Tính đến năm 2015, Việt Nam
Quốc Dân Đảng đã tròn 88 tuổi (1927-2015). Quốc dân Việt Nam trước năm
1975 đã biết qua Anh hùng Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng ít ai
biết “Tam Dân Chủ Nghĩa” là gì?! Tại sao gọi là “Tam Dân”? Ai là tác giả của
“Tam Dân Chủ Nghĩa”?
Để giải
đáp các thắc mắc nầy, chúng tôi xin sơ lược “Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa” để quý
độc giả được tinh tường. Nhưng trước hết, chúng tôi cần sơ lược qua tổ chức
Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Việt Nam
Quốc Dân Đảng (gọi tắt là Việt Quốc, viết tắt là VNQDĐ) chính thức được thành
lập đêm 25 tháng 12 năm 1927 tại Làng Thể Giao thuộc thành phố Hà Nội. Sinh
viên Nguyễn Thái Học được hội nghị bầu làm Chủ Tịch Đảng (Tổng bộ nhiệm kỳ I,
tức Đại Hội Đại Biểu lần thứ I).
Vì sao có
Đảng Trưởng Danh Dự?
Trong
cùng lúc đó, Đảng Phục Việt tức Việt Nam Độc Lập Đảng (gồm có Vũ Đình Dy,
Nguyễn Đắc Lộc, Nguyễn Văn Ngọc…) cùng hoạt động song song với Việt Nam Quốc
Dân Đảng. Thấy thế, anh em bên Việt Quốc gồm Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp
và Hoàng Văn Tùng có ý định thống nhất giữa VNQDĐ và Phục Việt. Nhưng không đạt
được kết quả sau nhiều cuộc thảo luận vì đại biểu VNQDĐ vẫn giữ vững lập trường
là phải thống nhất dưới danh hiệu “Việt Nam Quốc Dân Đảng”. Cuối cùng, Tổng bộ
quyết định cử đại biểu vào Huế gặp Cụ Phan Bội Châu đang an trí tại đó để vấn
kế. Vị đại biểu được Tổng bộ đề cử là đồng chí Đặng Đình Điển tức cụ Hào Điển
(người cao tuổi nhất trong Đảng). Sau khi luận bàn thời cuộc, Cụ Phan vui lòng
nhận lời làm đảng viên của VNQDĐ. Sau đó, Tổng bộ suy cử Cụ là Đảng Trưởng Danh
Dự hay Danh Dự Chủ Tịch Đảng.
Chủ nghĩa
Tam Dân
Tổng bộ
VNQDĐ lúc đầu dùng chủ nghĩa Tam Dân và phương thức đấu tranh cách mạng của
Trung Hoa Quốc Dân Đảng do Tôn Văn Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Tổng bộ phỏng theo
chủ nghĩa và phương thức nầy để hoạch định chương trình hoạt động cho phù hợp
với hiện tình đất nước lúc bấy giờ. Chương trình gồm có 3 điểm chính:
1. Về
Chính trị: Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương thiết lập một chính thể Dân
chủ Cộng hòa sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp ra khỏi nước; đồng thời phế
bỏ thể chế Quân chủ phản tiến hóa để mưu cầu phúc lợi cho toàn dân.
2. Về
Kinh tế: Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương tôn trọng tư hữu, tư doanh, nhưng
tiết chế tư nhân tư bản để chống lũng đoạn thị trường, chống đặc quyền đặc lợi;
đồng thời cải cách ruộng đất, hạn chế ruộng tư điền (tức địa chủ), nâng đỡ nông
dân nghèo.
3. Về
Giáo dục: Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương khai phóng, trau dồi khoa học kỹ
thuật để mở mang trí óc cho toàn dân và làm cho mọi người dân có cơ hội đồng
đều (nhất là nâng đỡ học sinh nghèo) hầu trau dồi học vấn để quốc gia có nhiều
nhân tài giúp ích đất nước.
Sau khi
nhận cương vị “Danh Dự Chủ Tịch Đảng”, Cụ Phan Bội Châu duyệt xét lại tình hình
quốc gia lúc bấy giờ; đồng thời thẩm định lại chủ nghĩa Tam Dân của Trung Hoa
Quốc Dân Đảng, căn cứ trên địa bàn xã hội Việt Nam. Đảng Trưởng Danh Dự Phan
Bội Châu bèn định lại chủ nghĩa theo tinh thần, hoàn cảnh, địa dư, và xã hội
Việt Nam, đặt tên là Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa.
Việt Nam
Tam Dân Chủ Nghĩa
Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa gồm 3 phần chính: Dân Tộc, Dân Quyền và Dân
Sinh. Chủ nghĩa nhấn mạnh: Dân Tộc thì phải được Độc Lập; Dân
Quyền thì phải có Tự Do; Dân Sinh thì phải hưởng Hạnh Phúc. Do vậy, VNQDĐ đã
dùng 12 chữ Dân Tộc Độc Lập - Dân Quyền Tự Do - Dân Sinh Hạnh Phúc làm biểu
tượng (logo) của Đảng. Sau đây là những điểm chính của 3 lãnh vực đó:
I. Dân
Tộc Độc Lập - Gồm có 6 mục: Nguồn gốc dân tộc, Văn hóa truyền thống, Tinh thần
độc lập, Lòng yêu nước, Nghĩa đồng bào, và Đạo đức dân tộc.
1. Nguồn
gốc dân tộc – Dân tộc Việt Nam sống trên lãnh thổ có diện tích khiêm
nhường, nhiều phen bị xâm lăng và đô hộ (gần 1 ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ và
gần 80 năm bị thực dân Pháp cai trị). Do phong tục tập quán và ngôn ngữ đặc thù
nên dân tộc Việt Nam không bị mất cá tính. Sức sống của dân tộc Việt Nam thật
mạnh mẽ phi thường nên tạo thành một dòng lịch sử văn hiến nhân bản qua bốn
ngàn năm hơn. Dân tộc Việt Nam có cùng một ngôn ngữ, cùng chung phong tục tập
quán tạo thành một nền văn hóa nhân bản.
2. Văn
hóa truyền thống – Theo định nghĩa tổng cương thì “văn hóa là những công
trình do con người xây dựng nên, phù hợp với tình người, thuận với lòng người,
làm cho con người trở nên cao cả và sống có hạnh phúc.” Qua kinh nghiệm lịch sử
của các sắc dân trên thế giới, chúng ta thấy rằng: Dân tộc nào có văn hóa thì
sinh tồn; còn dân tộc nào thiếu văn hóa thì sẽ bị đồng hóa hoặc bị diệt vong.
Dân tộc Việt Nam có nền văn hóa dân tộc, độc lập và truyền thống, được sáng tạo
bằng công lao tim óc của con dân Việt. Văn hóa truyền thống Việt không tàng trữ
những công trình xây cất vĩ đại và tráng lệ. Để bảo tồn văn hóa truyền thống,
tổ tiên ta đã tàng trữ bằng phương thức “lấy tĩnh chế động, lấy nhu khắc cương,
lấy hư chứa thực.” Nền văn hóa Việt được duy trì và phát huy bằng văn chương
truyền khẩu. Đó là thứ văn hóa luân lưu, thấm nhuần khắp mọi tầng lớp dân gian;
thứ văn hóa gắn liền với nếp sống, với lời ăn tiếng nói của người dân. Nói tóm
lại, văn hóa dân tộc chính là tiềm lực sinh tồn tự chủ của dân tộc Việt.
3. Tinh
thần Độc lập – Độc lập có nghĩa là dân làm chủ nước. Chủ quyền dân tộc trên
lãnh thổ, quê hương hoàn toàn được tự chủ, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh
hưởng hay áp lực nào đến từ ngoại quốc. Độc lập không có nghĩa là lẻ loi, trơ
trọi, cắt đứt mọi tương quan với các nước ngoài. Tinh thần độc lập của dân tộc
Việt Nam đã có từ khi lập quốc. Sử tích Thánh Gióng đời Hùng Vương thứ 6 đã
đánh đuổi giặc Ân phương Bắc cho chúng ta thấy rằng, nước ta đã có lãnh thổ
phân minh. Dân ta yêu chuộng cuộc sống tự chủ, sẵn sàng dấn thân hy sinh để bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Nói tóm lại, sự yêu qúi độc lập là một cá tính đặc biệt
mãnh liệt trong huyết mạch dòng giống Việt Nam.
4. Lòng
yêu nước – Tình yêu nước gắn liền với nhân phẩm của người Việt Nam. Đảng
Trưởng Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí thành lập VNQDĐ đã tuyên bố lời tâm
huyết như sau: “Việt Nam Quốc Dân Đảng là đảng của những người Việt Nam yêu
nước.” Trước khi bước lên đài tuẫn quốc, Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học cùng
12 đồng chí hô to khẩu hiệu: “Việt Nam Vạn Tuế” (Vạn Tuế có nghĩa là muôn năm,
như vậy là Việt Nam Muôn Năm). Lời hô ấy cho thấy rõ tinh thần VNQDĐ là hy sinh
và hiến dâng mình cho đất nước nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc cho đồng bào Việt.
Đảng Trưởng Danh Dự Phan Bội Châu cũng đã từng giảng dạy rằng: “Ta phải đem
lòng nhiệt thành mà yêu nước thương nòi”.
5. Nghĩa
đồng bào – Quốc dân ta gọi nhau là đồng bào vì ta cùng nguồn gốc Tiên Rồng,
cùng chung một quốc tộc Hồng Bàng. Hơn bốn ngàn năm liên tục, người Việt cùng
nhau truyền tụng như vậy nên niềm tin tưởng rất vững bền, không ai có thể bóp
méo được.
Việt Nam
Quốc Dân Đảng là đảng của những người Việt Nam yêu nước, thương người Việt.
Đảng Trưởng Danh Danh Dự nhắc nhở chúng ta: “Cần phải kêu gọi tinh thần hợp
nhất, cần phải có sự đồng tâm. Muôn ngàn người như một, cùng một mục đích, cùng
một thủ đoạn thì việc làm mới mong có ngày thành tựu được”.
Muốn được
như vậy thì chúng ta phải tương thân tương trợ lẫn nhau để bồi bổ cho cái nền
tảng của quốc gia đứng vững đã. Đó là chúng ta phải tạo sức mạnh đoàn kết dân
tộc bằng cách chấn hưng tình gia tộc. Khi gia tộc có mạnh thì quốc tộc mới
mạnh. Quốc tộc mạnh thì quốc gia mới mạnh. Khi quốc gia mạnh thì dân được sống
tự do độc lập trên lãnh thổ quê hương với tương quan tình nghĩa đồng bào.
6. Đạo
đức dân tộc – Dân tộc Việt vẫn sinh tồn trường cửu, mặc dù đã từng bao phen
phải sống trong cảnh ngộ vô cùng khắc nghiệt đau thương (gần 1 ngàn năm bị Tàu
đô hộ, gần 80 năm bị Pháp cai trị). Dân tộc được sinh tồn chính vì ta có một
nền đạo đức nhân bản rất cao cả. Đại đa số người Việt đều ý thức rằng bản tính
làm người là Thiện. Người Việt đem thiện tâm cư xử với nhau nên hành vi xử thế
của ta xây dựng trên nền tảng nhân ái. Để phát huy và thực hành lòng nhân ái ấy
cho được hữu hiệu, người Việt phải có khuôn vàng thước ngọc về các lãnh vực:
đối với bản thân, đối với gia đình, đối với đồng bào, đối với tổ quốc, và đối
với nhân loại. Cái công trình phát huy nhân tính ấy chính là đạo đức. Trong nền
đạo đức dân tộc Việt Nam, đặc biệt là ơn nhà, nợ nước, nghĩa đồng bào là ba món
nợ giá trị thiêng liêng mà mọi người dân đều có bổn phận phải đáp đền. Nói tóm
lại, nền đạo đức nhân bản đã tạo cho người Việt Nam có đức tính yêu chuộng hòa
bình, trọng điều công chính.
II. Dân
Quyền Tự Do. Gồm có 4 mục: Dân quyền, Tự do, Bình đẳng, và Dân chủ.
1. Dân
Quyền – Nước là do quốc dân tạo thành. Vậy, nước phải là của chung của toàn
thể quốc dân. Nước không của riêng ai. Nước không phải là tư hữu của vua. Nước
cũng không thể là tư hữu của cá nhân một vị anh hùng hào kiệt nào trong lịch
sử.
Chí sĩ
Phan Bội Châu từng nhận định rằng: “Được gọi là một nước thì phải có nhân
dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách
làm một nước. Trong ba cái đó thì nhân dân là quan trọng nhất. Không có nhân
dân thì đất đai không thể còn, chủ quyền không thể lập, nhân dân còn thì nước
còn, nhân dân mất thì nước mất. Muốn biết nhân dân còn mất như thế nào thì phải
xem cái quyền của nhân dân còn mất như thế nào.” (Việt Nam Quốc Sử Khảo).
Cũng
trong “Việt Nam Quốc Sử Khảo”, Chí sĩ Phan Bội Châu nhấn mạnh rằng: “Dân
quyền mà được đề cao thì nhân dân được tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền
bị xem nhẹ, thì dân bị coi khinh mà nước yếu. Dân quyền hoàn toàn mất thì dân mất
mà nước cũng mất. Dân mất tức là có dân cũng như không có dân vậy.”
VIỆT NAM
QUỐC DÂN ĐẢNG VỚI “CÁCH MẠNG DÂN QUYỀN”
Việt Nam
Quốc Dân Đảng quyết định phát khởi một cuộc cách mạng toàn diện:
* Đối
ngoại: Chủ trương hòa hợp bình đẳng, cương quyết chiến đấu phá áp bức xâm lăng.
* Đối
nội: Chủ trương chấm dứt quân quyền, phát huy chủ nghĩa dân quyền, xây dựng một
xã hội tự do dân chủ thực sự.
Chủ nghĩa
Dân quyền của VNQDĐ chính là một chủ nghĩa phát sinh từ nền văn hóa nhân bản
truyền thống của dân tộc Việt, hòa hợp với lẽ sống tình người, cập nhật hóa
theo ý chí của dân tộc để cứu nước thoát cơn nguy vong, cứu giống nòi khỏi ách
lầm than thống khổ. Chỉ có quốc dân ta mới cứu được giống nòi ta. Dân tộc tự
quyết định lấy vận mệnh của chính mình, không nương nhờ ai, không trông cậy ai.
2. Tự
Do – Dân tộc Việt vốn từ xưa tin tưởng yếu tính nền tảng của con người là
Thiện. Niềm tin nầy đã tạo thành một nền tảng văn hóa nhân bản, mà yếu tính là
Thiện. Từ văn chương dân gian, văn chương bác học, triết lý nhân sinh đều lấy
Thiện làm gốc.
Ý NIỆM TỰ
DO
Tự do thể
hiện thiện hảo hay tự do phát huy nhân tính là một thứ Tự Do vô cùng, vô cực,
một thứ Tự Do đúng nghĩa. Khi một chủ thể có hành vi ác, bị đạo đức ngăn ngừa,
không có nghĩa là đạo đức đã bị tước đoạt hoặc hạn chế tự do, mà chính là đạo
đức đã bảo vệ tự do làm người, ngăn ngừa xấu ác xâm lăng nhân tính. Quan niệm
truyền thống nầy của dân tộc Việt được hàm chứa trong thuần phong mỹ tục cũng
như trong văn học dân gian, là thành trì kiên cố của văn hóa Rồng Tiên.
TRUYỀN
THỐNG YÊU CHUỘNG TỰ DO
Lịch sử
trải qua bốn ngàn năm bảo chủng và sinh tồn của dòng giống Việt gắn liền với
công trình chiến đấu và nỗ lực bảo vệ Tự Do. Sự tích Phù Đổng Thiên Vương đánh
giặc Ân đời Hùng Vương thứ 6 đã chứng tỏ lòng yêu mến độc lập, tự do của dân
tộc Việt đã trưởng thành từ thuở ban sơ lập quốc.
Từ truyền
thống Phù Đổng Thiên Vương đến những công cuộc đấu tranh giành độc lập, đòi tự
do trong thời gian Bắc thuộc đã là những dữ kiện hùng hồn nói lên truyền thống
yêu Tự Do của dân tộc Việt.
Nên nhớ
rằng: Tự do gắn liền với lẽ sống của dân tộc. Đất Việt đã hơn một ngàn năm vắng
bóng Tự Do, nhưng dân tộc ta vẫn một lòng yêu chuộng Tự Do. Ý thức Tự Do và
tình yêu chuộng Tự Do đã trở thành cá tính của dân tộc Việt.
TỰ DO VÀ
CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI
Phát huy
nhân tính bằng những công trình đạo đức cũng như tín ngưỡng chân lý là quyền tự
do không giới hạn của con người. Các sinh hoạt của quốc dân trong cộng đồng
quốc gia, liên hệ mật thiết với nhau tạo thành cơ cấu tổ chức xã hội, thiết yếu
cần có luật pháp công chính cầm cân nẩy mực để giữ gìn nếp sống nhằm mục đích
tạo trật tự, an ninh và thuận hảo.
Lịch sử
bảo chủng, đấu tranh giành lại độc lập tự do của dân tộc Việt đã là một bằng
chứng hùng hồn nói lên rằng dân tộc Việt có truyền thống yêu đời tự do. Trong
cuộc sống xã hội, với những sinh hoạt
càng ngày càng phức tạp, để có trật tự và an ninh chung, thiết yếu phải
có tự do luật định.
3. Bình
Đẳng – Bình đẳng và bình quyền là hai danh từ thường được nói đến trong
cuộc sống xã hội Việt Nam. VNQDĐ chủ trương xã hội dân quyền bình đẳng. Chúng
ta cần nhận thức những điểm căn bản sau đây:
BÌNH ĐẲNG
VỀ YẾU TÍNH LÀM NGƯỜI HAY NHÂN TÍNH BÌNH ĐẲNG
Yếu tính
làm người hay nhân tính là Nhân, Nghĩa, Trí, và Tín. Nhân tính hay yếu tính làm
người đồng nhất và bình đẳng vì ai cũng có như ai. Người nào tạo được công
trình phát huy nhân tính lớn thì có nhân phẩm cao. Càng phát huy nhân tính thì
nhân phẩm càng cao. Đã là người, ai cũng có quyền phát huy nhân tính. Quyền nầy
bình đẳng vì có đồng đều nơi mọi tâm hồn. Vậy, mọi người đều bình đẳng về yếu
tính làm người và bình quyền trong công trình phát huy nhân tính.
BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC PHÁP LUẬT
Luật pháp
là để giữ gìn kỷ cương xã hội. Ý nghĩa của luật pháp là bảo vệ cuộc sống của
người dân sao cho được an ninh, thanh bình, trật tự. Giá trị của luật pháp là
làm cho xã hội được thành một không gian cư ngụ ấm cúng và thoải mái của mọi
công dân lương thiện.
Một nền
luật pháp chân chính bao giờ cũng xây dựng trên nhân tính và được phổ cập một
cách minh bạch đến mọi tầng lớp xã hội. Mọi công dân, ai cũng như ai, được
quyền hưởng nền luật pháp ấy. Mọi công dân, ai cũng như ai, khi có hành động
sai trái tác hại cho tha nhân, gây rối cho xã hội thì đều bị luật pháp áp dụng.
Đó là bình đẳng trước pháp luật.
NAM NỮ
BÌNH ĐẲNG
Theo đạo
đức dân tộc Việt thì xã hội ta từ xưa vốn chủ trương nam nữ bình đẳng. Văn hóa
truyền thống của dân tộc, tồn trữ trong văn học dân gian, một pho Kinh Thi gạn
đục khơi trong, gom góp tinh hoa nhân bản của biết bao thế hệ đã nói về giá trị
nam nữ bình đẳng một cách minh bạch. Trong đạo làm con phải hết lòng kính yêu
cha mẹ, ngôi vị của cha mẹ đều bằng nhau. Trong tương quan vợ chồng, luân lý
truyền thống của dân tộc ta cũng đã chủ trương thuận hòa bình đẳng (thuận vợ
thuận chồng).
Trong gia
đình, mối tương quan cha mẹ, vợ chồng và con cái được luân lý truyền thống chủ
trương nam nữ bình đẳng. Ngoài xã hội, luân lý dân tộc cũng không chủ trương
trọng nam khinh nữ. Quốc dân tôn kính anh thư liệt nữ cũng như tôn kính anh
hùng hào kiệt.
VNQDĐ đề
xướng chủ nghĩa Dân Quyền Tự Do, mà thiết yếu là gắn liền với Bình Đẳng. Do đó,
VNQDĐ cũng đề xướng nam nữ bình đẳng.
Tóm lại,
nam quyền và nữ quyền bình đẳng họp thành nhân quyền. Trong một nước, nhân
quyền chính là Dân Quyền vậy.
4. Dân
Chủ – VNQDĐ vì nước là ước nguyện của toàn Đảng. Quyền lợi của quốc dân và
hạnh phúc của quốc dân là cứu cánh của Đảng. Vì vậy, một nền dân chủ chân chính
là một công trình mà VNQDĐ nỗ lực và thành khẩn xây dựng.
Trong
trào lưu tiến bộ của nhân loại, cách mạng dân chủ đã có thành quả làm cho nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng chính thể dân chủ để quản lý nhà nước. Những
chính thể ấy có nhiều ưu điểm làm cho quốc gia tiến bộ.
Một chính
thể nhằm mục đích đem lại hạnh phúc đích thực cho dân nước, luôn luôn phải canh
tân tiến bộ; đồng thời luôn luôn phải gắn bó chặt chẽ với thuần phong mỹ tục,
nhất là không bao giờ được ngược chiều văn hóa.
Nhà chí
sĩ cách mạng Phan Chu Trinh đã từng dặn dò: “Trước phải hiểu lịch sử nước
nhà, sau phải coi phong trào thế giới. Làm sao là khôn, làm sao là dại? Đâu là
quốc túy nên giữ gìn, đâu là hại phải cắt đứt.” Đó là lời vàng ý ngọc mà
VNQDĐ đã dùng làm câu châm ngôn cho những công trình cách mạng cải tiến dân
sinh của Đảng.
VNQDĐ chủ
trương giữ lấy tinh thần dân chủ làm nòng cốt, cải tiến và cập nhật hóa bằng
cách thâu nhận thêm tinh hoa của các chế độ dân chủ ở các quốc gia tân tiến
khác để đúc kết thành nền dân chủ của Việt Nam.
Nói tóm lại, VNQDĐ chủ trương một chính thể đúng đắn phải thể hiện một nền
chính trị dân chủ, xây dựng trên nền tảng văn hóa và đạo đức dân tộc,
theo ý chính đáng của quốc dân; đồng thời bổ túc bằng những tinh hoa chính trị
nhân bản của các quốc gia tiến bộ trên thế giới.
III. Dân
Sinh Hạnh Phúc. Gồm 6 mục: Dân sinh hạnh phúc, Văn hóa độc lập, Giáo dục tiến
bộ, Cộng đồng dân chủ, Luật pháp nhân bản, và Hữu sản dân quyền.
“Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương mưu hạnh
phúc cho hết thẩy tầng lớp Quốc Dân chứ không thiên về một giai cấp nào. Việt
Nam Quốc Dân Đảng chủ trương lập nên một xã hội quân bình trong đó có các giai
cấp được hòa hài, mọi người không chênh lệch về giàu nghèo.”
(Tuyên
Ngôn Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1948)
1. Dân
sinh Hạnh phúc – Chủ nghĩa Dân Sinh Hạnh Phúc của VNQDĐ là chủ nghĩa nhằm
tổ chức những sinh hoạt xã hội với mục đích thực hiện hạnh phúc chân chính cho
từng người dân Việt Nam. Bất cứ người Việt Nam nào cùng chung nguyện ước trên
đều là đồng chí của VNQDĐ. Nên nhớ rằng, chiến sĩ VNQDĐ là những người nguyện
đem thân thế hiến dâng cho hạnh phúc của đồng bào. Công trình của đảng cách
mạng vì nước vì dân chỉ là thể hiện hạnh phúc trong phạm trù đời sống xã hội mà
thôi.
Những
điều kiện tối thiểu để Dân Sinh Hạnh Phúc được thực thi là:
(1). Nhân
phẩm phải được tôn trọng và bảo đảm.
(2). Mọi
người bình đẳng trước quyền tự nhiên và trước pháp luật.
(3).
Không ai bị áp bức dưới bất cứ hình thức nào.
(4).
Không ai bị bóc lột dưới bất cứ hình thức nào.
(5). Tự
do phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ.
(6). An ninh
phải được thể hiện một cách cụ thể và hữu hiệu.
(7). Ấm
no phải được thể hiện một cách cụ thể và hữu hiệu.
(8). Mọi
người dân phải được hưởng một nền văn hóa giáo dục nhân bản ở mức độ phổ thông
cần thiết.
(9). Mọi
người dân phải được hữu sản trong trạng thái quân bình.
(10). Mọi
thể chế dân chủ chân chính phải được áp dụng và quản lý bằng dân quyền.
2. Văn
hóa Độc lập – VNQDĐ lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm căn bản, và chủ
trương một nền văn hóa khai phóng: Giữ gìn quốc túy, đón nhận tinh hoa của các
dân tộc khác để bổ túc cho văn hóa nước nhà.
Về sinh
hoạt văn hóa, VNQDĐ chủ trương tự do tôn giáo là quyền tự do tâm linh phải được
có và phải được tôn trọng triệt để. Mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tôn giáo
đều bị coi là phạm pháp. Song song với những giá trị tâm linh thiêng liêng,
những sinh hoạt văn học, nghệ thuật là những giá trị thẩm mỹ của văn hóa nhân
bản, phải được tự do sinh hoạt và cần được khích lệ phát triển.
VNQDĐ chủ
trương văn hóa truyền thống phải được nghiên cứu khảo đính thấu đáo, bảo tồn và
phát huy công trình nhân bản, để làm đường đi lối về với quá khứ cho những sinh
hoạt văn hóa ở hiện tại và tương lai. Nếu gốc không vững thời ngọn không bền là
điều rất đáng quan tâm.
3. Giáo
dục Tiến bộ – VNQDĐ đặt giáo dục lên hàng quốc sách, chủ trương áp dụng
chính sách cưỡng bách giáo dục thanh thiếu niên với trình độ phổ thông cần
thiết của chương trình giáo khoa lớp 12 (tức lớp đệ Nhất, Tú tài II - VNCH).
Mở các
trường huấn luyện chuyên nghiệp thích ứng với nhu cầu dân sinh, khích lệ và tạo
điều kiện thuận tiện để đồng bào dễ dàng tham gia học tập nhằm mục đích phát
triển khả năng thực nghiệp cần thiết.
Mở mang
đại học các ngành để phát huy tiềm năng trí lực của đồng bào, đưa nước nhà đến
địa vị văn minh tiến bộ ngang hàng với các quốc gia tân tiến trên thế giới.
Nói tóm
lại, giáo dục phải được xây dựng trên nền tảng căn bản là đạo đức dân tộc, phát
huy lẽ sống nhân luân phù hợp với các tính dân tộc; đồng thời khai phóng thích
ứng với hoàn cảnh lịch sử, không ngược trào lưu tiến hóa nhân loại.
4. Cộng
đồng Dân chủ – Để cho nền dân chủ được có giá trị thiết thực, để giảm thiểu
những mâu thuẫn có thể xảy ra giữa quốc dân và chính phủ, để nâng cao dân quyền
mà không đưa đến tình trạng phóng đãng vô chính phủ hay chính phủ hữu danh vô
thực, VNQDĐ đề xướng chính sách dựa trên mỹ tục hương thôn tự trị của dân tộc
Việt, cải tiến canh tân cho thích ứng với trào lưu tiến hóa của lịch sử, khích
lệ quốc dân tổ chức những cộng đồng sinh hoạt xã hội. Mỗi cộng đồng đều có thực
chủ quyền riêng, sinh hoạt trong khuôn viên cộng đồng được quản lý và điều hành
bằng những quy luật do chính các đoàn viên luận bàn và soạn thành, không nghịch
với quốc luật. Các cộng đồng phát triển sinh hoạt, phải có quan hệ hỗ tương
không nghịch với quyền lợi chung của dân tộc, hợp thành sinh hoạt quốc gia.
Như vậy,
người dân được tham dự vào việc quản trị của chính phủ một cách có hiệu năng,
những mâu thuẫn nếu có sẽ được giảm thiểu, quyền chính trị của chính phủ và của
quốc dân sẽ được thăng bằng điều hòa.
Với những
dân quyền thiết yếu phải có trong chế độ dân chủ, cộng thêm những cộng đồng tự
trị sẽ xóa bỏ được những bất mãn có thể xảy ra giũa quốc dân và chính phủ. Như
vậy, năng lực quốc dân và sức mạnh chính phủ hòa hợp, song song xây đắp cho sức
mạnh quốc gia.
5. Luật
pháp Nhân bản – Một chính thể muốn thực hiện hạnh phúc đích thực hợp với
đạo lý nhân sinh, phải có một nền pháp luật công chính nhân bản.
Luật pháp
được làm thành không nhằm mục đích đe dọa quốc dân, không làm cho quốc dân lo
âu sợ hãi. Luật pháp công chính nhằm mục đích bảo đảm an ninh cho cuộc sống của
quốc dân, làm cho quốc dân được sống yên vui hài hòa, không nhìn chế độ, không
nhìn chính phủ như đối thủ cần phải đề phòng.
VNQDĐ
không chủ trương pháp trị vì pháp trị thuần túy làm cho dân chủ mất mát nhiều ý
nghĩa. Một nền luật pháp tình lý điều hòa là một nền pháp luật phải được áp
dụng trong cuộc dân sinh. Các thể thức dân chủ được tinh lọc cho thích hợp với
nếp sống truyền thống, cân bằng bởi cộng đồng dân quyền trực tiếp sẽ đưa xã hội
đến tình trạng thăng bằng và ổn định giữa quốc dân và chính phủ.
6. Hữu
sản Dân quyền – Trong cộng đồng quốc gia, nếu quốc dân chưa có tài sản tư
hữu căn bản và chưa có quyền tham dự vào công cuộc quản lý điều hành kinh tế,
tức là quốc dân chưa có dân quyền tự do.
Kinh tế
là huyết mạch then chốt của cuộc sống người dân. Quyền sống là quyền tự do tối
thiểu của con người. Quốc dân chưa có quyền quản lý và điều hành kinh tế thì dù
dưới hình thức nào của xã hội, quyền sống và quyền tự do tối thiểu của quốc dân
còn bị lệ thuộc. Nói một cách khác, quốc dân sống nhưng chưa có tự do.
Thực chất
của cuộc sống chưa có tự do thì những hình thức tự do như ứng cử, tuyển cử,
v.v… với những hệ thống lập pháp, hành pháp chỉ là thứ dân chủ mệnh danh mà
thôi. Tựu trung, quốc dân chưa được làm chủ chính thân phận mình, chớ đừng nói
tới làm chủ nước.
Để tiến
đến một nền dân chủ thực sự, VNQDĐ với chủ nghĩa Dân Quyền Tự Do, chủ trương
phải có kinh tế hữu sản dân quyền, gồm 2 mục tiêu:
A. PHÂN
PHỐI HỮU SẢN
1. Quốc
dân phải có tài sản tư hữu căn bản.
2. Tài
sản tư hữu của quốc dân được phân phối ở trạng thái quân bình.
3. Tránh
tình trạng tập trung tài sản vào quyền tư hữu và cá nhân một cách thái quá.
4. Vô sản
là một quái tuợng tàn độc của xã hội.
B. KINH
TẾ DÂN QUYỀN
Tài sản
tư hữu căn bản của quốc dân đã có và đã ở tình trạng cân bằng là điều kiện cần
nhưng chưa phải là điều kiện đủ để cuộc sống kinh tế cá nhân và xã hội
hòa hợp thịnh vượng đồng tiến. Tình trạng hữu sản rời rạc dễ dàng bị những
quyền lực chính trị cũng như quyền lực kinh tế đè nén, điều khiển và lợi dụng.
Trước đà
tiến bộ văn minh, kinh tế phát triển nhanh chóng và phức tạp, kinh tế dân quyền
phải có để toàn thể đồng bào cùng nhau quản lý, cùng nhau chung hưởng quyền lợi
kinh tế nước nhà.
VNQDĐ đề
xướng chính sách giữ gìn quốc túy mỹ tục hương thôn tự trị, canh tân hợp thời
thích ứng với hoàn cảnh lịch sử thành những cộng đồng trong các ngành sinh hoạt
kinh tế. Như vậy, công tư thăng bằng điều hòa, tài sản cá nhân, tài sản cộng
đồng và tài sản quốc gia cùng chiều tịnh tiến. Mọi hình thức tranh chấp, bất
mãn, mâu thuẫn không còn cơ hội nảy sinh mạnh trên lĩnh vực kinh tế. Con đường
tiến đến tương lai nước mạnh dân giàu, sống đời hạnh phúc ấm no đã được vạch ra
rõ ràng trong nỗ lực xây dựng hạnh phúc dân sinh.
* * *
Việt Nam
Quốc Dân Đảng tin tưởng ở tiềm năng và ý chí dân tộc; tin tưởng ở tình đoàn kết
nghĩa đồng bào nên chủ trương Dân Tộc Độc Lập để cứu nước. Chỉ có sức mạnh đoàn
kết dân tộc mới cứu được nước. Muốn có sức mạnh đoàn kết dân tộc, Việt Nam Quốc
Dân Đảng phát khởi phương thức “Chấn hưng tình gia tộc.” Khi gia tộc khắng khít
và trọng đạo nghĩa thì dân tộc được chấn hưng. Nhận thấy các gia tộc Việt Nam
vốn cùng dòng giống Tiên Rồng, trong quá khứ bốn ngàn năm chưa từng có đổ vỡ
giữa các gia tộc, sự kiện nầy đủ bảo đảm cho hiện tại và tương lai: Quốc tộc
hay Dân tộc thành một khối vững bền hầu cứu nước.
Nói tóm
lại, có 3 điểm sáng tỏ và nổi bật nhất trong sức mạnh đoàn kết dân tộc:
* Không
vũ khí nào tiêu diệt được một dân tộc đoàn kết (bằng chứng là Do Thái).
* Không
một áp lực nào về Kinh tế hay Chính trị có thể đè lực áp bức mãi mãi trên cuộc
sống của một dân tộc đoàn kết.
* Không
một bạo lực nào có thể đặt ách nô lệ dài hạn lên một dân tộc đoàn kết.
Để kết
luận, hơn chín mươi triệu người Việt với hơn chín mươi triệu trái tim và khối
óc của dòng giống Tiên Rồng, chắc chắn sẽ cứu được nước và đưa đất nước lên địa
vị ngang hàng với các cường quốc trên thế giới.
(Thung Lũng Liên Sơn, AZ,
20-5-2015)
* VĨNH LIÊM.
Tài liệu tham khảo:
1. Việt Nam Quốc-Dân-Đảng,
Hoàng-Văn-Đào, Cơ sở Xuất bản Yên Bái, 1990.
2. Việt Nam Đấu Tranh
1930-54, Hoàng Tường, Văn Khoa, 1987
3. Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa, Trống Đồng, 2004

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire