• Tại sao chủ nghĩa Tư bàn – kinh tế thị trường thất bại? Tạo ra khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách
xa ra…
• Một Chủ nghĩa dung hòa trong tương lai, một trật tự chính trị - kinh tế -
văn hóa mới nhằm ổn định trật tự xã hội rất cần thiết cho tương lai toàn cầu.
• Việt Nam hiện đang nằm trong thế chiến lược của tòan cầu hóa và nằm trong
gọng kềm Tư bản – Xã hội cần phải vượt thoát, cần chuyển hóa chủ nghĩa xã hội theo
định hướng kinh tế thị trường thành một chủ nghĩa dân tộc qua những nét văn hoá
đặc thù của dân tộc.
Phần III - Việt Nam giữa hai gọng kềm Mỹ - Trung
Một quốc gia mảnh mai hình chữ S nằm trên hải lộ Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương qua nhiều thế kỷ đã thu hút sự chú
ý của các cường quốc đang tranh giành ảnh hưởng kinh tế và chính trị trong khu
vực. Đường bờ biển dài khoảng 3.400 km tất nhiên là một tiếp nối
cho tuyến đường vận chuyển hàng hóa trên biển nhộn nhịp nhất thế giới. Đó là Việt
Nam, có chung đường biên giới trên đất liền dài 1.281 km với Trung Cộng qua chin tỉnh địa đầu. Quốc gia sau nầy
là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với thương mại hàng hóa song
phương đạt 117,6 tỷ đô la trong 11 tháng năm 2020, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Khi ngành sản xuất phát triển, nhập cảng từ TC, tăng 50% từ năm 2014 đến năm
2019. Đối lại, Hoa Kỳ là thị trường xuất cảng hàng hóa đơn lẻ lớn nhất của Việt
Nam, với doanh thu 49 tỷ đô la trong chín tháng tính đến tháng 11, 2020.
Ngay từ đầu trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, Việt Nam đã được định
hình là một trong số ít những nước được coi là chiến thắng trên thế giới. Các
khoản đầu tư đổ vào và các sản phẩm được vận chuyển ra khỏi các bến cảng vô
cùng bận rộn với số lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, khoản tiền thưởng và tính
dụng nầy có những hậu quả không lường trước được:
· Thặng dư thương mại ngày càng tăng với Hoa Kỳ khiến Việt Nam phải chịu
các loại thuế quan mà chính quyền Trump đã áp đặt lên TC.
· Dòng chảy trùng lặp của các sản phẩm xuất xứ từ TC như nhôm và gỗ dán, được
chuyển hướng về phía nam qua biên giới và dán nhãn giả "Sản xuất tại Việt
Nam" để tránh thuế của Hoa Kỳ, đang tiếp tục căng thẳng quan hệ của Hà Nội
với Washington.
· Ngược lại, cán cân thương mại âm so với TC khiến cho Việt Nam ngày càng
thâm thụt ngân sách quốc gia và ngày càng lệ thuộc vào TC nhiều hơn nữa, nhứt
là nguyên vật liệu sản xuất.
Như vậy, vài câu hỏi được đặt ra là:
· Việt Nam ngày nay có phải là nước cộng sản hay không?
Trả lời rằng: Có và Không. Không là vì Việt Nam đã mở cửa và giao thương với
thế giới bên ngoài. Và Có là vì tất cả các cơ quan của chính phủ Việt Nam đều
do Đảng Cộng sản kiểm soát. Hầu hết những người được chính phủ bổ nhiệm là
thành viên của đảng.
· Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Cộng hiện nay như thế nào?
Ngày nay, TC là thị trường nhập khẩu lớn nhất và thị trường xuất khẩu lớn
thứ hai của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của TC
trong ASEAN và là đối tác thương mại lớn thứ 8 nói chung. Thương mại hai chiều
đạt 106,7 tỷ USD vào năm 2018, gấp 3.300 lần so với năm 1991.
· Việt Nam có thích Hoa Kỳ không?
Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, một cuộc khảo sát vào năm 2015, 40 năm sau
khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, cho thấy 76% người Việt Nam có quan điểm
“thuận lợi” về Hoa Kỳ, con số này thậm chí còn cao hơn 89% ở “những người có học
vấn cao hơn. Đó là một trong những tỷ lệ phần trăm cao nhất so với bất kỳ quốc
gia nào được đưa vào cuộc thăm dò.
1 . Việt Nam giữa hai ngã đường
Khả năng đi dây kinh tế của Việt Nam giữa các đối cực như TC và Tây phương
trong quá khư đã đưa đất nước từ nghèo đói sau chiến tranh đến thành công qua
kinh tế toàn cầu. Việc mở nhà máy của Intel Corp., LG Electronics Inc., Samsung
Inc. v.v… và các công ty đa quốc gia khác đã biến quốc gia này trở thành một
trung tâm sản xuất quan trọng, giúp tạo ra một tầng lớp trung lưu gia tăng. Nền
kinh tế Việt Nam đã mở rộng với tốc độ trung bình hàng năm là 6,6% kể từ năm
2000, thúc đẩy thu nhập trung bình hàng năm lên gần US$ 2.600 từ khoảng US$
400.
2 . Với Trung Cộng
Đối với TC, chỉ vì kết quả nghiên cứu của PEW về tình cảm của dân Việt đối
với Mỹ, từ đó, cường quốc đối kháng/đối đầu là TC đã tỏ vẻ thái độ khác đối với
Việt Nam so với những năm trước đó. Một thái độ lạnh lùng và đôi khi biến thành
thù địch trong hiện tại. Ngày nay, có thể
nói hầu như hàng ngày, cuộc khẩu chiến liên tục giữa TC và Việt Nam diễn ra gay gắt về đường biên giới lãnh thổ
và lãnh hải tức Biển Đông, đặt Việt Nam vào tình thế nguy hiểm qua cung cách trả
đủa kinh tế của TC và các quốc gia lệ thuộc TC như Lào và Cambodia, láng giềng
của Việt Nam.
TC qua Tập Cận Bình luôn luôn nhìn Việt Nam theo nhận định của Ký giả
Dominic Ziegler viết trên The Economist ngày 17/11/2020 như sau:” Một mặt, nhiều
người trong khu vực (Đông Nam Á) đang dè chừng với sứ mệnh mà Chủ tịch TC Tập Cận
Bình đề ra, đó là giành lại vị trí trung tâm ở khu vực Đông Á vốn đã bị phương
Tây và Nhật Bản phế truất vào thế kỷ 19 và 20. Tham vọng này không chỉ thể hiện
ở việc TC đang hung hăng thách thức các tuyên bố chủ quyền hàng hải và lãnh thổ
của Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam ở Biển Đông.”
Quan hệ TC - Việt Nam đang xấu đi do các hành động khiêu khích của Bắc
Kinh, và Hà Nội đã có chỉ dấu báo hiệu một sự thay đổi liên minh với Mỹ có thể
xảy ra. Mặc dù vậy, Việt Nam có thực sự đi theo và kết ước với liên mới được
hay không, còn phụ thuộc vào kết quả của Đại hội Đảng thứ XIII sẽ diễn ra vào
ngày 25/1/2021 đến 2/2/2021 tới đây. Và
sự dằn co nầy khiến cho Việt Nam hiện đang bị một sức ép rất lớn và bị cuốn hút
vào cuộc chiến giữa hai đại cường.
Trong cuốn bạch thư về quốc phòng mới vừa công bố vào tháng 12/2020, lần đầu
tiên sau 10 năm, Việt Nam đã bắt đầu phát đi tín hiệu rằng nước này có thể từ bỏ
chiến lược chính sách đối ngoại lâu dài là “bảo hộ rủi ro” (strategy of
hedging) giữa các cường quốc như TC và Hoa Kỳ và di chuyển dứt khoát hơn vào quỹ
đạo của Washington. Những tài liệu này nhìn chung chứa đầy những biệt ngữ khó
hiểu (turgid jarson), nhưng dù sao, tài liệu nầy lại cho biết một cách thẳng thừng
và bất thường là cảnh cáo TC về hậu quả của việc đẩy mạnh hành vi gây hấn với
Việt Nam ở Biển Đông.
3 . Với Hoa Kỳ
Trước tình thế căng thẳng giữa Việt Nam và TC, dĩ nhiên, Washington sẽ hoan
nghênh một động thái như vậy với vòng tay rộng mở. Mỹ và Việt Nam đã xây dựng
quan hệ chiến lược chặt chẽ và các quan chức Ngũ Giác Đài coi Hà Nội là một
trong những đối tác quân sự mới nổi quan trọng nhất của Mỹ. Ký giả Prashanth
Parameswaran của tu6n báo The Diplomat đã lưu ý, Việt Nam là “một trong những
quốc gia có năng lực quân sự mạnh nhứt ở Đông Nam Á”.
Mối quan hệ song phương càng trở nên quan trọng hơn đối với Washington khi
các nước khác trong khu vực xích lại gần TC hơn. Dưới thời Tổng thống Rodrigo
Duterte, Philippines, một đồng minh trong hiệp ước của Hoa Kỳ lâu năm, nhưng
trong suốt bốn năm qua, tiếp tục xoay trục về phía Bắc Kinh. Chính điều nầy làm
tăng thêm yếu tố gắn bó với Việt Nam của Mỹ hơn nữa vì vị trí chiến lược của Việt
Nam ở Biển Đông, thủy lộ của 40% hàng hóa chuyển vận trên thế giới.
Các nhà hoạch định quốc phòng ở Washington “dường như” tưởng tượng Hà Nội sẽ
không đóng một vai trò nào dù là “cỏn con” trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở
châu Á, hoặc điều mà chính quyền Trump đã gọi là “Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình
Dương”. Điển hình như vai trò có thể bao gồm nhiều chuyến ghé thăm các hải cảng
Việt Nam, các gói viện trợ quốc phòng lớn hơn của Mỹ và có thể Việt Nam thậm
chí tham gia Đối thoại An ninh Tứ giác, một liên minh an ninh lỏng lẻo mà Hoa Kỳ
duy trì với Nhật Bản, Úc và Ấn Độ. Báo cáo quốc phòng mới nhứt vào tháng 12 vừa
qua của Việt Nam tuyên bố rằng các tàu hải quân nước ngoài được chào đón đến
thăm các hải cảng của Việt Nam, một tín hiệu tốt cho Hoa Kỳ cũng như các cường
quốc hải quân khác như Ấn Độ.
Chúng ta hãy nhận xét báo cáo “U.S. Strategic Framework for The
Indo-Pacific của Ủy ban An ninh Quốc gia – National Security Commission vừa mới
được giải mật, cho thấy tên Việt Nam chỉ được nhắc đến một lần thôi ở vào trang
kế chót cùng với Singapore, Malaysia và Indonesia khác với một “câu thòng” là
“làm sâu đậm hơn mối liên hệ”. Điều nầy, có thể chứng tỏ là Mỹ không có một
chính sách cụ thể gì mấy về mối tương quan giữa Việt Cộng và Trung Cộng. Trong
tài liệu này, vai trò của Việt Nam thấp hơn cả các tiểu quốc hải đảo Thái Bình
Dương nữa. Trong lúc đó Thái Lan và Philippines, và Taiwan được Mỹ xem như là một
đồng minh chiến lược trong báo cáo như hình dưới đây:
Mặt khác, Hà Nội vẫn giữ thái độ dè chừng với TC, vì cũng phải xem xét sự
thất bại về ngoại giao và kinh tế của việc liên kết chặt chẽ hơn với
Washington. Việt Nam đã từng duy trì mối liên kết kinh tế gắn bó với TC trong một
thời gian dài, cho nên, việc xoay trục qua hướng Mỹ có thể làm cho các nhà đầu
tư TC sợ hãi và rút lui khỏi Việt Nam!
Và quan trọng hơn cả, Việt Nam vẫn còn nghi ngờ việc Hoa Kỳ sẽ đến giúp để
bảo vệ Việt Nam nếu một cuộc xung đột lớn nổ ra ở Biển Đông hay không?
Thêm một câu hỏi nữa là người Mỹ và chánh phủ Hoa Kỳ nghĩ gì về Việt Nam và
vị trí chiến lược của Việt Nam ở Thái Bình Dương?
Xin mời đọc nhận định của GS Nguyễn Chữ trích trong quyển sách của tác giả
dưới tựa đề “Một góc nhìn về Chiến tranh Mậu dịch Mỹ - Trung và Hệ quả đến Việt
Nam” (sẽ xuất bản 2021) về suy nghĩ của TT Nixon năm 1967, như sau:” Trong quá
trình giải thích quan điểm của mình, “với tư cách là một công dân” Mỹ,
ông Richard M. Nixon đã đưa ra các nhận định sau đây:
· Thứ nhất, có dấu hiệu cho thấy sự hoài nghi của tất cả các
chủ thuyết hay giáo điều cũ vì
chúng đã trói buộc nhiều tư duy và chính phủ; do đó, các chính
quyền không cộng sản tại Á Châu đang tìm giải pháp có thể giải
quyết vấn đề thay vì giải pháp phù hợp với các chủ thuyết hay giáo
điều định trước. Và hầu hết các chính quyền này nhận thức một nguy
hiểm chung và biết nguồn góc của nó là từ Bắc Kinh.
· Thứ hai, một trong các hành động nổi bật nhất ngay sau đệ nhị
thế chiến là các đế quốc đã trả độc lập cho các thuộc địa và các
khẩu hiệu mà các quốc gia mới được độc lập dùng để đổ lỗi cho các
đế quốc cho những khó khăn và trở ngại của quốc gia đã không còn
được giới trẻ chấp nhận như thế hệ cha ông của họ trong những ngày
tháng sau đó. Bởi vì họ không biết hay gặp một “đế quốc” nào trong
cuộc đời của họ, cho nên các khẩu hiệu này không thuyết phục được
họ, và giới trẻ còn cho đây là một luận cứ chạy tội hay trốn trách
nhiệm đối với những khó khăn hiện tại trong xã hội. Do đó, nếu không
hài lòng với những gì họ cảm nhận, họ sẽ quy trách nhiệm cho các
lãnh đạo hiện thời.
· Thứ ba, “con người,” trong ý nghĩa rộng nhất là “dân tộc”, đã
trở thành tập thể để được phục vụ chứ không phải để sử dụng.
· Thứ tư, không phải cơ cấu của tất cả chính quyền không cộng sản
tại Á Châu, được tổ chức theo, hay phù hợp hoặc thích nghi với, thể
chế dân chủ lập pháp với ba quyền phân định, thật ra thì họ rất
khác biệt với thể chế này. Hơn nữa, Mỹ phải hiểu rằng hệ thống
chính trị vô cùng phức tạp và vô cùng tiến bộ mà phương Tây phải
mất nhiều thế kỷ để triển khai và hoàn chỉnh có thể không là một
thể chế tối ưu cho các quốc gia, với văn hóa và truyền thống rất
khác biệt, và đang ở giai đoạn phôi thai trong quá trình phát triển
của họ. Ông Nixon cho rằng vấn đề quan trọng ở đây là các chính phủ
đang thực thi những chính sách theo kế hoạch, có ý thức, và cân nhắc
để mang đến tự do, giàu mạnh; gia tăng sự chọn lựa, và bao gồm nhiều
cá nhân và tổ chức vào quá trình điều hành quốc gia.
Và sau cùng, Ông và Mao Trạch Đông, đưa đến Thông cáo chung Thượng Hải
(the Shanghai Communiqué) đã được công bố vào ngày 28 tháng 2 năm 1972 tại Thượng
Hải”. Sau đó, Nixon thậm chí còn đề cập đến Ấn Độ là một thành viên có thể của
một liên minh khu vực chống TC. Rõ rang là vào năm 1972, TT Nixon đã hình dung
được chiến lược bao vây TC bằng trục Ấn Độ - Thái Bình Dương ngày nôm nay,
2021.
Thấy được quan điểm của Hoa Kỳ, thử hỏi, Việt Nam với một tâm cảm như trên,
liệu có hành động theo ngôn ngữ cứng rắn mà các nhà chiến lược quốc phòng đưa
ra hay không?
Điều nầy còn phụ thuộc vào ba yếu tố: - Việc ai sẽ lên nắm quyền lãnh đạo đảng
CSBV vào năm 2021, - Chính sách mới của chính quyền Biden, - Và những xáo trộn
nội tại của xã hội Tàu có thể làm cho Tập Cận Bình chuyển hướng hay bị “hất cẳng”?.
4 . Thái độ cứng rắn của Hoa Kỳ đối
với Trung Cộng hiện tại
Người viết xin trích một thông báo của Ban Điều Hành thuộc Nhóm Vận động gồm
trên 150 Hội đoàn tôn giáo, chính trị, khoa học, các cá nhân, nhiều tổ chức vô
vị lợi (NGO) từ khắp nơi trên thế giới… tố cáo “Trung Cộng là nguyên nhân gây
ra tội ác diệt chủng cho nhân loại” vừa tung ra dưới đây:
“Congressional-Executive Commission on China - Ủy Ban Hành Pháp-Lập Pháp về
Trung Quốc là một ủy ban kết hợp giữa Thượng Viện, Hạ Viện và Nội Các Chính Phủ
Hoa Kỳ về Trung Cộng. Được thành lập từ năm 2001, Ủy Ban ra báo cáo thường niên
cho Tổng Thống và Quốc Hội về các vấn đề liên quan đến Trung Cộng. Bản báo cáo
năm nay, nguyên văn 373 trang và tóm lược 32 trang (đính kèm), kết luận: “Chinese
government is committing crimes against humanity and possibly genocide” - Chính
phủ Trung Quốc đang phạm tội ác chống nhân loại và có thể là diệt chủng. Ủy Ban
kêu gọi Chính Quyền và Quốc Hội đưa ra quyết định chính thức về việc có tội ác
diệt chủng hay không. Những tội ác chống nhân loại của Trung Cộng liên quan đến
Việt Nam trong bản báo cáo được liệt kê dưới đây:
Trang 15: “Phụ nữ và trẻ em gái bị buôn bán ở Trung Quốc với mục đích cưỡng
bức hôn nhân và bóc lột tình dục. Quốc gia xuất xứ của họ bao gồm Việt Nam.”
Trang 142: Việt Nam “Chuyển phụ nữ mang thai qua biên giới sang Trung Quốc
để bán trẻ em sơ sinh.”
Trang 177: Ủy Ban cũng “Quan sát việc buôn người từ … Việt Nam qua Trung
Quốc vì mục đích cưỡng bức lao động.”
Trang 226: “Vào tháng 4 năm 2020, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại
Hoa Kỳ đã sử dụng phân tích vệ tinh để phát hiện ra rằng các con đập của Trung
Quốc đang chặn dòng chảy của sông Mekong và gây ra hạn hán ở các nước hạ lưu
như Lào, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam; phản hồi chính thức của
chính phủ Trung Quốc được báo cáo là kết luận này là ‘không hợp lý’.”
Từ đây, chúng ta thấy thêm một khía cạnh độc ác của nhà cầm quyền TC.
5 . Việt Nam giữa hai gọng kềm Mỹ - Trung
Việt Nam đặc biệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi rủi ro về địa chính trị do phụ
thuộc vào thương mại một khi có xung đột giữa hai cường quốc đối cực Mỹ -
Trung. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, xuất cảng của Việt Nam gần như chiếm
100% tổng sản lượng quốc gia (GDP), khiến nước này đương nhiên trở thành một
trong những quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào thương mại nhất trên thế giới.
Nhưng tất cả có thể thay đổi nếu Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến thương
mại hoặc trở nên thù địch với TC. Scott Rozelle, nhà kinh tế của Đại học
Stanford, cho biết một khi một nền kinh tế đang phát triển bắt đầu mất chỗ đứng,
thì rất khó để phục hồi. Ông nói: “Bất kỳ sự sụt giảm đột ngột và liên tục
nào về tốc độ tăng trưởng của nó đều có thể ngăn chặn đà tăng trưởng của nó.”
Đó là một nhược điểm lớn nhứt của Việt Nam vì không có một nội lực kinh tế quốc
dân nào khác ngoài ngoại thương!
Đối với TC, bất chấp những khúc mắc và trắc trở trong mối liên quan với Việt
Nam, TC vẫn yêu cầu Hà Nội bảo đảm rằng họ vẫn nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của
Bắc Kinh và thúc đẩy thương mại và đầu tư ở Việt Nam. Lãnh đạo Đảng Cộng sản
hai nước thường xuyên hội đàm trong lãnh vực nầy.
Ngược lại, đối với Hoa Kỳ, họ cho tàu chiến đến thăm các quốc gia Đông Nam
Á để tham gia các hoạt động chung với Hải quân Việt Nam. Năm 2018, tàu sân bay
USS Carl Vinson đã ghé thăm Đà Nẵng. Vào tháng 11, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ
Mark Esper thông báo Hoa Kỳ sẽ cung cấp cho Việt Nam nhiều tàu cảnh sát biển -
Coast Guard cutter. Các quan chức quân sự và ngoại giao khác của Mỹ thường
xuyên tới Hà Nội. Năm 2016, Tổng thống Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát
thương của Hoa Kỳ cho Việt Nam. Washington tiếp tục hỗ trợ nhiều dịch vụ dân sự
và quân sự khác cho đến ngày nay.
Trong lúc đó, Hà Nội cố gắng chứng tỏ sự trung lập của chính mình vì còn dè
chừng TC. Ông Phạm Quang Vinh, cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ, cho biết: “Chúng tôi
không muốn lựa chọn bên nào. như chuyến thăm năm 2017 của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc tới Nhà Trắng Trump. "Cách phòng thủ tốt nhất của chúng tôi là có
quan hệ tốt với cả hai cường quốc lớn".
Vì vậy, Việt Nam cần phải đi dây bằng cách nhằm giữ vững mối giao kết quan
hệ đồng đều với cả Mỹ và TC, mỗi khi một quan chức cấp cao của Việt Nam thăm
Washington, họ hầu như luôn đến thăm Bắc Kinh.
Có thể nói điều đáng sợ nhứt của Việt Nam hiện tại là sẽ xảy ra một vài cuộc
đụng độ bất ngờ giữa TC và Mỹ trên Biển Đông vì một lý do gì đó. Điều nầy, có
thể bẻ gảy chiến lược đu dây của Việt Nam, và làm mất đi sự cân bằng sức mạnh
giữa hai gọng kềm Mỹ - Trung; từ đó, Việt Nam sẽ hụt hẫng và không biết sẽ phải
đi về đâu?
Tóm lại, cho đến giờ phút nầy, Việt Nam vẫn còn do dự trong quyết định chọn
lựa thái độ dứt khoát trước hai đại cường. Đây là một chọn lực hết sức nguy hiểm
trong tình trạng nước Mỹ hiện tại, một quốc gia đang đối diện với cuộc khủng hoảng
chính trị - xã hội trầm trọng.
Sự do dự trong lựa chọn hướng đi là đúng, nhưng yếu tố thời gian không cho
phép Việt Nam “đứng hai hàng” lâu hơn nữa vì cơn đột biến chính trị - quân sự
trên thế giới có thể xảy ra bất cứ lúc nào, ngay từ giờ phút nầy!
6 . Thay lời kết: Con đường phải đi
Xây dựng một quốc gia không phải chỉ cần tạo ra một chánh phủ với ba ngành
phân lập như Hành pháp - Lập pháp - Tư pháp với Cảnh sát để giữ trị an, Quân đội
để giữ gìn an ninh bờ cõi v.v…Một quốc gia như vậy sẽ là một quốc gia không có “hồn
nước”, “hồn dân tộc”. Điều nầy đã được chứng minh qua lịch sử cận đại. Hoa
Kỳ nhân danh tự do, áp đặt và xây dựng “tiền chế” bao nhiêu chánh phủ cho nhiều
quốc gia trên thế giới, nhưng rốt cuộc chỉ tạo ra thêm nhiều xáo trộn cho chính
quốc gia mà Hoa Kỳ đã …tạo dựng!
Cũng giống như nước “Tàu” qua nhiều triều đại khác nhau suốt bốn ngàn năm
qua đã cai trị Việt Nam trên 1.000 năm với việc trực tiếp cai trị, hoặc dựng
lên một “ông vua” bù nhìn…Rốt cuộc vẫn không thể chiếm giữ vĩnh viễn được Việt
Nam.
Và ngay chính người CSBV, trong suốt 75 năm qua ở Bắc Việt và 45 năm ở Nam
Việt cũng đã cai trị đất nước và dân tộc Việt bằng sức mạnh, bằng đàn áp, bằng
bóp nghẹt sức sống của người dân, xóa bỏ căn tính căn bản của tộc Việt là ‘gia
đình’; vì vậy, họ thất bại và bị cả dân tộc ruồng bỏ, bất hợp tác. Có chăng,
dân tộc hiện tại dưới cặp mắt của CSBV chì bao gồm Bộ Chính trị, Trung Ương đảng
cùng năm triệu đảng viên của họ!
Từ những thất bại trong việc tạo dựng hay cai trị một quốc gia liệt kê trên
cho chúng ta thấy rõ rằng:
Việc cai trị một dân tộc bằng sức mạnh, bằng vũ lực, đi ngược lại “bản sắc
dân tộc, văn hóa dân tộc” của quốc gia bị cai trị, chắc chắn sẽ đi đến thất bại
mà thôi!
Vì vậy:
Xây dựng một quốc gia không chỉ dừng lại ở các khái niệm trên, mà còn cần
phải có tầm nhìn rộng hơn nữa. Việc cần phải lưu tâm là tổng hợp tất cả nét độc
đáo của dân tộc sống chung trong quốc gia từ yếu tố cấu tạo ra gia đình và xã hội,
bản sắc riêng của từng dân tộc, và cấu trúc văn hóa, ngôn ngữ, và lịch sử dân tộc.
Đó là những yếu tố đặc thù, là căn tính của một dân tộc (national identity) tạo
ra sự gắn kết mọi người dân và là những điều không thể bị áp đặt từ một quốc
gia khác.
Trong trường hợp Việt Nam qua sự cai trị của người “Tàu” trong suốt
chiều dài lịch sử, có một yếu tố lớn khác tác động đến việc kiến tạo căn tính
quốc gia là “chứng lãng quên lịch sử” - “historical amnesia”. Sở dĩ, dân
tộc Việt còn tồn tại cho đến ngày nay vì vẫn còn nhớ ‘hoài’ ngàn năm nô
lệ từ một “tội ác lịch sử” – original crime do người “Tàu” gây nên, vì vậy mới
tồn tại được!
Qua những suy nghĩ trên, việc chọn lựa hướng đi cho tương lai Việt Nam
không thể bỏ qua yếu tố căn tính dân tộc nầy.
Người Cộng sản Bắc Việt cần lưu ý hai điều dưới đây:
· Hướng theo Tàu: Tương lai sẽ là một chư hầu của TC trước mắt. Tên nước Việt
Nam sẽ không còn.
· Hướng theo Mỹ: Cánh cửa dân chủ -
tự do mở rộng, sự hiện diện của CSBV sẽ không tồn tại nữa. Việt Nam minh châu
Trời Đông xuất hiện!
Chỉ còn con đường duy nhứt là tự chủ và độc lập dân tộc và trở về với căn
tính dân tộc.
Muốn làm được vậy, cần phải:
- Chối bỏ tâm thức nô lệ Tàu đã in sâu trong trí não của người CS BV.
- Xóa đi tư tưởng và định kiến “khôn lõi” cho rằng người Mỹ rất dễ bị
gạt.
Một khi vết tích của hai luồng tư tưởng trên được xóa sạch, người CSBV có
thể từ đó nhận thức được “bản lai diện mục” của một dân tộc nhân hậu, ôn
nhu trước mọi tình huống, cư xử với nhau với tình đồng loại, đồng chủng, không
phân biệt “chỉ có sĩ phu Bắc Hà mới biết lý luận” như tuyên bố của NP Trọng.
Có được như vậy, con đường tự chủ và độc lập dân tộc sẽ hé mở báo hiệu một
tương lai rực rỡ cho dân tộc Việt như dưới triều đại Đinh Lê Lý Trần.
Hỡi những người cộng sản Việt.
Chủ nghĩa cộng sản không tưởng đã cáo chung rồi.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một chuỗi từ ngữ
mơ hồ, ngay cả những người đẻ (Bộ Chính trị) ra chữ nghĩa trên cũng không thể
nào lý giải được. Vì vậy khi áp dụng, đã biến một quốc gia với mức xuất cảng gạo
từ 6 - 7 triệu tấn/năm thành ra một nước đói gạo, phải nhập cảng 800.000 tấn từ
Ấn Độ (12/2020).
Dân tôc Việt đã phải chịu quá nhiều tai ương hơn 75 năm ở miền Bắc và 45
năm ở miền Nam.
Đã đến lúc phải ngưng bàn tay vấy máu lại đi, hỡi người cộng sản Bắc Việt.
Nếu không, cảnh Trời tru, Đất diệt sẽ triệt hạ người cộng sản cuối cùng
trên quê hương Việt Nam!
Chỉ còn con đường duy nhứt phải chọn là: ” Việt Nam trong gọng kềm Tư bản
– Xã hội cần phải vượt thoát, cần xóa bỏ chủ nghĩa xã hội theo định hướng kinh
tế thị trường thành một chủ nghĩa dân tộc qua những nét văn hoá, phong tục đặc
thù, và trở về với căn tính dân tộc nguyên thủy của con dân Việt tộc”.
* Mai
Thanh Truyết
Viết
trong niềm tin – Cuối năm Giáp Tý – 1/2021
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire