=> sông => long => rồng. Vậy Hồng có nghĩa là Rồng. Nhưng chữ Hồng 鴻 trong
Hồng Bàng với bộ Điểu và chữ Giang, ta có thể chắc là chữ để chỉ tên loài chim
nước, như là con ngỗng trời, còn gọi là hồng hạc. Do đó Hồng cũng là chim.
Vậy, trong Hồng Bàng, Hồng là chim, là biểu trưng của Tiên.
Tương
tự, chữ Mang (厖) có thể là ký âm của mạng, mãng,
vàng. Ta quen gọi rắn là mãng xà
nhưng với người xưa thì mãng và xà cùng là rắn. Hãy nhớ tích Lưu
Bang chém rắn trắng khởi nghiệp để rồi cuối cùng bị con rắn chúa Vương Mãng
diệt. Mang là rắn. Rắn cũng là rồng. Trong việc chọn chữ vuông để ký âm tiếng
Việt cổ Hồng Bàng sau này, người đầu tiên đã dùng chữ Mang 厖 với
nghĩa mãng. Nếu liên hệ tới những biến dạng khác của chữ Bàng 龐, ý
nghĩa rồng rắn của từ Mang càng rõ hơn. Do vậy, Hồng Bàng là Chim và Rắn tức
là Tiên Rồng. Có thể chữ Hồng Bàng được khắc trên ngọc hay giáp cốt ngay từ
thời Kinh Dương Vương tại kinh đô Lương Chử. Có điều đã bị thất lạc nên người
sau không tìm được.
Từ những
liên hệ trên, ta có thể nhận định: chủ nhân của văn hóa Lương Chử là thị tộc Hồng
Bàng.
Với bốn
tiêu chí: thời điểm, cương vực, kinh đô và dân cư như phân tích trên, ta
thấy, có sự tương đồng rõ ràng giữa nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện
và nhà nước Xích Quỷ trong truyến thuyết của người Việt. Giữa những vật chứng
câm lặng nằm sâu trong lòng đất hàng nghìn năm và những câu truyện truyền miệng
mong manh suốt 5000 năm trong dân gian mà có được sự gần gũi, tương đồng như vậy
quả là lý tưởng. Điều này khiến ta có thể mạnh dạn khẳng định:
Nhà nước
Lương Chử được khảo cổ học phát hiện chính là nhà nước Xích Quỷ trong truyền
thuyết.
Tuy khẳng
định một cách vững chắc như vậy nhưng trong lòng chúng tôi vẫn mang nỗi băn
khoăn khi nhìn trên bản đồ thấy di chỉ văn hóa Lương Chử rải rác khắp vùng
Giang Nam mà sao không có bất cứ dấu vết nào trên đất Việt Nam? Có vấn đề gì ở
đây? Phải chăng Việt Nam nằm ngoài “vùng phủ sóng” của văn hóa Lương Chử?
Rồi
tin mững đã tới, bạn chúng tôi, nhà trà học Trịnh Quang Dũng gửi cho một số bức
ảnh hiện vật ngọc của nhà sưu tập đồ cổ Vũ Ngọc Tân tại Hà Nội mà ông nói là ngọc
Lương Chử. Xem ảnh, tôi nhận ra ngay, đúng là ngọc Lương Chử. Sau đó, nhờ ông
Dũng giới thiệu, tôi và nhà nghiên cứu văn hóa Việt cổ Lê An Vi tới thăm sưu tập
ngọc Xích Quỷ giữa Thủ đô Hà Nội. Cảm giác của chúng tôi là sung sướng và choáng
ngợp trước kho bảo vật vô giá của dân tộc. Tôi hoàn toàn tin đó là di vật Lương
Chử mà hiện vật thuyết phục nhất là motype thao thiết “hình người mặt thú” được
khắc trên chiếc gối ngọc. Tất cả đều là những sản phẩm được chế tác bởi những
nghệ nhân bậc thầy và đều in dấu ấn của thời gian. Rất thân tình, ông Vũ Ngọc
Tân bật mí: “Những người đào than ở Uông Bí khi phát hiện hầm ngọc đã giữ
nguyên hiện trạng rồi báo cho tôi. Tôi đã cùng họ thu hồi hiện vật.”
Cố
nhiên là không ít câu hỏi được đặt ra với kho báu này: Ngọc Lương Chử thực hay
giả? Chúng có mặt ở Uông Bí thời gian nào? Hoàn cảnh nào dẫn đến việc chúng xuất
hiện ở đây? Theo nhận định của chúng tôi, đây chính là hiện vật ngọc Lương Chử
điển hình, được chế tác vào thời kỳ hưng thịnh nhất của văn hóa Lương Chử. Ngọc
của văn hóa Mã Kiều sau đó thô hơn. Tôi gửi hình cho nhà khảo cổ tên tuổi, ông
nói: “Nhìn qua, thấy ngay là ngọc Lương Chử. Nhưng thật hay giả là cả một vấn đề.”
Sự thận trọng của nhà chuyên môn là hợp lý. Nhưng theo suy nghĩ thông thường,
việc đem đồ giả tới khu vực được cho là không thuộc văn hóa Lương Chử để
“đặt bẫy” là chuyện khó xảy ra. Những mẫu ngọc trong sưu tập này cũng khác với
ngọc của Bảo tàng Lương Chử. Không có ngọc Tông và thao thiết, những hiện vật
phổ biến của Lương Chử. Chiếc Quy ấn là mẫu vật không thấy ở nơi khác nên chuyện
làm giả khó xảy ra.
Tôi
cũng tin vào người lính cũ Vũ Ngọc Tân. Là nhà sưu tập đồ cổ có tiếng, ông cũng
trang bị cho mình tri thức hàng đầu về đồ cổ của thế giới nên không dễ bị lừa một
khối tài sản lớn. Ông cho biết, nhiều chuyên gia cổ vật người Nhật tới thăm,
lúc đầu họ khách khí nhưng sau khi tiếp xúc hiện vật, đã tỏ ra kính nể không chỉ
kho báu vô giá mà cả chủ nhân của nó.
Câu hỏi
về thời gian kho ngọc xuất hiện ở Quảng Ninh có lẽ chẳng bao giờ được trả lời
vì hiện vật không được khai quật theo phương pháp khoa học và sau đó hiện trường
cũng bị hủy hoại. Còn câu hỏi về hoàn cảnh xuất hiện của kho ngọc, theo chúng
tôi, nhiều khả năng như sau. Ngọc nguyên liệu được khai thác từ mỏ ngọc ở Đài
Loan, đưa về trung tâm chế tác Lương Chử. Vùng Quảng Ninh là trung tâm kinh tế
văn hóa lớn, có những quan chức hay thủ lĩnh giàu có, đã mua ngọc từ Lương Chử
về dùng và quan trọng hơn là để thể hiện đẳng cấp của mình. Dựa vào chiếc Quy ấn
(ấn Rùa) trong bộ sưu tập, ta có thể đoán là, vùng Quảng Ninh xưa là một trung
tâm kinh tế chính trị quan trọng, người đứng đầu là vị quan cao cấp. Theo truyền
thống phương Đông, vua dùng Ấn Rồng, quan to trong triều dùng ấn hình con Ly.
Quan đứng đầu khu vực giữ ấn Rùa. Do đó, người đứng đầu vùng Quảng Ninh xưa có
thể là một quan Lang? Một khám phá thú vị: trong bộ sưu tập ngọc ở Bảo tàng
Lương Chử hay Cố Cung không thấy có ấn ngọc nên chiếc Quy ấn trong bộ sưu tập
này có giá trị đặc biệt. Có thể đặt những câu hỏi sau. Phải chăng tại Uông Bí
đã có trao đổi văn bản nên phải dùng mộc để xác nhận? Điều này khó xảy ra vì thời
đó chưa có giấy để có thể dùng cái ấn khủng như vậy. Nhiều khả năng hơn, đây là
một thứ quyền trượng xác nhận vị thế của thủ lĩnh. Dù sao, việc xuất hiện cái mộc
sớm nhất trong lịch sử này cũng nói lên trình độ văn hóa của vùng: chữ đã hình
thành, được dùng rộng rãi. Khả năng Uông Bí là nơi chế tác ngọc khó xảy ra.
Như vậy
Uông Bí chính là địa điểm đầu tiên ở Việt Nam phát hiện di vật ngọc Lương Chử.
Phát hiện này là vô giá vì nó cung cấp bằng chứng cứ vật chất rằng đất Việt Nam
cũng thuộc về văn hóa Lương Chử. Điều này cũng khẳng định người Việt Nam là hậu
duệ của Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương và Xích Quỷ là nhà nước đầu tiên của
dân tộc ta. Sưu tập ngọc Lương Chử của ông Vũ Ngọc Tân là kho tàng văn hóa vật
thể vô giá. Nhưng khi những con chữ khắc trên ngọc như bốn chữ trên mặt ấn rùa
(Quy ấn) và những chữ khắc trên búa ngọc nhìn có vẻ “khôn” gần với giáp cốt văn
Ân Khư được giải mã, sẽ cung cấp những thông tin thuộc văn hóa tinh thần soi
sáng lịch sử.
Xin giới thiệu một số hình ảnh về bộ sưu tập vô giá này và xin chân thành cảm ơn ông Vũ Ngọc Tân đã cho thưởng lãm kho báu vật.
(Hình của Lê Khánh)
VIỆT NAM CÓ MẤY
NGHÌN NĂM VĂN HIẾN?
Ta thường nghe và cũng thường nói: “Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến.”
Nhưng nếu được hỏi: “Văn hiến là gì? Căn cứ vào đâu để nói 4000 năm?” Có lẽ hầu
hết người Việt chỉ biết cười trừ rồi giả lả: “Thì nghe các cụ nói vậy...” Một
niềm tin hời hợt không bao giờ vững chắc. Lớp người trẻ càng ngày càng ít nhắc
tới. Rồi cũng như Xích Quỷ, họ Hồng Bàng, cha Rồng mẹ Tiên… cái “văn
hiến bốn nghìn năm” dần đi vào quên lãng! Vì vậy, chính lúc này xác định Việt
Nam có phải là “văn hiến quốc” không, có ý nghĩa vô cùng lớn lao, góp phần cho
sự sống còn của dân tộc. Muốn vậy, trước hết phải trả lời hai câu hòi: 1. Văn
hiến là gì? Và 2.Việt Nam có mấy nghìn năm văn hiến?
1. Văn hiến là gì?
Văn hiến thuần túy là khái niệm phương Đông, tồn tại trong môi trường văn
hóa Hoa-Việt. Vì vậy, muốn tìm nghĩa của Văn hiến, cần phải tra cứu cổ thư. Nhiều
học giả cho rằng, từ Văn hiến xuất hiện sớm nhất trong thiên Bát dật sách Luận
ngữ: “Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng
ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố
dã ” (子曰夏禮吾能言之杞不足徴也殷禮吾能言之宋不足徴也文獻不足故也 ). Dịch nghĩa: “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn được, nhưng nước Kỷ chẳng
đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta cũng bàn được, nhưng nước Tống chẳng đủ
để làm chứng. Ấy là vì văn hiến hai nước ấy không đủ” (nước Kỷ là dòng dõi nhà
Hạ, nước Tống là dòng dõi nhà Ân). Từ câu nói của Khổng tử toát lên
hai nghĩa:
i. Khoảng 2500 năm
TCN, Văn hiến đã là chữ dùng quen thuộc nên khi nói, Khổng Tử không cần phải
thích nghĩa vì người có học đều hiểu.
ii. Trong một câu ngắn, Khổng Tử hai lần nhắc tới chữ Lễ.
Rằng ngài có thể bàn về Lễ của nhà Hạ và nhà Ân nhưng không thể lấy hậu duệ của
hai nước này ra để chứng minh vì lẽ văn hiến của hai nước ấy
không thể đại diện được! Lễ ở hai nước Kỷ và Tống không còn như xưa chứng tỏ văn
hiến của hai nước này thiếu hụt. Điều đó chứng tỏ Khổng Tử quan niệm Lễ
là Văn hiến
Nhưng gần hai nghìn năm sau, vào đời Tống, khi chú thích lời Khổng Tử, Chu
Hy giảng: “Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã 文典籍也獻賢也, (văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy)”. Rõ ràng, khi giảng như thế, Chu Hy đã hiểu khác lời của Khổng Tử. Khi
nói tới Lễ là Khổng Tử nói tới mối quan hệ nhân luân giữa con người trong xã hội
cũng như con người với thiên nhiên trong đó có thần minh. Chính mối quan hệ hài
hòa có tôn ty được gọi là Lễ ấy làm nên Văn hiến. Khổng Tử đánh giá rất cao vai
trò của Lễ. Trong Ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, ông đặt
Lễ ở trung tâm. Bốn yếu tố Nhân, Nghĩa, Trí, Tín khi đứng
riêng, không được thể hiện, là những điều vô nghĩa. Chỉ khi thể hiện
ra bằng Lễ, tức là hành động, nó mới có giá trị. Cũng vì vậy,
Ngài soạn riêng kinh Lễ. Khổng Tử không cho văn là điển tịch vì nhà Hạ chưa có
chữ, còn nhà Ân chữ cũng mới xuất hiện nên chưa thể thành điển tịch. Hiến cũng
chưa mang nghĩa hiền tài. Ta có thể hiểu cách giảng của Chu Hy bởi sống sau Khổng
Tử gần 2000 năm, điển tịch đã nhiều, hiền tài cũng lắm. Mặt khác, lúc này chính
điển tịch và hiền tài đang làm nên văn hiến vì vậy ông “hiện đại hóa” phát ngôn
của Khổng Tử!
Tới đây xin mượn đoạn văn của TS Trần Trọng Dương trong khảo cứu công phu Nghĩa
từ nguyên của từ “Văn hiến” qua bối cảnh tri thức Nho giáo Việt Nam-Trung
Hoa nói về sự chuyển nghĩa của từ Văn hiến:
“Sách Vũ cống đồi chỉ 禹貢錐指 (quyển 19) của Hồ Vịnh đời Thanh có đoạn: “自兩漢以降嶺南之風氣漸移犀象毒冒珠璣銀銅果布之湊於是乎在魁奇忠信 材徳之民於是乎生一以為脂膏之地一以為文獻之邦”nghĩa là “từ đời lưỡng Hán về sau, phong khí Lĩnh Nam dần đổi; cho nên sừng
tê, ngà voi, đồi mồi, ngọc bích, vàng, đồng, hoa trái tích tụ đã nhiều; mà những
bậc khôi kỳ, trung tín, tài đức xuất hiện cũng lắm, có thể coi [Lĩnh Nam] vừa
là đất màu mỡ, vừa là nước văn hiến” Đoạn này nhấn mạnh đến nhân vật - yếu tố
chủ thể làm nên văn hiến của một đất nước. Nhân vật đó phải là bậc khôi kỳ, có
đức trung tín và tài năng theo quan niệm của Nho giáo.
Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã
giải thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu
văn tự liên quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết
nhiều” [tr.737]. Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu
tinh thần của Chu Hy…
Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ
văn hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu
văn vật có giá trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư
liệu sách vở quan trọng liên quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học
văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi chung cho bất cứ một dạng vật chất nào
sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri thức, thông tin như: ấn phẩm,
băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét.” Tóm lại, có thể nói rằng, từ văn
hiến trong tiếng Hán đã thu hẹp nét nghĩa ban đầu của Nho học, mà trỏ
chung cho các tư liệu lưu trữ thông tin.
Như vậy ta thấy, ban đầu được Khổng Tử hiểu là Lễ. Nhưng sau đó, do ảnh hưởng
của Chu Hy, Văn hiến trở thành “điển tịch và hiền tài.” Nghĩa này tồn tại lâu
dài, nhưng tới thế kỷ XX, trong các từ điển đã không còn nghĩa ban đầu của Khổng
Tử cũng như Chu Hy mà trở thành những tư liệu lưu trữ thông tin.
Một vấn đề được đặt ra: tại Việt Nam, chữ Văn hiến xuất hiện khi nào?
Rất có thể, nó xuất hiện rất sớm, ngay khi Triệu Đà lập nước Nam Việt, đưa
chữ Hán vào Việt Nam. Nếu muộn thì cũng có mặt khi Sỹ Nhiếp cai trị nước ta, mở
mang việc học cùng với những nho sỹ tỵ nạn từ phương Bắc xuống. Còn trong thư tịch,
cũng theo tài liệu dẫn trên của TS Trần Trọng Dương :
“Sách Dư Địa Chí của
Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào
Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi
thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi
Thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang thông hiếu, vua Dụ Tông sai
Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lạo, hỏi quốc sứ, khen phong tục,
y phục vẫn giống như văn minh TrungHoa, ban cho bài thơ ngự chế rằng”:
安南際有陳 / 風俗不元人
衣冠周制度/ 禮樂宋君臣
An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần.
(Đất An Nam có họ Trần/ Phong tục không theo người Nguyên
Áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu/ Lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)
Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt
lên trên sứ thần Triều Tiên ba cấp” (22, tr.30a-30b).
Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần chính văn của Nguyễn Trãi
đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau: “Người trong nước không
được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp
để làm loạn phong tục trong nước”. Đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện
như sau: 1) Chữ văn hiến được dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần; 2) Nho sĩ đời
Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho
giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng
đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang文獻之邦” vào năm Đại Trị thứ nhất (1368); 3) Như thế, đây là tư liệu thành văn sớm
nhất (trái với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện
trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Đoạn văn trên cũng cho biết một số
thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho
giáo. Đó là bốn yếu tố: 1) Phong tục; 2) Chế độ y quan; 3) Chế độ lễ nhạc; 4)
Ngôn ngữ. Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi (1428):維我大越之國/ 實為文獻之邦 Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang Nghĩa là: Như nước
Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.”
Đoạn dẫn trên cho thấy, từ thơ ngự chế của vua nhà Minh cho đến văn của
Nguyễn Trãi, từ Văn hiến được dùng với nghĩa ban đầu của Khổng Tử: là
Lễ.
Tiếp theo, ta tìm hiểu từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử. Cũng theo TS
Trần Trọng Dương: “Chúng tôi tìm được văn liệu có niên đại sớm nhất là vào
thế kỷ XVII trong cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp/ Tiếp 士燮 *****. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học tổ” như sau:
Quan quân mà lại thầy ta,
Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương
Nước nên “văn hiến chi bang”
Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)
Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:
Tuần này ắt chẳng lo chi
mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân
Đồng niên quý thuế có ngần
Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường
Điều hòa chế độ kỷ cương
Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (c.1924-1928)
... Như thế, văn hiến ở đây tạm có thể phân suất được những nét nghĩa sau:
1) Cương thường (nhân luân); 2) Luật lệ (cho binh và dân); 3) Giáo hóa.
Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp) độ
lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi
là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người"...
Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ
Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há
chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm văn hiến: 1)
Thông thi thư (thông: hiểu; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2) Học Lễ và Nhạc.”
Khi tìm từ Văn hiến trong từ điển tiếng Việt, ta thấy Văn hiến xuất hiện đầu
tiên trong sách Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh (1932) định nghĩa văn hiến là
“sách vở và nhân vật tốt trong một đời”. Xin đọc tiếp Trần Trọng Dương: “Đại
từ điển tiếng Việt “văn hiến: dt. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân
tài” (1, tr.1744). Từ điển từ Hán Việt của Lại Cao Nguyện và Phan Văn Các (2,
tr.534) và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển (3, tr.1697) ghi: “văn hiến.t.d.
truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003)
ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời… Từ điển tiếng Việt
(2000) của Viện Ngôn ngữ học ghi: “văn hiến.d.truyền thống văn hóa lâu đời và tốt
đẹp”(5, tr.1100). Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do Văn Tân và Nguyễn Văn
Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến.t. Cg. Văn vật. Yêu chuộng văn học, văn
hóa: Việt Nam là nước văn hiến” (6, tr.846). Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999)
của Bửu Kế ghi: “văn hiến. văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều
hiền tài có sử sách thì gọi là nước văn hiến” (7, tr. 2309).
Có thể nói, các từ điển tiếng Việt hiện đại chỉ phân suất khái niệm này với
một nét nghĩa chung chung mơ hồ. Đặc biệt là sự không phân biệt rạch ròi giữa
khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo
dài.”
Trình bày ở trên cho thấy, từ nguyên nghĩa ban đầu Khổng Tử dùng Văn
hiến là Lễ thì từ thời Tống, do ảnh hưởng của Chu Hy, Văn hiến trở
thành “điển tịch và người hiền.” Tới thời
chúng ta chỉ còn nghĩa điển tịch, tư liệu.
2. Việt Nam có mấy nghìn năm Văn hiến?
Trước tiên, có thể khẳng định: Việt Nam là nước Văn hiến. Không chỉ người
Việt nói mà còn là nhận xét của vua nhà Minh. Vấn đề cần xem xét: mốc văn hiến
tính từ đâu? Dựa vào định nghĩa khác nhau của từ Văn hiến, cái mốc thời gian
xác định của Văn hiến quốc cũng khác nhau. Phần nhiều người theo định nghĩa của
Chu Hy, Văn hiến là “điển tịch và người hiền” nên cho rằng nước ta hình thành
văn hiến khi Sỹ Nhiếp cai trị, tức khoảng 2000 năm trước. Từ đó kết luận Việt
Nam chỉ có 2000 năm văn hiến. Nhưng có những người khác, hiểu khái niệm văn hiến
theo nguyên nghĩa của Khổng Tử thì lại cho rằng Việt Nam là quốc gia có lễ
nghĩa từ thời Hồng Bàng Xích Quỷ nên có bốn hay năm nghìn năm văn hiến.
Bài viết của TS Trần Trọng Dương cũng đề cập tới văn cảnh tiếng Việt
sớm nhất xuất hiện cụm từ “bốn ngàn năm văn hiến.” trong lời
giáng bút của Thánh Mẫu năm 1923, có đoạn:
“Sông Nhị núi Nùng, nước bốn ngàn năm văn hiến
Con Hồng cháu Lạc, dân hai mươi triệu đồng bào (13, tr.216-218).”
Nói tới lời giáng bút của Thánh Mẫu là câu chuyện nhạy cảm. Rất dễ bị gán
cho tội “mê tín dị đoan.” Nhưng bỏ qua, coi như không có thì cũng không xong vì
lẽ muốn hay không, trên giấy trắng mực đen, cũng là lần đầu tiên hiện lên dòng
chữ ấy! Chúng ta phải giải mã một cách thận trọng.
Theo thiển ý, vào thập kỷ 1920, sau khi khởi nghĩa Yến Thế thất bại, hoạt động
yêu nước của dân ta lắng xuống, chuyển sang hình thức những hội khuyến thiện mà
trung tâm là những đền, điện thờ Đạo Mẫu. Nhiều bản kinh Đạo Nam ra đời. Kinh
là lời của Thánh được thông ngôn qua con người. Người cầu cơ là những người có
học, hiểu kinh sách, lịch sử. Do vậy, trong các bản kinh, cùng với nội dung dạy
về nhân nghĩa, đạo lý có nhiều bản nói về lịch sử, trong đó nhắc lại truyền
thuyết về cội nguồn. Giữa thời vong quốc đen tối đó, lòng người vọng tưởng nhiều
về Tổ Lạc Long Quân, Âu Cơ với nòi giống Tiên Rồng và nước Xích Quỷ
năm Nhâm Tuất. Do thấm nhuần ý tưởng Văn hiến = Lễ nên có những người tin rằng,
khi Xích Quỷ ra đời, dân tộc Việt đã có Lễ cũng tức là có Văn hiến. Tới nay đã
có Văn hiến 5000 năm. Tuy nhiên, trước mặt vẫn là nền văn minh Trung Hoa lừng lững
5000 năm, với quan niệm “trứng không thể khôn hơn vịt” nên đành “ăn non” chọn
giải pháp an toàn “4000 năm văn hiến”. Ý tưởng đó của Con Người được mượn lời
Thần Thánh ghi thành Kinh và rất nhanh chóng phổ biến ra toàn dân, thấm vào
lòng người đang khát khao. Cũng do vậy mà bên cạnh luồng chính “bốn nghìn năm”
thì dai dẳng những ý kiến âm thầm “Năm nghìn năm văn hiến.”
3. Khẳng định 5000
năm văn hiến
Ở thế kỷ trước, nước Xích Quỷ, Tổ Kinh Dương Vương… chỉ là ảo ảnh xa vời
trong huyền thoại mà người Việt thường tơ tưởng như kẻ mơ ước hái sao trên trời.
Nhưng sang thế kỷ này, khoa học đã mở rộng đường cho ta tìm lại cội nguồn. Nhờ
đọc được cuốn thiên thư DNA trong máu huyết của người Việt cũng như người châu
Á, ta biết rằng khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai
phá Hoa lục. Khảo cổ học cho thấy tổ tiên ta sáng tạo những nền văn hóa nông
nghiệp kỳ vĩ ở phương Đông. Trong đó nổi bật lên là văn hóa Lương Chử. Được
phát hiện năm 1936 tại trấn Lương Chử, huyện Dư, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết
Giang, văn hóa Lương Chử là nền văn hóa khảo cổ Hậu kỳ Đá Mới, tồn tại từ 3300
tới 2200 năm TCN. Thành phố cổ Lương Chử có thể được gọi là "thành phố
phương Đông đầu tiên", là "bình minh của nền văn minh" phương
Đông, là thánh địa của văn minh phương Đông…(1)
Như vậy, vương quốc Lương Chử là có thực. Trên lãnh thổ của vương quốc, tồn
tại dai dẳng duy nhất nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Với nhiều yếu tố trùng hợp
giữa thực địa và truyền thuyết, ta có đủ cơ sở để cho rằng, Lương Chử là kinh
đô của Xích Qủy. Nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện chính là nhà nước
Xích Quỷ trong truyền thuyết. Việt Nam là hậu duệ của nhà nước Xích Quỷ nên có
5000 năm văn hiến.
Việc phát hiện thành phố cổ Lương Chử khiến cho một số người nghĩ rằng thứ
thế các triều đại của Trung Quốc nên được viết lại. Hiện nay các triều đại Hạ,
Thương, Chu được coi là sớm nhất, nhưng vai trò này cần được trả cho Lương Chử!
Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, giới học giả Trung Quốc thừa
nhận: “Văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc.”
Trong cuốn sách nổi tiêng Nhiệt đới buồn, Claude-Lévi-Strauss cho rằng “Con
người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ
lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ
là sự lặp lại những giai đoạn đã qua.” “Một trong những giai đoạn
nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự
phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này,
không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ
lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền
đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một
cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” ( Tristes tropiques, Paris Plon, 1955,
tr.269.) Đúng như nhận định của tác giả Nhiệt đới buồn, Văn hóa Lương Chử là đỉnh
cao nhất của văn hóa phương Đông, tích tụ những thành quả của 70.000 năm phấn đấu
sáng tạo của người Lạc Việt.
Điều này cũng nói lên rằng Xích Quỷ là một nhà nước văn hiến theo cái
nghĩa ban đầu của Khổng Tử. Kế thừa từ Xích Quỷ-Lương Chử nên Việt Nam có 5000
năm văn hiến.
Sài
Gòn, tháng 8 năm 2018
1.良渚文化_百度百科 http://baike.baidu.com/view/1556.htm
SỰ KHỐN
CÙNG CỦA TRÍ TUỆ
Vẫn nghĩ rằng, trong tình hình hiện nay, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội X sẽ
chưa có gì đột phá. Nhưng không ngờ nó lại cũ kỹ, bảo thủ đến vậy. Điều này chứng
tỏ rằng những người chủ trương soạn thảo quá xa rời cuộc sống, bất chấp tâm lý
nguyện vọng của nhân dân, coi nhẹ lợi ích dân tộc, không đại diện cho trí tuệ
và nhân cách hàng triệu đảng viên. Vì trách nhiệm chung, chúng tôi xin chân
thành góp đôi lời.
1. Chín điều lú lẫn
Chúng tôi nhặt sơ sơ từ bản Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội X ra 9
điều lú lẫn:
Điều lú lẫn thứ nhất: Tình hình thế giới và khu vực diễn biến
hết sức phức tạp.
Không biết nằm mơ giữa ban ngày hay từ hành tinh khác vừa giáng thế mà người
viết Dự thảo dám hạ một câu xanh rờn như vậy? Ai cũng biết rằng, sau cơn bão
tài chính năm 97 mà Việt Nam chỉ bị bão rớt thì năm năm qua tình hình khu vực
Đông Nam Á là ổn định. Do chính sách đổi mới đáng tin cậy nên uy tín Việt Nam với
bạn bè được nâng cao. Tuy đôi lúc có căng với ta về tự do tôn giáo và nhân quyền
nhưng các nước cùng các định chế tài chính vẫn áp dụng chính sách khá ưu ái với
ta. Vốn đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển ODA tràn vào giải ngân không kịp… Phải
nói là tình hình khu vực và thế giới rất thuận lợi cho ta, chưa bao giờ thuận
như thế! Thuận như thế mà không biết tranh thủ thời cơ, lỡ nay mai khó
thực thì xoay sở thế nào? Sự nhận định không đúng của Dự thảo thể hiện điều gì?
Rõ ràng là thuận đà ca sáu câu trình độ thấp, thiên tai, dịch bệnh… từ một nghị
quyết trước đó, người viết thiếu tỉnh táo “cóp” lại nguyên xi!
Điều lú lẫn thứ hai: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đây là việc làm không khả thi vì phản khoa học. Kinh tế thị trường tuân theo
quy luật cung cầu, nó linh động mà đỏng đảnh như gió. Những nước tư bản với 300
năm làm kinh tế thị trường mà có nước nào dám nói đã hoàn thiện thể chế? Các
nhà kinh tế tài giỏi nhất, lĩnh giải Nobel, nhiều lắm cũng chỉ có thể phát hiện
ra 1-2 quy luật hay dự báo tương đối gần việc vận hành của nền kinh tế! Đường
đi của kinh tế là con đường từ cuộc sống sinh ra, nó biến chuyển cùng cuộc sống,
cực kỳ sinh động, cực kỳ sáng tạo. Nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do đã vậy,
còn cái quái thai kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chưa ai biết
mày ngang mũi dọc của nó ra sao liệu có thể áp đặt cho nó một thể chế, một
khuôn khổ được chăng? Việc gì Đảng phải gồng mình lên làm Thượng đế, tự giao
cho mình một công việc không bao giờ làm nổi vậy? Việc gì phải làm cái việc mua
dây buộc mình vậy?
Điều lú lẫn thứ ba: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc.
Không kể sự bất thông về ngữ pháp tiếng Việt thì câu trên là một núi mâu
thuẫn, chứng tỏ một tư duy không lành mạnh.
Trong xã hội có nhiều giai cấp, ngoài sự độc lập thống nhất quốc gia là tài
sản chung, thì quyền lợi các giai cấp không đồng nhất. Vì vậy, một khi đã đại
diện cho giai cấp này thì không thể đại diện cho giai cấp khác. Lẽ cố nhiên,
khi đã đại diện cho giai cấp công nhân thì không thể đại diện cho quyền lợi của
giai cấp tư sản. Như vậy cũng không thể đại diện cho cả dân tộc! Xã hội là tổng
hoà quan hệ giữa các giai tầng. Các quyền lợi thường mâu thuẫn nhau nên nhà nước
sinh ra để điều hoà mối quan hệ này. Do vậy, bất cứ chuyên chế của một giai cấp
nào đều phương hại đến giai cấp khác và phá vỡ cơ cấu xã hội. Để điều hoà mâu
thuẫn này thì khi đã có đảng của giai cấp công nhân, cũng phải có đảng của giai
cấp nông dân, của giai cấp tư sản, của trí thức… bênh vực quyền lợi cho họ. Các
đảng này đấu tranh trong nghị trường hay dẫn quần chúng xuống đường để cuối
cùng đạt được sự đồng thuận. Nói đảng của giai cấp công nhân lại đại biểu trung
thành cho lợi ích nhân dân lao động và của dân tộc là cách nói lấy được, phản
khoa học, lừa mị phi đạo lý của người cả vú lấp miệng em không cho ai cãi lại.
Không phải người dân Việt dốt nát đến độ không nhận ra sự giả dối của ý tưởng
đó. Nhưng do Đảng một mình một chợ nên người dân đành im miệng!
Điều lú lẫn thứ tư: Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt
nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng.
Khẩu hiệu này không mới, ta đã thấy trong nhiều nghị quyết trước đây. Nhưng thực
tế cho thấy đó là chuyện nói cho vui chứ không bao giờ thực hiện được. Trong
quá khứ, thời hoạt động bí mật hay chiến tranh, tổ chức cơ sở Đảng với những đồng
chí kiên cường, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng và dân tộc, đã làm
nên thắng lợi của cách mạng. Nhưng sự việc đã khác khi xây dựng trong hoà bình.
Lúc này, tổ chức cơ sở Đảng biến thành nơi tước đoạt quyền dân chủ của đảng
viên, đố kỵ nhân tài, thanh trừng những người trung thực, dung dưỡng kẻ bất tài
cơ hội, trở thành nơi tha hoá đảng viên, bắt họ tuân phục những đầu lĩnh quyền
lực. Tổ chức cơ sở Đảng ngày càng hư hỏng - hư hỏng một cách có tổ chức. Thống
kê có đến 85% tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh nhưng cũng có đến ngần ấy
phần trăm các vụ tham ô xảy ta tại những chi bộ, đảng bộ vững mạnh trong sạch!
Cái tệ đoan mang tính nhất quán và hệ thống này nguy hại đến nỗi trên báo Pháp
luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 13/2/06, ông Võ Văn Thôn, nguyên
giám đốc Sở Tư pháp thành phố đã kiến nghị: chỉ tổ chức chi bộ đảng ở địa
phương. Đấy là một sáng kiến nhưng sẽ chằng bao giờ được áp dụng!
Việc giao quyền quá lớn cho cơ quan Đảng cấp tỉnh là một sai lầm nghiêm trọng.
Chính đây là đầu mối nảy sinh tệ địa phương chủ nghĩa, thói cát cứ làm giảm hiệu
lực của nhà nước trung ương, là màn chắn thực thi pháp luật, là cái nôi của
tham nhũng tập thể… Trước thực tế như vậy mà Dự thảo vẫn: Bảo đảm vai trò nền tảng
và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng thì chỉ dẫn Đảng lao sâu xuống vực
thẳm!
Điều lú lẫn thứ năm: Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng.
Hình như lối nói lấy được đã trở thành thói quen của các đảng cộng sản. Thói
quen này hình thành từ thời Lenin, lên cực thịnh thời Stalin. Nhưng đó là điều
cực kỳ dối trá vì đã nhốt hai phạm trù đối kháng với nhau như nước với lửa vào
chung một rọ. Đã tập trung thì không thể có dân chủ. Còn dân chủ thực sự thì
không chấp nhận tập trung. Nguyên tắc này được Lenin đưa ra trong một mưu toan
đánh tráo khái niệm, mị dân và lừa đảo để tước quyền của đảng viên. Năm 1948,
trong bản thảo tiểu thuyết Bác sĩ Zivago, văn hào Pasternak viết đại
ý: “Chuyên chính vô sản có nghĩa là chuyên chính của giai cấp công nhân, nòng cốt
của vô sản. Từ đó dẫn tới chuyên chính của đảng cộng sản, đội tiền phong của
giai cấp. Chuyên chính của đảng tất dẫn tới chuyên chính của ban chấp hành, bộ
chính trị và cuối cùng là của tổng bí thư. Như vậy là sau khi tiêu diệt dòng họ
Romanov, Lenin đặt đít mình lên chiếc ngai của các Sa hoàng.”
Nguyên tắc tập trung dân chủ đã gây bao hệ luỵ cho Đảng Cộng sản Việt Nam và
dân tộc Việt Nam. Dưới chiêu bài dân chủ, những người nắm quyền lực thao túng Đảng,
biến đại hội thành tiểu hội, thực thi mưu đồ phe nhóm của mình như có lần Đại
tướng Võ Nguyên Giáp than phiền. Chính nguyên tắc này làm cho Đảng Cộng sản Việt
Nam bị tha hoá mất dần trí tuệ và sức chiến đấu, trở thành vật cản bước phát
triển của dân tộc. Vậy mà Dự thảo vẫn theo nếp nhà, xưng tụng nguyên tắc này
thì quả là sự lú lẫn hết thuốc chữa!
Điều lú lẫn thứ sáu: Mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử,
giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Vẫn biết công tác cán bộ quyết định sự nghiệp của Đảng. Nhưng ngoài “sáu
câu” chung chung muôn thuở về phẩm chất cán bộ, Dự thảo chỉ đưa ra được phép mầu mở
rộng quyền đề cử và ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lự chọn. Nhưng
đó chỉ là bó cỏ buộc vào càng xe trước mõm con ngựa! Anh có quyền ứng cử nhưng
người bầu là của tổ chức, của cấp uỷ cũ. Tuân theo cái gậy chỉ huy, ai dám bầu
cho anh? Một thời công thức trên cũng được áp dụng trong bầu Hội đồng Nhân dân
và Quốc hội, nhưng rối người ta nhận ra ngay đấy chỉ là trò hề. Chúng tôi từng
nghe câu chuyện cười ra nước mắt thế này: Trước Đại hội VI, ông trời con Lê Đức
Thọ gọi Uỷ viên Trung ương Nguyễn Văn Linh đến nhà. Nằm duỗi dài người trên ghế
đu, hạ cố nhìn thuộc cấp, ông thủng thẳng phán: “Khoá này bố trí đồng chí làm Tổng
Bí thư!” Hiện trạng mất dân chủ nghiêm trọng trong Đảng chưa được khắc phục thì
cái phép màu kia chỉ là chuyện nói giỡn, sẽ chỉ được thực thi qua loa chiếu lệ
tốn thời gian, tiền bạc và chuốc thêm sự nhục mạ con người!
Điều lú lẫn thứ bảy: Củng cố, nâng cao chất lượng các
cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận.
Thành tựu nổi bật của Cách mạng Tư sản Pháp là tách nhà thờ khỏi
nhà nước. Nhưng hơn 200 năm sau cuộc cách mạng đó, những người cộng sản
Việt Nam biến đạo cộng sản thành quốc giáo thống lĩnh tư tưởng toàn xã hội với
hệ thống trường Đảng dày đặc, dạy đạo cộng sản cho 2 triệu tín đồ và hàng chục
triệu người ngoại đạo. Trong các trường Đảng ấy, người ta dạy những tín điều
quá chừng sai lầm và lạc hậu, chỉ dẫn tới kết quả duy nhất là ngu dân. Nhận xét
về việc này, một vị giáo sư phải lên tiếng: “Đó là môn học thày không muốn dạy
mà trò không muốn học.” Cùng với trường Đảng là hệ thống cơ quan tư tưởng văn
hoá ngày càng phình to, ngày càng ôm đồm kiềm toả xã hội, cộng với cơ
quan bảo vệ an ninh tư tưởng văn hoá đã không mở đường cho
sáng tạo mà chỉ nhằm bóp nghẹt, đàn áp tư tưởng, nạo thai, trấn nước, bóp mũi
tác phẩm văn chương. Giở lại lịch sử lãnh đạo văn hoá của Đảng thì thấy từ những
người tù nổi tiếng như Thuỵ An, Nguyễn Hữu Đang, Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Hà
Sĩ Phu cho đến những người bị hành hạ sát ván như Trần Dần, Phùng Quán… không
có ai thực sự phản động. Họ chỉ là trí thức văn nghệ sĩ yêu nước muốn nói
lên suy nghĩ xây dựng của mình. Đảng cũng thấy sai nhưng chưa hề có sự tạ lỗi
thoả đáng với họ. Sau mỗi kỳ đại hội, cái công thức trên được tăng cường và dẫn
đến tệ trạng: nền văn hoá dân tộc bị liệt kháng, mất khả năng
tự bảo vệ chống lại hoạ xâm lăng văn hoá diễn ra hàng ngày.
Vấn đề hôm nay không phải là nâng cao vai trò của các cơ quan tư tưởng, lý luận
mà đời thường hoá, cuộc sống hoá những công việc vốn rất sống
động rất đời thường này để tự cuộc sống sáng tạo ra con đường của mình. Không
phải trói buộc mà là cuộc cởi mở thực sự. Hãy tin dân, tin trí thức và trả lại
cho dân những công việc vốn dĩ của họ.
Điều lú lẫn thứ tám
Dự thảo văn kiện cho thấy Đảng rất tự hào về thành tích lãnh đạo đổi mới của
mình. Đấy là ngộ nhận tệ hại. Thực chất của đổi mới là gì? Là việc dân tộc bị đẩy
tới đáy vực khốn cùng đã vùng dậy tháo gỡ những dây nhợ mà Đảng trói buộc: nông
dân phá xiềng tập thể hoá, thương nhân xé rào cấm chợ ngăn sông, nhà sản xuất lỏn
lẻn gỡ bỏ những cấm kỵ về chức năng kinh doanh, xin được quyền xuất nhập khẩu,
he hé mở cửa với thế giới… Có thể mô tả hiện tình dân tộc Việt hai chục năm nay
như sau: Cả dân tộc đi lên từ đáy vực khốn cùng, bước từng bước run rẩy. Trong
khi đó, Đảng đối mặt với nhân dân (quay lưng về tiến bộ), một tay tháo gỡ những
mắt xích không còn giữ được, một tay cố trì níu những mắt xích khác, miệng niệm
thần chú quản tới đâu mở đến đấy! Và ở cuối cái chặng đường giằng co vật lộn, Đảng
lui từng phân, dân lấn từng bước ấy; Đảng, theo truyền thống, một lần nữa lại
cướp công của dân, tự thưởng huy chương cho mình, bắt dân vỗ tay tung hô sáng
suốt!
Điều lú lẫn thứ chín
Có thể kể ra nhiều nhiều những điều lú lẫn khác trong bản Dự thảo nhưng
chúng tôi xin tạm dừng để nói về điều lú lẫn tệ hại nhất: Kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Trước hết, đây là lầm lẫn lớn. Từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra mục tiêu độc lập dân tộc. Từ 30/4/75 mục tiêu đó hoàn thành. Tại sao, sau
30 năm sạch bóng quân xâm lược, đất nước thu về một mối mà Dự thảo Báo cáo
Chính trị trình Đại hội X vẫn còn ghi mục tiêu độc lập dân tộc? Nếu không phải
yếu kém về chính trị thì người viết quá dốt tiếng Việt. Về tư tưởng Hồ
Chí Minh: Chúng tôi cho rằng thực tế không hề có cái gọi là tư tưởng
Hồ Chí Minh. Việc Cụ nhắc lời người xưa trong các bài viết bài nói là nhằm truyền
bá tư tưởng của ông bà lại cho đồng bào. Chính Cụ cũng nói mình không hề có tư
tưởng gì cao siêu cả. Việc “phát hiện” ra rồi xưng tụng cái gọi là tư tưởng Hồ
Chí Minh là không khoa học nên không thuyết phục. Điều ngộ nhận nhuốm màu sắc
cơ hội chủ nghĩa này không những không làm vẻ vang cho Hồ Chí Minh mà còn gây
phản cảm tai hại. Chúng tôi cũng tin rằng có những người mưu toan núp sau chiêu
bài tư tưởng Hồ Chí Minh để chống Hồ Chí Minh, để che đậy những việc làm xấu
làm ác của mình. Họ cũng từng làm biết bao nhiêu điều xấu điều ác nhân danh Đảng!
Chúng tôi cho rằng, việc nên làm không phải là chế tác ra tư tưởng Hồ Chí Minh
hão huyền mà là vạch ra ranh giới giữa chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc của
Cụ với những gì Cụ mượn từ chủ nghĩa Mác-Lê nin như phương tiện đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Dù sao hai điều kể trên chỉ là chuyện vặt so với điều lú lẫn lớn nhất: kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội!
Lịch sử chứng tỏ, những người cộng sản đầu tiên của Việt Nam là người yêu
nước, theo chủ nghĩa dân tộc. Họ thấy ở lý thuyết của Marx một công cụ khả dĩ
giúp họ giải phóng dân tộc. Quả thật, công cụ đó đã tiếp thêm cho họ sức mạnh.
Nhưng cùng với đà thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thì học thuyết
Marx đã biến dần từ phưng tiện trở thành cứu cánh, thành mục đích chiến đấu của
Đảng. Dân tộc thành thứ yếu, thành công cụ phục vụ cho chủ nghĩa! Khi người ta
“dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa” (Tố Hữu) thì lá cờ đỏ sao vàng từ vị trí độc
tôn nơi BÀN THỜ TỔ QUỐC với khẩu hiệu TỔ QUỐC TRÊN HẾT bị biến thành lá cờ phụ
thuộc, tôi đòi trên kỳ đài! Khẩu hiệu TRUNG VỚI NƯỚC HIẾU VỚI DÂN thời cứu nước
bị thay bằng TRUNG VỚI ĐẢNG ngày độc lập! Khi hoàn toàn nắm vận mệnh đất nước
trong tay, một bộ phận người cộng sản đã tự cho mình quyền thực nghiệm những
công thức cách mạng xã hội ngoại nhập làm tàn dân hại nước mà cả dân tộc từng
cay đắng gánh chịu. Nhìn ra ngoài thì chủ nghĩa cộng sản gây vô vàn tội ác cho
nhân loại: Để áp đặt ý tưởng tập thể hoá nông nghiệp, Lenin cho lính xả súng giết
hàng nghìn Kulak rồi bỏ cho chết đói hàng triệu nông dân. Trong thời của
Stalin, 30 triệu người bị giết và 30 triệu người bị lưu đày trong các trại cải
tạo. Cuộc cách mạng của Mao Trạch Đông làm cho 75 triệu người chết vì bị giết
hoặc vì đói. Pol Pot của Khmer Đỏ giết 2 triệu người. Chủ nghĩa cộng sản cũng
gieo rắc sự giết chóc và tàn phá kinh hoàng trên lục địa Đen. Năm 1974 Mengistu
Haile Mariam, thủ lĩnh marxist giết hàng triệu người Ethiopia. Mugabe ở
Zimbabwe, Gaddafi ở Lybia đang cùm xích nhân dân đất nước họ trong vòng trung cổ.
Lịch sử thống kê rằng, trong thế kỷ XX, có đến 150 triệu người bị giết theo lệnh
của những người marxist. Simon Sebag Montefiore - “Quái vật mang tên Karl Marx”
- Daily Mail 16/7/05. talawas
Với 9 điều lú lẫn ở văn bản siêu quan trọng là Dự thảo Báo cáo Chính trị trình
Đại hội X, không thể không nói rằng, đó chính là sự khốn cùng về trí tuệ và
nhân cách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Nguyên nhân của sự khốn cùng
Vạch ra sự lú lẫn của Dự thảo không khó. Điều khó hơn là chỉ ra nguyên nhân
của sự lú lẫn ấy.
Nói Dự thảo Báo cáo Chính trị là sự khốn cùng về trí tuệ và nhân cách của Đảng
Cộng sản Việt Nam là chính xác nếu văn kiện đó thực sự tập trung trí tuệ của
toàn Đảng. Nhưng trên thực tế đó chỉ là sản phẩm của một thiểu số chóp
bu trong Đảng, hoàn toàn không đại diện cho trí tuệ cũng như nhân cách của 2
triệu đảng viên. Từ lâu rồi, do cơ chế tổ chức và đường lối cán bộ phản
khoa học, phản tiến hoá nên đảng viên bị tước mất quyền dân chủ. Hầu hết người
trung thực dám có ý kiến riêng đều bị vô hiệu hoá hoặc thanh trừng. Trong Đảng
là sự thắng thế của nhiều phần tử cơ hội xu phụ theo quyền và lợi. Vì vậy việc
bầu cử đề bạt chỉ đưa lên hầu hết những phần tử cơ hội bất tài. Cơ quan chóp bu
của Đảng là đỉnh cao của vòng xoáy ma quỷ ấy. Kết quả là Đảng khủng hoảng lãnh
tụ, không có ngọn cờ đủ tài năng, đức hạnh và uy tín. Những nhân vật chóp bu
làm việc theo lối trông chừng nhau, hoàn toàn không thể có sáng kiến cá nhân và
không dám chịu trách nhiệm. Điều này tác động đến mọi hoạt động của Đảng. Từ đó
dẫn tới cái quy trình chế tác Dự thảo văn kiện được vận hành một cách sai lầm:
Vị cai thầu là Gs. Ts. Nguyễn Phú Trọng cho gọi 70 Gs. Ts. tay em đến, giao
nhiệm vụ: “Các đồng chí vinh dự được Đảng tin tưởng giao cho công việc cực kỳ
quan trọng là dự thảo nghị quyết. Các đồng chí hãy mang hết tài năng của mình
ra thực hiện nhiệm vụ. Đảng cho các đồng chí tự do sáng tạo trong 3 khuôn khổ
sau: 1) Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 2) Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và 3) Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt
đối của Đảng.” Các Gs. Ts. vốn được Đảng tín nhiệm, coi là kẻ ăn người ở trong
nhà (lời của ông Hồng Chương đăng trên báo Nhân dân năm 1988),
cắn quản bút trước giấy trắng, trên đầu gờn gợn vết xiết của 3 vòng kim cô. Những
kẻ “học giả” bất tài thì yên tâm với sự chỉ đạo, cóp lại những điều tưởng còn
xài được từ những nghị quyêt cũ đem xào xáo. Những người thực sự có tài có tâm
thì tủi phận và đau đớn nhức nhối với vòng kim cô trên đầu. Nhưng vốn là kẻ ăn
người ở, ăn cơm Chúa múa tối ngày nên cũng đành buông xuôi viết ra những điều
mà chính mình không tin, chính mình cho là lú lẫn! Đó là kết cục tất yếu của
cách ép buộc cuộc sống vận hành theo kiểu đặt chiếc cày trước con trâu!
Quy trình như vậy được lặp lại một cách hệ thống hết đại hội này đến đại hội
khác. Và sự lú lẫn cứ tăng dần theo vòng xoắn ốc. Nhưng chúng tôi xin nhắc lại,
đó hoàn toàn không phải là trí tuệ của đại đa số đảng viên. Trong họ nhiều người
rất có tài rất có tâm đang ngày ngày cống hiến cho dân cho nước tại những vị
trí nguy hiểm, gian nan nhất với mức hưởng thụ thấp nhất!
Bất hạnh là họ bị tước mất quyền dân chủ trong vòng quay nghiệt ngã của Đảng.
Sự việc sẽ hoàn toàn khác nếu việc dự thảo nghị quyết được vận hành theo quy
trình tự do, dân chủ. Nếu thực thi quy trình này thì Giáo sư Nguyễn Phú Trọng
phải là người đủ bản lĩnh nói với cộng sự: “Là trí tuệ và lương tâm của Đảng, Đảng
hoàn toàn tin tưởng ở phẩm chất, trình độ của các đồng chí nên không có bất cứ
hạn chế nào với các đồng chí cả. Các đồng chí có quyền và có trách nhiệm soạn
thảo một cương lĩnh chính trị với mục tiêu tối thượng là đảm bảo độc lập cho
dân tộc, tự do, hạnh phúc cao nhất cho nhân dân. Để làm tốt công việc, tôi xin
gợi ý: các đồng chí chia làm 3 nhóm theo tinh thần tự nguyện, chúng tôi không
chỉ định mà các đồng chí tự cử ra nhóm trưởng của mình. Khi hoàn thành, chúng
ta mở hội thảo để phân tích đánh giá công trình của từng nhóm. Sau đó chúng tôi
sẽ công bố rộng rãi toàn văn ba bản dự thảo cùng những nhận xét chính của hội
thảo để cho đảng viên cùng toàn dân góp ý rồi trưng cầu ý dân bằng bỏ phiếu
kín. Phương án nào được đa số chấp nhận sẽ trở thành văn kiện chính thức trình
Đại hội.”
Tôi tin rằng, với cách làm này, trí tuệ của 2 triệu đảng viên cùng hơn 80
triệu dân Việt cả trong và ngoài nước sẽ tạo ra một bản cương lĩnh tuyệt vời.
Chắc rằng trong bản cương lĩnh được dân tộc chấp nhận, ngoài chủ nghĩa yêu nước
sẽ không có bất cứ chủ nghĩa nào được kiên trì và cũng không có bất cứ đảng
phái nào được độc quyền lãnh đạo đất nước.
3. Kết luận
Thoạt kỳ thuỷ, người yêu nước Việt Nam sử dụng chủ nghĩa Marx như một công
cụ giúp họ giải phóng dân tộc. Nhưng do ma dẫn lối quỷ đưa đường, càng ngày cái
phương tiện càng phình ra biến thành mục đích. Khi đất nước được độc lập thì
cái chủ nghĩa ngoại lai nhập từ trời Tây xa lắc trở thành con quái vật cưỡi lên
đầu lên cổ dân tộc. Với phương cách toàn trị, nó thu hút vào mình phần lớn trí
tuệ của dân tộc Việt để huỷ hoại. Đồng thời nó cũng nuốt vào bụng toàn bộ năng
lực vật chất của đất nước để tiêu phí và tham nhũng. Với những nanh vuốt siêu mạnh
là quân đội, công an, là cảnh sát tư tưởng hùng hậu… nó cho mình vô địch.
Có người ngỏ điều lo lắng này cùng vị sư già. Với giọng trầm như gió thoảng,
nhà sư nói:
“Trong kinh Đại Niết bàn, Đức Phật dạy: Sư tử trùng thực sư tử nhục. Chúa sơn
lâm bá chủ núi rừng, không con vật nào cự nổi. Nhưng ăn thịt chúa sơn lâm lại
chính là loài sán loài giun sinh ra trong bụng chúa sơn lâm!”
Sài Gòn
Xuân Bính Tuất
MỤC LỤC
1. Lời
nói đầu.
tr 5
2. Triết
gia Kim Định với Minh triết Việt. tr 7
3. Lịch
sử phương Đông và nền sử học không ADN.
tr. 14
4. Vì
sao học giả phương Tây cho rằng
“Tiếng
việt mượn 70% từ ngôn ngữ Hán”? 31
5. Phê
bình cuốn Nguồn gốc và quá trình
hình thành cách đọc Hán-Việt. 38
6. Phải
chăng tiếng Việt chỉ có 1200 lịch sử? 49
7.
Ngôn ngữ học lịch sử đi về đâu? 59
8. Thảo luận với PGS. Liam Kelley 66
9.
Không có nô lệ có thể hình thành nhà nước? 71
10.Thêm
một lần buộc phải tranh biện với L.Kelley. 78
11. Trả
lời PGS. Liam Kelley
89
12. Về
hiện tượng Keith Weller Taylor. 90
12.
Trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê về sử Việt. 111
14.
Trao đổi tiếp với Giáo sư Phan Huy Lê về sử Việt. 122
15.
Bàn với G.S Trần Quốc Vượng về văn hóa Việt… 127
16. Lời
ai điếu cho một thời “tứ trụ” 134
17.
Kiêu ngạo và sụp đổ
141
18.
Ghé nhìn cửa sổ danh sư Hà Văn Tấn 147
19.
Xác định lại nguồn gốc An Dương Vương 153
20.
Nhìn lại việc đánh giá Triệu Đà và nước Nam Việt 165
21.
Ngôi nhà xây trên móng tạm.
177
22.
Trao đổi với ông Trần Trọng Dương… 188
23. Có
những điều Giáo sư Ngô Bảo Châu chưa biết 193
24. Bộ
Giáo dục không hiểu chức năng của môn sử 196
25. Lịch
sử dòng họ trong lịch sử dân tộc. 199
26. Số
phận bí ẩn của người Khách Gia. 204
27.
Bàn về việc dạy chữ Nho ở trường phổ thông. 211
25.
Bàn về “Lễ” trong cuộc sống hiện đại. 220
26.
Triết lý giáo dục cho Việt Nam.
225
27.Văn
hóa là định mệnh. 234
28.
Phê bình TS. Đỗ Kiên Cường.
250
29. Lần
thứ ba thưa chuyện với ông TCĐT. 258
26.
Góp phần giải mã di cảo của của sử gia TCĐT. 270
27.
Bàn tiếp với ông Tạ Đức
về nguồn
gốc người Việt-người Mường. 278
29.
Thư ngỏ kính gửi ông Nguyễn Văn Lục. 284
30.
Tìm nguồn gốc của quan niệm đồng bào. 292
31. Việt
Nam có bao nhiêu dân tộc? 298
32. Nhận
thức lại về Bách Việt.
303
33. Đặt
lại vấn đề: Việt Nam có bị Hán hóa? 307
35. Một
cách lý giải khác về vương quốc Phù Nam. 316
37. Những
vấn đề nền tảng của sử Việt. 327
38. Ai
là chủ nhân kinh Dịch. 340
40. Dịch
lý trong ngôi mộ cổ.
346
41. Dịch
lý trong sách cổ.
352
42. Việt
Nho đỉnh cao của minh triết phương Đông. 358
43. Tổ
tiên người Trung Quốc là ai? 370
44. Ra
khỏi Việt Nam chiếm lĩnh thế giới. 383
45. Luận
về vô minh.
401
46. Di
chỉ Cồn Cổ Ngựa và vấn đề tiền sử người Việt. 411
47. Một
giả thuyết về nhà nước Văn Lang. 423
48. Tiếng
Trung Quốc một biến thể suy thoái của tiếng Việt. 441
49. Giải
mã bí ẩn Mông Cổ. 448
50.
Trung tâm sử học bên lề.
456
51.
Bàn lại với Liam Kelley về “sử học bên lề” 498
52.
Trì Hạo Điền, sản phẩm của một nền giáo dục thất bại. 508
53.
Thư gửi Giáo sư Vương Đình Vọng. 513
54.
Trí tuệ Việt ở đâu?
520
55. Sự
khủng hoảng của trí tuệ phương Tây. 528
56. Có
phải người Hán là Viêm Hoàng tử tôn? 540
57.
Phê bình bài “Khảo sát thuyết Ngũ Đế phía Nam vỗ về Giao Chỉ.”544
58. Một
hành động xuyên tạc lịch sử, xúc phạm tổ tiên. 547
59. Những
vấn đề của Phật giáo Việt Nam.
553
60. Giải
mã di ngôn của Trạng Trình trên hai tấm bia Tiên Lãng 566
61. Di
vật văn hóa Lương Chử tại Việt Nam. 574
62. Việt
Nam có mấy nghìn năm văn hiến? 566
63. Sự
khốn cùng của trí tuệ 596
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire