Nhóm từ “Tập Đoàn Tài Phiệt” là phỏng dịch của hai chữ “Financial
Oligarchy”. Từ ngữ “Oligarchy - tập đoàn” có nghĩa đen là “một số người cai trị
hay chỉ huy” và nghĩa rộng là một hình thức cơ chế chính quyền trong đó quyền
bính thực sự thuộc về một thiểu số người. Những người nầy có thể được phân biệt
do giai cấp hoàng tộc, đảng phái – hay đúng hơn, Bộ Chính Trị - liên hệ gia
đình, học vấn, tập đoàn, độc đảng như Đảng Cộng Sản, hay quyền hành quân sự.
Những quốc gia như thế thường được kiểm soát bởi một số gia đình thượng đẳng
truyền lại ảnh hưởng của họ từ thế hệ nầy sang thế hệ tiếp theo.
Xưyên suốt lịch sử, các tập đoàn đều độc tài (dựa trên sự phục tùng của
dân chúng mà tồn tại) hay tương đối ít khắc nghiệt hơn. Arsitote đi tiên phong
trong việc xử dụng từ ngữ trên như là một đồng nghĩa cho sự cai trị của những
người giàu; nhưng từ oligarchy không luôn luôn là sự cai trị bằng của cải, vì
những tập đoàn có thể đơn thuần là một nhóm được ưu đãi, và không nhất thiết
liên kết bằng huyết thống như trong một nền quân chủ.
Lịch sử cận và hiện đại có khá nhiều hình thức cai trị
tập đoàn, Liên Hiệp Âu Châu, Liên Xô cũ, Nam Phi, Hoa Kỳ v.v… Nhưng bài viết
nầy không đề cập đến những hình thức chính trị tập đoàn và chỉ muốn nhấn mạnh
trên tập đoàn tài phiệt (Financial Oligarchy).
Một số tác giả đương thời đã nhận định rằng hiện tình chính trị ở Hoa Kỳ
mang tính chất tập đoàn tài phiệt trong bản chất.
*Simon Johnson viết rằng “sự tái trỗi dậy của tập đoàn tài phiệt Mỹ thực
sự là mới đây”. Đó là một cơ chế mà ông cho là tân tiến nhất thế giới.
*Jeffrey A, Winters cho rằng “tập đoàn và dân chủ hoạt động bên trong một hệ
thống duy nhất, và chính trị Hoa Kỳ là một biểu hiện hàng ngày của đối tác đó.”
*Bernie Danders cho rằng “tầng lớp thượng lưu của những gia đình cực kỳ
giàu sang có xu thế dịa ngục nhằm tiêu diệt viễn ảnh dân chủ của một giai cấp
trung lưu mạnh đã từng làm thế giới phải ganh tỵ Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ đã
cương quyết tạo ra một tập đoàn trong đó một số ít gia đình kiểm soát đời sống
kinh tế và chính trị của quốc gia.”
Giới lãnh đạo chính trị và kỹ nghệ tài chánh Hoa Kỳ gần đây đã bị chế ngự
bởi những người liên kết với Howard và Yale. Tất cả năm thành viên của Tối Cao
Pháp Viện hiện thời đều đã theo học tại các trường luật Harward hay Yale.
Sandra Day O’Conner là thành viên cuối cùng được Tổng thống Ronald Reagan bổ
nhiệm và không theo học đại học nào trong hai đại học vừa nói. Ronald Reagan
cũng là Tổng thống Hoa Kỳ cuối cùng không theo học đại học nào trong hai đại
học Harward hay Yale.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến các chế độ quân chủ đúng nghĩa hầu như không còn tồn
tại ngoại trừ một vài quốc gia ở Trung Đông, Phi Châu… Thay vào đó là các chế
độ quân phiệt (military oligarchy), trong đótướng lãnh hay một tập đoàn gồm một
số tướng lãnh nắm quyền cai trị quốc gia, có hoặc không có hiến pháp.
Một hình thức hệ thống chính trị khác nữa là chế độ Cộng Sản độc đảng
trong đó quyền hành nắm trong tay một Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng, có hoặc
không có hiến pháp.
Trái ngược với những thể chế vừa nói là các nền dân chủ đại để với hệ
thống chính trị đa đảng, có hiến pháp nhất định, và cai trị bằng luật pháp hiến
định, có sự phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, phần lớn
được định đoạt qua phổ thông đầu phiếu, tất cả dựa trên tiền đề căn bản là tự
do của giới bị trị: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín
ngưỡng, tự do đi lại v.v…
Một cách chính thức, hệ thống chính trị của Hoa Kỳ mang đầy đủ những
thuộc tính và cơ chế nói trên. Thông thường nguời Mỹ và thế giới bên ngoài vẫn
xem hệ thống chính trị đó như là một hệ thống lưỡng đảng. Đảng Cộng Hoà và Đảng
Dân Chủ, tranh đấu nhau để tranh thủ cử tri về quyền chính.
Cũng như các nền dân chủ Âu Châu, chúng chủ yếu khác nhau nhờ vào những
tiền đề đối nghịch sâu sắc về nguyên tắc và thế giới quan, như khác nhau giữa
Cánh Tả và Cánh Hữu.
Tuy nhiên, theo theo sự nhận định của một số học giả, dó chỉ là phiên bản
chính thức; và đó là một phiên bản mang tính dối gạt, phờ phỉnh. Hoa Kỳ
thực chất là một hệ thống chính trị độc đảng với 2 cánh (wings) hay hệ phái
(factions) của cùng một đảng duy nhất tiềm ẩn (hidden). Đảng tiềm ẩn nầy
hỗ trợ cho cả hai hệ phái, cung ứng những cán bộ và tiền của cho các cuộc vận
động của cả hai cánh và dứt khoát hoàn thành những mục tiêu của chính nó thông
qua thực lực của cả hai cánh nầy.
“Đảng chính trị đích thực của Hoa Kỳ là một đám tài phiệt gồm một
số ngân hàng và tập đoàn - đặc biệt là thành phần thiểu số 1% hay thậm chí ít
hơn, gồm khoảng 400 nhân vật nắm quyền kiểm soát số tài sản lớn hơn cả tài sản
của 155 triệu triệu người Mỹ gộp lại.”
Thành phần thiểu số nầy nắm trong tay phần lớn những nguồn tài chánh và
những tài nguyên khác và có trong tay cả ảnh hưởng lẫn quyền kiểm soát đối với
hai cánh vốn chỉ tranh biện nhau qua những vấn đề nhỏ nhặt, hình thức và cá
nhân. Chúng không bao giờ cho thấy sự khác biệt hay tra hỏi về những vấn đề
thực sự quan trọng như quyền hạn (right) của tập đoàn tài phiệt (thường được
mệnh danh là financial olygarchy hay corporatocracy) trong việc cai trị và khai
thác những quyền lợi quốc gia, đừng nói đến chuyện đề xướng một giải pháp thay
thế cho nó.
Đó là một loại siêu quyền lực khiến người ta liên
tưởng đến một chế độ toàn trị giả định mà Alexix de Tocqueville đã mô tả ở thế
kỷ 19 trong tác phẩm “De l’esprit des lois”, “Một uy quyền như thế không tiêu
diệt hiện hữu, nhưng ngăn cản hiện hữu; nó không độc tài, nhưng nó giam hãm,
làm suy nhược, dập tắt, và vô hiệu hoá một dân tộc, cho đến khi mọi quốc gia bị
giản lược thành không gì hơn là một đàn thú nhút nhát và cần cù do chính phủ
đứng chăn. Sự hiện hữu thê thảm nầy được người dân chấp nhận, vì nó đi qua
những tiến trình bầu bán những người bảo vệ của họ, tự đánh lừa mình rằng
họ và những đồng bào của họ vẫn còn tự do vì họ tham gia vào tiến trình tự cai
trị. Tuy nhiên, khi nhà nước vú em bành trướng, lá phiếu trở nên kém phần hiệu
lực và cá nhân càng lúc càng mất quyền bầu cử.”
Carrrol Quiley, một sử gia lỗi lạc thẳng thắn nhận định, “Quả là một ý
tưởng điên rồ nếu cho rằng hai đảng đại diện cho những tư tưởng và chính sách
đối nghịch - một của Cánh Hữu và một của Cánh Tả. Ý tưởng đó chỉ có thể được
chấp nhận đối với những tư tưởng gia hàn lâm và giáo điều mà thôi. Thay vì thế,
hai đảng hầu như là một, cho nên người Mỹ có thể dùng lá phiếu để “vứt bỏ bọn
bất lương” trong một kỳ bầu cử nhưng vẫn không đưa đến những chuyển quyền sâu
sắc hay triệt để về chính sách.”
Tocqueville nói rõ thêm, “Những người đương thời của chúng ta thường bị
kích động bởi hai tham vọng mâu thuẫn nhau: họ vừa muốn bị dẫn dắt lại vừa muốn
tự do. Vì không thể tiêu diệt một trong hai xu hướng trái ngược đó nên họ cố
thoả mãn cả hai cùng một lúc. Họ thiết kế một hình thức chính phủ độc nhất, mô
phạm, và toàn quyền, nhưng lại được dân bầu. Họ phối hợp nguyên tắc trung ương
tập quyền và nguyên tắc nhân dân làm chủ; điều nầy đem lại cho họ một thời gian
trì hoãn; họ an ủi đang được dạy bảo theo suy nghĩ là họ đã lựa chọn những
người bảo vệ cho họ. Mỗi người tự đặt mình vào sợi dây xích cổ, vì thấy rằng đó
không phải là một người hay một giai cấp mà là toàn thể dân chúng đang nắm đầu
dây xích. Trong hệ thống nầy, người dân chỉ vùng vẫy thoát ra tình trạng lệ
thuộc của họ một thời gian đủ dài để lựa chọn người chủ của họ và sau đó lại
trở về tình trạng cũ một lần nữa. Ngày nay, rất nhiều người hoàn toàn bằng lòng
với loại thoả hiệp giữa chế độ độc tài và nhân dân làm chủ; và họ nghĩ rằng tự
do cá nhân của họ đã được bảo vệ đầy đủ khi họ phó thác nó cho quyền hành quốc
gia nói chung. Cuối cùng, những gì còn lại chỉ là một nền dân chủ trống rỗng bị
chế độ chuyên chế đục khoét mà ít ai phản kháng.”
Tập đoàn tài phiệt Mỹ được liên kết chặt chẽ với Chính Phủ mà nó chỉ
định và kiểm soát - thực thi quyền năng và tiếng nói mà họ muốn cùng với những
tư tưởng thông qua những đại bài như :
1.- The Council on Foreign Relation (4500 thành viên),
2.- The Trilateral Commission (87 Americans + 337 từ các quốc gia khác),
3.- The Bilderberg Club (120-140 “khách”) và
4.- Nhiều cơ quan được miễn thuế khác như The Rockefeller Foundation,
trong đó những đại biểu quản gia then chốt cùng với những quyền lợi của tập
đoàn tiêu biểu cho những kế hoạch trước mắt và toàn cầu, và nghị trình được bàn
thảo, cải thiện và sau đó được thi hành bởi những đám lưu manh chính trị nô
bộc.
Giới hạn của bài nầy không cho phép được đi sâu đề cập vào ba tổ chức vừa
đề cập ở trên; nhưng chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng sự nghiệp của nhiều người
đã vươn lên như phép lạ sau khi tham dự buổi hội nghị Bilderberg đầu tiên của
họ: Margaret Thatcher, Bill Clinton, and Tony Blair. Obama đã bổ nhiệm 11 thành
viên của Ủy Ban Trilateral Commission (nghĩa là hơn 10%) vào những chức vụ hàng
đầu và then chốt trong chính quyền của ông trong mười ngày đầu của nhiệm kỳ của
ông.
Năm 1976, người sáng lập của Trilateral Commission và David Rockefeller,
kẻ dựng ngôi vua của Mỹ, đã đưa một gã vô danh mang tên Jimmy Carter vào Toà
Bạch Ốc.
Giữa 1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức ngoại giao hàng đầu phục vụ
trong chính phủ Mỹ cũng là những thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt The Council
on Foreign Relation, khiến một trong những thành viên hàng đầu có lúc nói rằng
việc gia nhập vào Hội Đồng chủ yếu là một “nghi thức thăng tiến” thành một viên
chức của chính sách ngoại giao…
Khoảng 42% những chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chính quyền Truman do
các thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt nắm giữ; con số đó là 40% trong chính quyền
của Eisenhower, 51% trong chánh quyền của Kennedy, và 57% trong chính quyền của
Johnson. Hội Đồng Tài Phiệt đã và tiếp tục có những ảnh hưởng lớn lao trong thế
giới truyền thông, nhờ đó nó có thể quảng bá ý thức hệ của nó, thăng tiến những
nghị trình của nó, và che đậy ảnh hưởng của nó… Cơ Quan Thình Báo Trung Ương
CIA cũng không phải là kẻ xa lạ trong hệ thống nầy, vì thường xuyên trong những
thập niên đầu khi mới hình thành, những giám đốc của nó đều đến từ Hội Đồng,
như Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms, William Colby, và George H. W.
Bush.”
Quý vị có thể
vào địa chỉ: htt://www.apfn.org/apfn/cfr-members.htm để có được một danh sách đầy đủ hơn về những nhân vật
hàng đầu thuộc Hội Đồng liên quan đến bang giao quốc tế và thuộc Trilateral
Commission trong thế giới chính trị, kinh doanh, kỹ nghệ, hàn lâm, truyền
thông, quân sự và CIA…
Do đó, không mấy ngạc nhiên khi Hillary Clinton, trong một giây phút yếu
lòng, đã công khai thú nhận : “Chúng tôi nhận nhiều khuyến cáo của Hội Đồng,
nên điều nầy sẽ có nghĩa là lúc nào tôi cũng sẽ được bảo đảm
nên làm gì và nghĩ gì về tương lai.” (“We get a lot of advice from
the Council, so this will mean I w’ont have as far to go to be told what we
should be doing and how we should think about the future.”)
Theo Jim Brown, “tập đoàn tài phiệt là một hệ thống chủ yếu Anh Mỹ, theo
một mức độ nào đó, hoạt động theo phương cách mà Cánh Hữu Cực Đoan tin là tương
tự như hoạt động của những người Cộng sản. Thực vậy, hệ thống nầy thường được
nhận diện như là Nhóm Bàn Tròn (Round Table Groups), không ngần ngại hợp tác
với Cộng sản hay bất kỳ nhóm nào khác, và họ thường xuyên làm thế. Tôi biết
được những hoạt động của hệ thống nầy vì tôi đã nghiên cứu nó 20 năm nay và vào
đầu thập niên 1960, trong hai năm, tôi được phép xem xét những tài liệu và hồ
sơ bí mật của nó. Tôi không có ác cảm gì đối với nó hay đối với đa số những mục
tiêu của nó, và trong phần lớn của đời tôi, tôi đã tiếp cận với nó và nhiều
công cụ của nó. Cả trong quá khứ lẫn mới đây, tôi đã phản đối một số chính sách
của nó (đặc biệt là quan niệm cho rằng Anh Quốc là một Đại Tây Dương đúng hơn
là một Cường Quốc Âu Châu, phải được liên minh với Hoa Kỳ và phải đứng cô lập
với Âu Châu), nhưng nói chung, theo quan điểm và cá nhân của tôi, hệ thống đó
muốn không ai biết đến, và tôi tin rằng vai trò của nó trong lịch sử là khá
đáng kể để mọi người biết đến.”
Có thể có hay không có câu trả lời đích thực cho những câu hỏi sau đây ?
*Chung qui, đâu là cơ quan thực sự hoạch định chính sách và thực thi quyết định
trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ? Toà Bạch Ốc, Điện Capitol, Ngũ Giác Đài…?
* Qua phổ thông đầu phiếu, người Mỹ có nghĩ rằng mình đúng khi cho rằng
tổng thống và các nhà đại biểu dân cử đích thực là do lá phiếu của người dân
hay không? Theo Tocqueville, không bao giờ có thể tin rằng một chính phủ tự do,
khôn ngoan, và nghị lực lại có thể sản xuất từ những lá phiếu của một dân tộc
nô lệ.
* Cơ chế chính trị mà người Mỹ đang kinh qua có đích thực tự do và dân
chủ hay không, hay, theo nhận định của Mark Lewin, cá nhân hiện hữu để phục vụ
nhà nước, và nhà nước thì hiện hữu để phục vụ mục tiêu của những tay đầu sỏ ?
* Có thể tin được rằng, trên cơ bản, thế giới chính trị mà người Mỹ đang sống
thực sự khác với cơ chế chính trị Cộng sản hay không, hay chung qui chỉ là một
chế độ độc tài mềm? Theo Tocqueville, chế độ gây nguy hiểm nhất cho xã hội là
một chế độ độc tài mềm. Đó là lối áp đặt từng bước sự chấp nhận chủ
nghĩa bình đẳng cực đoan, được ngụy trang như một chủ nghĩa không tưởng dân chủ
và hành chánh. Đó là niềm tin vào khả năng vô tận của những viên chức được bầu
ra có thể bảo vệ được đời sống và bảo đảm sự điều tiêt thích hợp trong một bộ
máy chính quyền nhà nước bao la.
* Hệ thống chính trị Hoa Kỳ có thực sự là một hệ thống đa đảng hay không
?
* Vai trò bá chủ thế giới có thực sự chuyển từ Đế Quốc Anh sang Hoa Kỳ kể
từ thập niên 1950 hay vẫn còn nằm trong tay Đế Quốc Anh thông qua Tập Đoàn Tài
Phiệt? Vận mệnh của Hoa Kỳ có thực sự nằm trong tay nguời dân Hoa Kỳ hay không?
* Phải chăng thế giới hiện nay thực sự không còn đường ranh rõ rệt giữa
tự do dân chủ và độc tài toàn trị, và nhân loại sẽ từng bước bị áp đặt một thể
chế toàn trị từ hai phía?
* Hành tinh chúng ta cuối cùng sẽ trở thành một Chợ Trời Lớn trong đó con
người sống ăn đong trả nợ, tài sản nay còn mai mất, phục vụ quyền lợi của đám
đầu sỏ trên cao, cả tư bản xanh và tư bản đỏ vô hình vô dạng;
* Phải chăng núi nợ khổng lồ hiện nay của Hoa Kỳ vừa là biểu hiện vừa là
hậu quả của chính sách nô lệ hoá từ trên cao?
Bạn đọc có thể nêu tiếp nhiều câu hỏi khác nữa ở đây.
“Ác quỷ lộng hành khi những người lương thiện không làm gì cả.” (Evil
flourishes when good men do nothing)
* Edmund Burke.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire