(Bài thứ 5 trong 20 bài về Văn Hiến Việt Nam)
I - DẪN NHẬP:
Đối với người Việt Nam nói riêng và Đông Phương nói
chung, chữ Tâm là chữ quan trọng nhất, nhưng cũng khó hiểu nhất, Trong bài này
chúng ta cùng tìm hiểu:
- Nguồn gốc và bản chất của
Tâm
- Đặc điểm của Tâm
- Giá trị và Quyền năng của Tâm
- Khái quát phân loại
tâm:
- Tu Tâm Dưỡng Tánh
+Tâm là “tiên nghiệm” chứ
không phải “hậu nghiệm”: Con người ai cũng có tâm, không phải cầu xin các đấng
thần linh nào. Cũng không ai hiểu tâm bắt nguồn từ đâu nên tâm là “Nguồn vô
nguồn”
+ Nhiều người đặt câu hỏi:TÂM
LÀ GÌ ? Ý muốn tìm hiểu “Bản chất tâm là gì” ? nhưng đặt câu hỏi như vậy là sai
vì Tâm không là gì ! Tâm là… Vì nếu
tâm là một “ vật gì”…. Thì tâm không phải là Tâm ! Lục Tổ Huệ Năng đã nói :”BẢN LAI VÔ NHẤT VẬT”(1*) (xưa nay không có vật nào cả “! Chính vì sự
uyên áo tận cùng này nên “Bản chất Tâm là vô bản chất”
III ĐẶC ĐIỂM CỦA TÂM:
* Tâm không có "Tư
Tính” nên cũng gọi là TÂM KHÔNG, nhưng Tâm không phải là “hư vô” như một số người
lầm tưởng!
* Tâm siêu vượt thời gian
không gian.
* Tâm là tinh hoa Chân Lý
Sư Sống
* Tâm là Chân Lý tối cao
của con Người và Vũ Trụ
* Tâm là kho báu tình
thương , chủ thể của “Tứ Vô Lượng Tâm” :Từ Bi Hỷ Xả
* Tâm là kho báu thiêng
liêng tiềm ẩn trong mỗi con người chúng ta.
* Tâm bao la vô tận:
Trong một buổi
Pháp tọa Đức Phật hỏi Ngài A Nan :
- Này ông A Nan! Hư không có lớn không?
- Bạch Đức Thế Tôn: Hư
không là rất lớn !
- Vậy mà hư không chỉ như
một “áng mây” trong Tâm ông mà thôi ! ( Xem Kinh Thủ Lăng Nghiêm )
* Chân tâm luôn "Tỏa
sáng" và là "nguồn vui" nguồn "phúc lạc" vô tận (Cực Lạc)
* Chân Tâm là nguồn HY VỌNG
BẤT TUYỆT và là nguồn Thiêng BẢO CHỨNG cho mọi con người chúng ta. Quán chiếu
và tìm hiểu sâu hơn về chân tâm chúng ta biết rằng: Chính Chân Tâm sẽ giúp cho con người vượt
thoát thân phận "phàm nhân" sống say chết ngủ trong vô minh - để vươn
lên thành "Thần Thánh Tiên" thành "Bồ Tát" "Đại Bồ
Tát" thành "Bậc Giác Ngộ như các vị Phật … nếu chúng ta biết phép
tu hành tinh tấn vươn lên không ngừng. …
IV -GIÁ TRỊ VÀ QUYỀN NĂNG
CỦA TÂM:
4.1 Giá trị của Tâm:
@ So sánh Tâm và
Tài:
Kết thúc truyện Kiều tác giả Nguyễn Du đã viết :
"Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba
chữ Tài:
Theo đại thi hào Nuyễn Du
tài và mênh luôn luôn xung khắc với nhau.Có 3 nguyên nhân dẫn đến tai họa cho
người có tài:
- Nguyên nhân thứ nhất là
do số mênh: Tài và mênh luôn đi với nhau, nhưng luôn xung khắc “Chữ Tài chữ mênh
khéo là ghét nhau”. Thúy Kiều là một điển hình cho người có tài, có sắc nhưng xấu số. “Vả chăng có số
giầu sang/ Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!”! Số mênh là do thiên định. Mặc
dù vậy.Cụ Nguyễn Du lại viết: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”
hoặc “Có trời mà cũng có ta “Chứng tỏ con người có thể thay đổi được cái
mênh của mình.Muốn thay đổi được thì phải có cái tâm. Cuối cùng thì Thúy kiều
cũng được về với những người than yêu của mình, là nhờ Kiều sống có Tâm "Lấy
tình thâm trả nghĩa thâm
bán mình đã động hiếu tâm
đến trời"
- Nguyên nhân thứ hai là
do môi trường sống: Sư ganh đua của người đời. Người có tài thường bị những kẻ
tiểu nhân chung quanh ghen tị, tìm cách hãm hại. Thúy kiều hết rơi vào cạm bẫy
của Tú Bà,lại đến mắc mưu Sở Khanh và cuối cùng là Hồ Tôn Hiến. Tuy nhiên cuối
cùng Thúy Kiều vẫn sống sót được là nhờ chính những kẻ đó nể trọng tài và tâm của
kiều chẳng hạn : “ Thương vì hạnh trọng vì tài/ Thúc Ông thôi cũng dẹp lời
phong ba”
- Nguyên nhân thứ ba là ở
ngay trong con người có tài: “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một
vần” Có tài hay sinh tật khoe khoang và do đó khó tránh được tai họa.Nguyễn
Du đã không không tiếc lời ca ngợi tài năng của Kiều, đến nỗi tài như Kiều họa
hoằn lắm mới có một người.Nhưng trong suốt cuộc đời lưu lạc, Thúy kiều không
bao giờ tỏ ra khoe khoang, kiêu ngạo.Kiều chỉ trổ tài khi bị ép buộc. Nhờ đó mọi
tai họa đến với Kiều là do số mênh, chứ không phải vì tài. Phải chăng Đại thi
hào muốn nhắc ta điều này?
Cả hai nguyên nhân sau,
người có tài cũng cần có Tâm mới mong thoát được nạn.Chữ Tâm trong truyện Kiều không đồng nhất với chữ Tâm của đạo Phật, nhưng nó mang một phần của Nho
giáo và cũng có phần của Phật giáo nữa.Cả hai nguyên nhân sau, người có tài
cũng cần có tâm mới mong thoát được nạn.Chữ Tâm trong đối nhân xử thế là tình thương yêu con người , biết nhường nhịn
và khoan dung. Nhưng đối với bản than, Tâm có nghĩa là Tịnh Tâm, tức là phải biết
kìm chế, nhẫn nhịn để phát huy được cái tài trong bản thân. Thúy Kiều, một cô
gái 15 tuổi đã bình tĩnh đứng ra sắp xếp mọi việc theo một phương án khôn ngoan
nhất :“Sư đâu sóng gió bất kỳ / Hiếu tình không lẽ hai bề vẹn hai:”
Tóm lại cả ba nguyên nhân
tai họa nói trên, người có tài muốn tránh được đều phải nhờ tu luyện cái Tâm.
Có lẽ vì vậy mà cụ Nguyễn Du ví một “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài chăng?”
(2*)
@So sánh Tâm và và Trí,
Lý trí giúp chúng ta phân biệt đúng sai, Lý trí giúp con người phân tích và tổng hợp, giúp con người tìm hiểu
và phát minh sáng tạo. Nhưng sự hiểu biết của lý trí chỉ có giới hạn, trên lý
trí còn ló “Trực giác”,“ Tuệ giác:”, “Trí tuệ Bát Nhã…..” (PraJna)
@ So sánh Tâm và Thức
“Ý thức” chỉ là phần nhỏ
của “Tiềm thức”, “Siêu Thức:
Trong Duy Thức Học phân
chia ra 8 loại thức:
1) Nhãn Thức ( Eye
consciousness) Sư hiểu biết của mắt.
2) Nhĩ Thức ( Ears consciousness) sư
hiểu biết của tai.
3) Tỉ thức ( Nose
consciousness) sư hiểu biết của mũi.
4) Thiệt thức (Tongue
consciousness) sư hiểu biết của lưỡi
5) Thân thức (Body consciousness) sư hiểu biết của thân.
6) Ý thức ( Mental
consciousness) sự hiểu biết phân biệt.
7) Mạt Na Thức ( Afflicted
consciousness) chấp ngã và
8) A Lại Da Thức (Foundation
consciousness) :Huân tập chủng tử .
Chúng ta chú ý thức thứ
7: Mạt Na thức”.Thức này khiến cho phàm nhân chúng ta chấp ngã, sống trong ảo
tưởng của ngã, coi “CÁI TA”của mình là “thật”. Ta tài, Ta giỏi, Ta thông minh,
Ta có “Bản Lĩnh” xuất chúng! Ta là nhất thiên hạ. v..v.. và v…v….
Thức thứ 8 : A Lại Gia Thức: Thức này là kho “hạt
giống” (Chủng tử) huân tập các hạt giống nẩy mầm thành các “thiện nghiệp” và
“ác nghiệp” trong kiệp sống hiện tại và tương lai.
Mục đích sau cùng của Duy
Thức Học là chuyển “Thức thành Trí”
Bước đầu chuyển năm Thức
trước Thành Sở Tác Trí (Đạt được hiểu biết đúng như hiện lượng (không dính mắc)
Chuyển Thức thứ sáu (Ý Thức) thành Diệu Quan Sát Trí (Đạt được hiểu biết tự tại
không phân biệt vào tỷ lượng.) Chuyển Thức thứ bảy (Mạt Na Thức ) thành Bình Đẳng
Tánh Trí ( đạt được hiểu biết Chân Như vô ngã) Chuyển Thức Thứ Tám (A lại Gia
Thức) thành Đại Viên Cảnh Trí (đạt được
cảnh trí vô ngại, rốt ráo vượt trên tất cả đó là cảnh giới Như Thật của Phật)
Xem thế ta thấy khi hành giả tu hành đến mức rốt ráo
chuyển thức Thứ 8 thành “Đại Viên Cảnh Trí :”.Đạt tới cảnh giới này chính là
“Tâm Đốn Ngộ’” Tâm Đại Giác” “Viên Giác”
“Tâm Liễu Sinh Thoát Tử” vậy.Đại Thức, Siêu Thức đã hòa vào Đại Tâm.
@So sánh Tâm và Pháp:
Tâm là chủ, Tam tạo tác tất
cả:Tam giới do Tâm, vạn pháp do Thức. Thức có khả năng tạo nên
vạn Pháp .song vạn Pháp đều nằm trong Tam Giới: Dục giới Sắc giới, và Vô
sắc giới.. Tất cả đều do Tâm, biến hiện ra.
4.2. Quyền Năng của Tâm:
@ Tâm làm nên nét đẹp
“Nhân Văn” làm cho cuộc đời thêm tươi, thêm đẹp, thêm cao cả và tràn đầy “năng
lượng” “Niềm Tin Yêu Mới” “Sức Sống Mới”….
@ Chính Tâm đã hình thành “Luật Nhân Quả “ và “Luân Hồi”
giúp cho các đấng thiêng liệng, Trời Đất,Phật Thượng Đế “chưởng quản thế gian”
một cách công minh chuẩn xác và vô cùng huyền nhiệm đồng thời thúc đẩy tiến
trình Tiến Hóa Vĩ Đại của con người và
muôn loại chúng sinh.! (Dù cho con người có biết hay có tin hai luật “Nhân Quả” và
“Luân Hồi” hay không thì hai luật
này vẫn mặc nhiên đi tới ! )
@ Cũng chính Chân Tâm giúp cho con ngượt vượt thoát hai luật : “Nhân Quả” và “Luân Hồi” đưa con người đến cảnh giới
Chân Như như thật của các Chư Phật…..
@ Chân Tâm còn tạo ra 3
NGƯờI THÀY cho con người là :Người thày THIÊN NHIÊN. Ngưới thày
ĐAU KHỔ và Người Thày SỰ SỐNG. Chính 3 NGƯỜI THÀY VĨ ĐẠI này đã
“minh nhiên” hay “âm thầm” hướng dẫn con người trong tiến trình tiến hóa , trong từng “Sát na Tâm”.Hiện nay đa số nhân loại chưa nhận
ra 3 người Thày Vĩ đại này. Nhưng vào giữa và nhất là cuối thế kỷ 22 nay
khi CHÂN LÝ TINH HOA SỰ SỐNG và Phong
trào Triết Lý Hiển sinh đã được lan truyền không những ở Việt Nam mà trên
khắp thế giới thì đa số Nhân loại sẽ khám phá ra và biết ta ơn 3 NGƯỜI THÀY VĨ ĐẠI NÀY. (Trong những
buổi tham thiền nhập định hành giả Chu Tấn tôi đã quán chiếu rõ điều kỳ diệu
này).
@ Tâm thức biểu hiện
thành các luân xa Kundalini ẩn tàng trong con người:
Tâm thức con người là ngọn
lửa thiêng hằng sống. Ấn Độ giáo ví như con rắn lửa Kundalini-Nghĩa đen của Kundalini là năng
lượng bị cuộn lai. Con rắn lửa ẩn mình trong 7 luân xa sau đây:
* Luân xa thứ nhất
Muladhara:
Là luân xa cơ bản nhất.Mul
nghĩa là gốc.. Luân xa này nằm tại đốt cuối cùng của xương sống , có hình hoa
sen 4 cánh tương ứng với 4 trạng thái vui
sướng, khoái cảm tự nhiên, thỏa mãn sau khi thoát khỏi được đam mê và phúc lạc. Vì vậy một người thực sự thánh thiện sẽ không từ chối
thân xác , mà dùng nó như một phương tiện
đạt đến những trạng thái cao hơn.
Năng lượng Kundalini hiện
diện trong mỗi sinh vật .Khi năng lượng tiềm tàng này được khích động nó sẽ chạy
lên qua các luân xa bên trên và chấm dứt tại luân xa thứ bẩy trên đỉnh đầu..Tại
đó nó sẽ hội nhập với đối cực của nó và trở thành tâm thức tối thượng (Paramashiva). Với tâm thức tối thượng ấy
hành giả được giải thoát hoàn toàn.
* Luân xa thứ hai
Svadisthana:
Luân xa thứ hai nằm tại
đan điền. Đặc tính của mỗi người tùy thuộc luân xa này.Luân xa thứ hai được biểu
thị bằng hoa sen sáu cánh.Nó biểu hiện cho sinh sản, gia đình và mơ mộng.Những
đặc tính của luân xa thứ nhất được thu hút bởi luân xa thứ hai này.Mơ mộng sẽ
phát khởi khi liên hệ gia đình và người thân bắt đầu. Ước muốn được sáng tạo khởi
đầu từ luân xa thứ hai.
Người có luân xa này hoạt
động bình thường sẽ không còn những ý tưởng xấu xa.
* Luân xa thứ ba Manipura;
Luân xa thứ ba nằm gần rốn,có
hình tam giác mầu đỏ, hướng xuống nằm giữa một vòng tròn hoa sen mười
cánh.Manipura là trọng tâm của nhiệt
trong cơ thể bởi vì luân xa này là sức mạnh của sự sống. Chuyển động của Manipura hướng lên như
như thể ngọn lửa nóng sẽ thiêu đốt tất cả .Đó chính là biểu tượng của sự háo thắng, ham danh, tham sống, và say mê quyền lực.
Mắt khác, Luân xa thứ ba
là trung tâm của cảm xúc, và tình cảm. Manipura nghĩa là hạt minh châu bởi vì
chỉ có con người mới có được hạt minh châu vô giá này. Con vật chẳng biết cười
cũng chẳng biệt khóc .Nước mắt chỉ có với con người, người hơn con vật chỉ vì
những giọt nước mắt, những tiếng cười ròn rã. Con vật chỉ tồn tại ở hai luân xa Maldharaa và Svadhisthan .Chúng sinh ra rồi chết đi. Khoảng thời gian giữa sinh và tử chẳng có gì đặc biệt
cả. Nếu bạn cũng chỉ sinh ra rồi chết đi, bạn chẳng khác gì con vật là mấy.Mà
đó là tình cảnh của đại đa số nhân loại Họ chỉ xoay quanh hai luân xa này.
Muladhara, Svadhisthana,
và Ma nipura là ba bậc thang quan trọng của thang tâm thức có bẩy bậc.
* Luân xa thứ tư Anahata:
Luân xa thứ tư nằm tại
trái tim. Anahata được biểu thị bằng hoa sen12 cánh. Chính giữa là hai tam giác
.Tam giác hướng lên, tượng trưng Shiva, phần dương của Kundalini. Tam giác hướng
xuống là Shakti, phần âm của Kundalini. Hai lực Shiva và Shakti tìm được quân
bình tại Anahata .Do đó những lo lắng về vật chất, danh tiếng khoái lạc … không còn phải bận tâm nữa. Tại
luân xa thứ tư Shakti không còn là năng lượng hủy diệt nữa như ở luân xa thứ nhất.
Tại luân xa thứ nhất Shakti nằm ở chung quanh dương vật, nhưng tại đây
Shakti đứng độc lập và biểu hiện âm thanh thiêng liêng AUM.AUM là gốc của mọi âm
thanh AUM cũng được viết là OM.
Anahata, luân xa thứ tư
nghĩa là âm thanh không phải do hai vật đập vào nhau mà thành. Thiền tông gọi âm thanh này là “tiếng
vỗ của một bàn tay” - âm thanh nguyên thủy
(unstruck sound). Luân xa thứ tư nằm ở giữa ba luân xa bên dưới và ba
bên trên. Trái tim là là lối thông từ dưới lên trên hoặc từ trên xuống dưới.Trái
tim chẳng khác gì ngã tư đường.
Trái tim là trung tâm của
âm thanh không lời (Soundless sound).Nó không phải là trung tâm ngôn ngữ , bởi
vì ngôn ngữ là do thanh quản đập vào nhau
mà thành.Đó là âm thanh do hai vật
cọ vào nhau mà có.Đó là hai bàn tay vỗ. Mà trái tim là một bàn tay vỗ.trái tim
chẳng có lời.
Con tim là trung tâm ở đó
âm tahnh không lời phát khởi.Nếu thư giãn trong con tim mình bạn sẽ nghe được tiếng Onker, AUM. Đó là một khám phá quan trọng
.Những người đi sâu vào con tim mình sẽ liên tục nghe được âm thanh ấy từ bên
trong bản thể của họ.
Tình yêu là lối dẫn vào
luân xa thútư.
* Luân xa thứ năm
Visuddha:
Visuddha được biểu thị bằng
trăng lưỡi liềm màu bạc, bên trong một hình tròn Hình tròn ấy lại nằm bên trong
một hoa sen mười sáu cánh.Trăng lưỡi liềm tượng trưng Mada, âm thanh thuần khiết của vũ trụ.Sự thuần
khiết là khía
cạnh nổi bật của luân xa
này. Khi Visuddha hoạt động thiên lý
nhãn sẽ mở ra, hành giả có thể truyền đạt mà không dùng đến lời.Tại luân xa thứ
năm, tất cả những yếu tố thuộc về ác
luân xa bên dưới như đất, nước, gió, lửa đã hợp nhất và trở nên thuần khiết.
Visuddha nghĩa là trong sạch,
thuần khiết.Sau khi tình yêu đã phát khởi, sự trong sạch hồn nhiên sẽ đến.Thiếu tình yêu thì không thể có sự thuần khiết. Ngoại trừ
tình yêu không có gì có thể lọc sạch tất cả được.Người xấu xa nhất được yêu sẽ
trở thành đẹp.Tình yêu là nước cam lồ .Nó rửa sạch mọi chất độc.
Luân xa thứ năm nằm tại
cuống họng , chủ về ngôn ngữ.Khi Visuddha
hoạt động lời nói hành giả có sức mạnh.Những gì người ấy
nói đều trở thành thi ca. Những gì người
ấy nói là một niềm vui vô tận.
* Luân xa thứ sáu Ajna:
Ajna nghĩa là mênh lệnh.Ajna
nằm giữa hai chân mày.Khi luân xa thứ
sáu này hoạt động, bạn biết được cả quá khứ, hiện tại và tương lai.Vì hai đường
kinh mạch Ida và Pingala
chấm dứt tại đây, hành giả không còn bị lệ thuộc ào thời gian nữa.Tâm thức của người ấy không
còn bị kẹt trong nhị nguyên.Vì hai năng lượng âm và dương đã kết hợp làm một
.Trạng thái này Chúa Giê –Su gọi là hoạn quan của nước Trời (Matthew 12.19) người Ấn gọi
là Ardhanarish vara, bán nam, bán nữ,
Shiva-Shakti; họ coi Shiva là vị thần
tuyệt hảo nhất, vĩ đại nhật, Mahadeva, bởi vì ngài bao gồm cả nam và nữ, không
còn nhị nguyên đối kháng nữa.
Khi luân xa thứ tư hoạt động,
cái tôi của hành giả biến mất..Và qua luân xa thứ năm mọi căn bã đã biến mất.
Lúc ấy người đó có ý chí, nhưng sẽ không làm hại ai cả..Thật ra nó không phải
là ý chí của người ấy,mà là ý chí của đại hồn bởi vì cái tôi đã biến mất với luân xa thứ tư:Người ấy trở nên thanh tịnh
với luân xa thú năm. Người ấy đã trở thành một sứ giả, một phương tiện. Bây giờ
người ấy có ý chí vì người ấy không còn
nữa-Ý chí của đại hồn chính là ý chí duy nhất.
Luân xa thứ sáu là ranh
giới cuối cùng của thế giới hiện tượng. Bên ngoài đó là luân xa thứ bẩy.Đó là một
thế giới khác hẳn,thế giới của siêu Việt.
* Luân xa thứ bẩy
Sahasrara:
Sahasrara là luân xa thứ
bẩy.Sahasrara nghĩa là hoa sen một ngàn cánh.Ngàn cánh là biểu tượng của vô hạn, lớp này nối tiếp lớp
kia , trùng trùng điệp điệp, không bao giờ hết.Sahasrara nằm trên đỉnh đầu và
được gọi bằng nhiều tên khác nhau:Niết Bàn Thượng Đế tối cao (Parabrama ),Tâm
Thức Bồ Đề (Bodhini) bánh xe phúc lạc vĩ đại của tự tánh tuyệt đối .Lão giáo gọi luân xa này là Bá Hội, là núi Côn Luân.Bá Hội là nơi
hội tụ tất cả .Côn Luân là đỉnh
núi cao nhất Thiên Đình.
Sahasrara cũng được gọi là Brahmrandha
nghĩa là cái thành của Brahma.Đó là chỗ Shakti gặp gỡ Shiva .Khi Shakti hợp nhất với Shiva,
hành giả sẽ nhận ra sự trường sinh bất tử của mình. Đó là trạng thái của tâm thức gọi
là asama-
Prajnata-samadhi (đại định).Ở
trạng thái này tâm trí hoàn toàn ngưng bặt , người biết và cái biết đã trở nên một,chẳng có gì phải biết nữa .Khi
Kundadalini lên đến Sahasrana cái ảo tưởng
về tiểu ngã hoàn toàn tan biến.Đó là cái
mà Đức Phật gọi là vô ngã (anatta), và người Ấn gọi là Brahman.
Sahasrara là nơi dẫn đến
những chiều kích tâm linh siêu việt bên trên thực tại bình thường của thế giới
này .Khi Sahsrara hoạt đông một tâm thức mới từ bên trong phát khởi
do sự hợp nhất của Shiva và Shakti. Người Ấn gọi tâm thức đó là Trí Huệ Bát Nhã (Prajna) Phật giáo gọi
là Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Praj-naparamita).Đó là một loại trí huệ không tùy thuộc vào bộ óc .Cho nên chỉ
khi Kundalini lên đến Sahasrara ta mới
biết chân lý thực sự là gì. Khi năng lượng Kundalini lên đến luân xa thứ bẩy, sự
phân biệt giữa tiểu ngã và đại ngã không còn nữa. Người ấy đã trở thành một với
Đại Hồn (Brahman) Atman chính là Brahman. (3*)
@ Khi biết mở Tâm con người
sẽ có 6 phép thần thông:
1/ Thiên Nhãn Thông:Tăng
khả năng nhìn của mắt, không bị trở ngại bởi khoảng cách chướng ngại vật, thậm
chí còn nhìn xuyên thời gian, nhìn thấy
những sinh vật ở thế giới khác.
2/ Thiên Nhĩ Thông: Tăng khả năng nghe của tai, không bị trở ngại
của ngôn ngữ, giống loài, có thể nghe được mọi âm thanh trên thế gian, hiểu được
tiếng muôn loài.
3/ Tha Tâm Thông:
Khả năng biết được suy nghĩ của kẻ khác.
4/ Thần Túc thông:
Khả năng nhìn thấy được trăm ngàn kiếp quá khứ của mình và người
khác.
5/ Thần Cảnh Thông:
Khả năng di chuyển không hạn chế, phi thân, di chuyển tức thới . Thậm chí còn có thể tàng hình, hình
thân to nhỏ tùy ý..
6/ Lậu Tận Thông:
Khả năng làm chủ bản thân tuyệt đội, ý nghĩ được kiểm soát. Không còn vọng tưởng
(Suy nghĩ vẩn vơ) hoàn toàn tĩnh lặng, xóa bỏ mọi nghiệp chướng, (tốt hoặc xấu).
Người đạt Lậu Tận Thông sau khi chết( gọi là viên Tịch hoặc Tịch Diệt)) sẽ
không còn luân hồi sinh tử, sẽ ở trong một trạng thái vô cùng trong sáng thỏa
mái đầy phúc lạc mà Phật giáo gọi là Niết
Bàn.
@ Ngoài sáu phép Thần
Thông Tâm còn có tính Giác (Khà năng giác ngộ)
Nhờ tính giác của Tâm con người có thể tu hành
đạt cứu cánh tối hậu:Liễu sinh thoát tử (Thoát khỏi luân hồi sinh tử) đạt
cảnh giới “Niết bàn Cực lạc “
V- TẠM KẾT LUẬN:
Sauk hi tìm hiểu nghiên cứu
kỹ về Đặc tính, Giá trị và Quyền năng của Tâm chúng ta thu nhân được 6 bài học
lớn sau đây:
Bài Học Lớn thứ Nnất: Được sinh ra làm Người
là điều quý giá vô cùng nên dù cuộc đời ta có bị nghèo khó, đau khổ, tủi nhục
cay đắng tới mức nào chăng nữa, chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng mà phải luôn phấn đấu để vươn lên..Với lòng
ngay thẳng và “Hướng thiện”, chúng ta sẽ chiến thắng được mọi nghịch cảnh trong
đời.Khi hiểu rõ Đặc tính và Giá trị của Tâm chúng ta cũng đừng bao giờ đem đổi
đời mình lấy một “cái kẹo“(danh lợi phù du…)
Bài Học lớn thứ Hai: Người có Tài đừng bao giờ
cậy tài, hay khoe giỏi, khoe khôn vì có Tài mà không cóTâm thì sớm muộn cũng rước
tai họa vào thân .Hãy nhớ lời cảnh báo của Cụ Nguyễn Du; “Có tài mà cậy chi
tài / Chữ Tài liến với chữ tai một vần” Hơn ai hết người có tài cần phải có
Tâm (có lòng thương người, có lý tưởng phụng sư “Tư Bi Bác Ái: mới là người có
“Tài Đức” vẹn toàn .
Bài Học lớn thứ Ba:
Lý trí giúp con người biết phân biệt
thị/ phi/ đúng/ sai/ tốt/ xấu…. Lý trí giúp con người biết phân tích
và tổng hợp, biết sáng tao và phát minh…..Nhưng lý trí bao giờ cũng manh tính
chất “nhị nguyên” nên Lý trí dù ở người có chỉ số thông minh (IQ) cao đến đâu chăng nữa,cũng bị giới hạn.. Trên Lý trí còn
có “Trực giác” “siêu giác”,”Tuệ giác”, TríHuệ Bát Nhã…..Nếu con người
quá “coi trọng lý trí” thì sẽ không bao giờ “Mở Tâm” được! Đối với người tu Thiền thì lý trí còn là tay” Đại Phá Hoại” Lý trí chỉ
là “vọng tưởng” làm cho hành giả
không “vào ĐỊNH ‘vào THIỀN được. Lý trí còn làm cho hành giả MẤT THIỀN
!!! Chính vì lý do này nên người TU THIỀN
phải trầm tư mặc tưởng, phải TỊCH LẶNG. ….
Bài học lớn thứ Tư: Mỗi người
chúng ta đều có một bản tâm trong sáng thuần khiết .Song bản tâm này đã bị mờ tối
rối loạn vì THAM SÂN SI. Do đó THAM SÂN SI là kẻ thù của Tâm.Người nào
còn nặng THAM SÂN SI, chưa buông bỏ đượcTHAM SÂN SI thì người đó còn bị nô lệ bởi
dục vọng, không thể tiến hóa trên đường đạo !!!(NgườiTHÁNH và người PHÀM khác
nhau là ở điểm này.)
Bài học lớn thứ Năm: Đại đa số
người đều coi “cá ngã” của mình
là thật nên rất yêu rất quí cái ngã của mình .Không những thế họ còn
hết sức kiêu ngạo, tư cao tự đại coi cái TA của
mình là nhất.:Ta tài,Ta giỏi, Ta thông minh xuất chúng. Khi làm chính trị
họ trở thành những “Bạo Chúa’, những nhà độc tài khét tiếng như Tần Thủy Hoàng,
xưa và như Hitler, Stalin, Mao Trạch Động,
Hồ Chí Minh, Tập Cận Bình, Putin ngày nay. … Vì tính chất phi nhân bản nên chế
độ độc tài nào sớm muốn cũng bị sụp đổ
và những tân độc tài chỉ là những tội đồ của lịch sử và “lưu xú” vạn niên..
Bài học lớn thứ Sáu: . -Bài học chiến Thắng
chính mình-Nhân rõ cái Ngã là giả, và nó là một trở ngạii vô cùng lớn cho quá
trình tu tập nên Đức Phật đã nói: “Kẻ thù lớn nhất của cuộc đời là chính
mình”.Thật phúc cho ai giác ngộ và thực hành bài học vô giá này thì người
đó sẽ là người VƯỢT THẮNG ĐƯỢC CHÍNH MÌNH “
“Thắng được mình hơn chiến thắng vạn quân thù.
Thắng được mình là chiến
thắng oanh liệt nhất” (Kinh Pháp Cú)... HÊT BÀI 1….
… Xin đọc tiếp Bài 2
:TÂM VÀ NẾP SỐNG ĐẠO SỐNG VIỆT
Ghu Chú::
(1*) Xem Lục Tổ Huệ Năng
(2*) “Chữ Tâm kia mới
bắng ba chữ Tài: Nguyễn Cảnh Nhu
(3*) Tam Giáo Đồng Nguyên: Vạn Sơn- Sức mạnh của Rắn trang 19 .
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire