Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Sử
tại Lyon, Pháp, do một nhóm sử gia Việt – Pháp thành lập năm 1991, sau nhiều
năm sưu tầm đã đếm được: 1525 quyển sách. 44.611 bài báo. 188 vở kịch. 6000 tùy
bút, truyện ngắn, tiểu thuyết. 2269 bài thơ. 91
quyển sách giáo khoa xuất bản từ năm 1951 đến 2016. 317 bản tân nhạc. 51 vở
tuồng Hát Chèo. 280 vở thoại kịch. 400 bài ca Vọng Cổ. 28 tuồng Cải Lương….
Trừ Sách
Giáo Khoa, sáng tác từ năm 1933 đến 2016, mục đích thần thánh hóa "Chủ
Tịch" Hồ Chí Minh, bộ máy tuyên truyền Đảng CS phát động dưới sự dẫn dắt
bởi các thiên tài nói láo: Đặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Thanh Nghị, Tố Hữu, Lê
Hữu Kiều, Trần Văn Giàu, Nguyễn Đình Thi, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Khắc Viện,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên… và hàng trăm chuyên viên nói láo cấp nhỏ "nằm vùng": Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Vũ
Hạnh, Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng… giỏi thêu dệt
chuyện không có thành có, bịa đặt toàn truyện giả tưởng, ảo tưởng, hình thành
một trận bão cấp 8, "thổi" tung cái tên Hồ Chí Minh bay lơ lửng ngoài hành tinh,
chắp tay "thỉnh cầu" ông làm "Cha Già
Dân Tộc",
"nâng
cấp"
ông trở thành "Ngọc
Hoàng Thượng Đế".
Nhiều ngôi chùa, đặt tượng Hồ Chí Minh ngang hàng tượng Đức Phật. Tuy nhiên, sự
cuồng tín và mê muội thần tượng hóa Hồ Chí Minh, khiến người VN, trên 80 năm
qua, đã nhận lầm thằng giặc làm cha mình. Họ bắt cả dân tộc đội Hồ Chí Minh lên
đầu. Nhưng, họ không biết, Hồ Chí Minh nào là giặc Tàu, đội lốt người Việt yêu
nước Việt, chống Pháp, chống Mỹ, chống luôn Nga Sô. Hồ Chí Minh nào là Hồ Chí
Minh người Việt. Có lòng ái quốc. Từ ngày bỏ xứ ra đi, hàng chục năm, phiêu bạt
hải ngoại, chưa có một lần đặt chân trở về quê cũ. Chết âm thầm. Chết cô đơn
trên xứ người. Chết không có một người thân tiễn đưa ra huyệt mộ. Hồ Chí Minh
đó, tên Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19-5-1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
huyết thống Việt 100 phần trăm. Nguyễn Tất Thành, tên khai sinh đầu tiên là
Nguyễn Sinh Cung, cha, tên Nguyễn Sinh Sắc, mẹ, tên Hoàng Thị Loan.
Còn Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Hồ Tích Quang, con ông Hồ Tích Trân, và bà Uông Lữ Thanh, sinh
ngày 17-9-1890, tại xã Nam Cương, huyện châu thành Hoàng Phố, Quảng Châu, tỉnh Quảng
Đông. Hồ Chí Minh, Hồ Tích Quang, lãnh đạo tập đoàn CSVN từ năm 1933 đến 1969,
là kẻ gây ra chiến tranh huynh đệ tương tàn, máu người Việt loan đỏ non sông.
Xương người Việt chất cao hơn núi Hoàng Liên Sơn. Nhân danh chiêu bài chống
Pháp, chống Mỹ, Thái Thú Hồ Tích Quang, cánh tay mặt Mao Trạch Đông, đã giết
trên 9 triệu người Việt (nạn nhân bao gồm quân sự và dân sự) tính chung cả hai
miền Nam Bắc. Có một lần ông gào thét:
"Nếu cần, chúng ta sẽ đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng!". Tại
sao ông không kêu gọi đồng bào của ông: "Đánh Mỹ đến người Trung Quốc cuối
cùng"?
Đứng từ
góc nhìn lịch sử, đào xới tài liệu trong các văn khố 9 thư viện: Pháp, Hoa Kỳ,
Nga Sô, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Ukraine, Ba Lan, Tiệp Khắc...., nước
Việt Nam có hai Hồ Chí Minh. Vì sao có hai Hồ Chí Minh? Vì sao người Việt không
phân biệt được Hồ Chí Minh Tàu và Hồ Chí Minh Việt Nam? Vì sao có một số cán bộ
cao cấp biết rõ Hồ Chí Minh nào thật, Hồ Chí Minh nào giả, nhưng không dám há
mồm nói ra?
Dựa trên
các tài liệu mang tính chính sử, chúng tôi lần lượt phơi bày các sự thật dưới
đây. Đã mang tính "chính sử" thì phải khảo cứu, kiểm chứng, kiểm
định, phân tích... bằng phương pháp khoa học như Khảo Cổ Học, Nhân Chủng Học,
Triết Học, Sử Học.... để phân biệt tài liệu nào ngụy tạo bằng máy đánh chữ
UNDERWOOD, ADLER nhằm tuyên truyền. Tài liệu Mật Thám thực dân Pháp dùng máy
đánh chữ ARCHO, Mật Thám thực dân Anh dùng máy Remington, Nga Sô dùng máy
BRANDENBURG, Trung Cộng dùng máy CONTINENTAL, chưa hẳn đúng 100%. Đúng nhất,
chính xác nhất, là, bám theo gót chân Nguyễn Tất Thành, bám theo từng bước ANH
đi (xin được gọi bằng Anh, vì lúc ra đi anh rất trẻ - cách gọi này vừa thân
mến, vừa trân trọng, vì dù sao Anh cũng là người Việt Nam). Người viết sẽ bám
sát Nguyễn Tất Thành từ lúc xuống Tàu Latouche Tréville rời cảng Sàigòn, 21 năm
bôn ba trên đất khách, cho tới ngày anh nhắm mắt!
Viết về
Nguyễn Tất Thành, phải viết trung thực, khách quan. Tâm hồn trong sáng. Không
giao động. Không thiên vị. Không thương, không ghét. Không thù, không hận.
Không Việt Nam Cộng Hòa. không Cộng Sản, thì, lịch sử mới có thể trả lại anh sự
công bằng, đồng thời, giải oan cho người thanh niên Việt Nam này!
Trước khi
đi vào nội dung bài viết, chúng tôi xin phép mở dấu ngoặc tại đây, trả lời câu
hỏi của một Dư Luận Viên trong loạt bài trước có tựa đề: "Đã Tìm Ra
Thủ Phạm Giết Ông Hồ Chí Minh" (tức Hồ Tích Quang bị Lê Duẫn và Lê Đức Thọ giết năm
1969).
Dư Luận
Viên, hỏi.
- "Tôi không
ý kiến về việc ông Hồ là người Trung Hoa, nhưng câu chuyện Lê đức Thọ và Lê Duẫn
vào nhà 67 và ra tay lúc đó chỉ có 2 người mà sao đối thoại tác giả lại biết?"
Trả lời.
"Sự thật,
lúc ông Hồ Chí Minh Hồ Tích Quang tắt thở, người viết đâu có nằm dưới gầm
giường mà biết được. Nếu, bản báo cáo của Lê Duẫn không phúc trình KGB Đông
Phương Vụ năm 1969, tường thuật đầy đủ các chi tiết ám sát ông Hồ Tích Quang,
hiện còn lưu trữ Thư Viện Nga Sô-The Soviet Union Library of Nation-Documents
of the Comintern". Национальная библиотека Советского Союза-Документы
Коминтерна-Natsional'naya biblioteka Sovetskogo Soyuza-Dokumenty Kominterna.
AI GIÚP
ĐỠ NGUYỄN TẤT THÀNH TRỐN DƯỚI HẦM TÀU LATOUCHE TRÉVILLE?
Ông
Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862, ông bố Nguyễn Tất Thành, con đường thi cử rất
lận đận, rớt lên rớt xuống, mãi đến năm 1901, ông 39 tuổi, mới đậu Phó Bảng một
lượt với nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Năm 1907, trong lúc giữ chức Thừa Biện,
huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, uống rượu quá chén, ông hạ lệnh đánh chết
người. Gia Đình nạn nhân khiếu nại lên Triều Đình Vua Duy Tân. Vua Duy Tân sinh
năm 1900 tại Huế, bị tai nạn rớt máy bay trên không phận xứ Cộng Hòa Trung Phi
năm 1945. Thầy dạy vua Duy Tân, ông Mai Khắc Đôn, người có tinh thần cải cách
xã hội, không ưa cường hào ác bá, xúi nhà vua 7 tuổi, xuống Chiếu Chỉ đánh
Nguyễn Sinh Sắc 100 roi, lột chức Thừa Biện, đày đi biệt xứ. Nhờ có Thượng Thư
Hồ Đắc Trung xin ân xá, nhà vua giảm 60 roi. Sau khi chịu trận đòn 40 roi,
Nguyễn Sinh Sắc vào Nam định cư. Cuối tháng 2 năm 1911, ông đi tàu từ Đà Nẵng
vào Saigòn, dẫn theo cậu con trai Nguyễn Tất Thành.
Tới Sàigòn,
ông gặp người bạn cũ, nhà cách mạng Phan Chu Trinh, gửi gắm, xin giúp đỡ, tìm
cách đưa Thành qua Pháp, gầy dựng tương lai. Cụ Phan Chu Trinh vui vẻ nhận lời.
Hai ngày sau, ông Nguyễn Sinh Sắc, được cụ Diệp Văn Cương đưa về Cao Lãnh. Buổi
đầu an cư, lập nghiệp, một tay cụ Diệp Văn Cương bao biện, trợ giúp đủ mọi thứ.
Cụ Diệp Văn Cương có người con trai tên Diệp Văn Kỳ, bạn rất thân với Nguyễn
Tất Thành khi còn ở Huế, năm 1945 bị CS Việt Minh bắn chết tại Củ Chi. Ông
Nguyễn Sinh Sắc mưu sinh bằng nghề hốt thuốc Nam và coi bói. Ông mất ngày
27-11-1929. "Nghĩa tử là nghĩa tận" . Người
chết là hết. Mọi oán thù phải được xóa bỏ. Năm 1958, Tổng Thống Ngô Đình Diệm
bảo viên Tỉnh Trưởng Sa Đéc - Cao Lãnh xây lại ngôi mộ ông Sắc rất hoành tráng,
đẹp đẽ, đúng với câu tục ngữ "Mồ yên mả đẹp".
Phan Chu
Trinh, cùng một thời hoạt động với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi xướng
Phong Trào Duy Tân năm 1908, chống pháp theo khuynh hướng ôn hòa. Không chủ
trương bạo động như cụ Phan Bội Châu. Ông được mọi người mến mộ, trong số đó có
cụ Nguyễn An Khương. Cụ Phan nhờ cụ Khương tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành sang
Pháp.
Cụ Nguyễn
An Khương, thân phụ Nguyễn An Ninh, chủ Khách Sạn Nam Chiêu Lầu, tọa lạc đường
Hàm Nghi, khu Chợ Cũ, Sàigòn, hứa với cụ Phan Chu Trinh rằng sẽ làm tròn lời
hứa.
Những
ngày sau đó, Nguyễn Tất Thành trú ngụ trong Khách Sạn Nam Chiêu Lầu, chờ cụ
Nguyễn An Khương tìm người móc nối với nhân viên hãng Vận Tải Đường Biển
Compagnie Maritime des Chargeurs Réunis, gửi Thành trên một chiếc tàu buôn nào đó,
đi qua Pháp.
Năm 1911,
Toàn Quyền Đông Dương Paul Louis Luce, áp dụng chính sách rất khắt khe đối với
người VN xuất ngoại, đi Pháp:
Một:
Những người có chiến công tay sai, đắc lực phục vụ Pháp Quốc. Hai: Con nhà
giàu, tự bỏ tiền đi du học, nhưng phải đóng "thế chân" số tiền tương
đương 10 lượng vàng.
Ba: Học
sinh xuất sắc, đậu bằng Thành Chung hoặc Tú Tài ưu hạng, được cấp học bổng.
Bốn:
Người Việt đang là công chức trung cấp, cao cấp, có quyền đi tu nghiệp.
Trường
hợp Nguyễn Tất Thành, bốn cửa, đều khép kín, chẳng có lối ra. Trình độ học vấn:
Sơ Đẳng, lớp ba, chưa đậu nổi bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d'études
collégiales élémentaires). Tiền rỗng túi. Nghề nghiệp không có. Quốc tịch Pháp
không có. 4 con số KHÔNG to tướng, tay trắng, nghèo xơ xác, nuôi giấc mộng đi
Tây, là chuyện "mộng du". Riêng về "truyền thuyết" Nguyễn
Tất Thành được nhận làm thủy thủ trên tàu Latouche Tréville, là ý tưởng "vẽ
rắn thêm rồng" một cách ấu trĩ, rẻ tiền, con nít.
Ngày
10-12-1861, trận phục kích thủy chiến, Chí Sĩ Nguyễn Trung Trực chỉ huy đánh
chìm chiến hạm L´Espérance trên vàm sông Nhật Tảo, Tân Trụ, Tân An, bằng hỏa
công. 50 năm sau (1911), thực dân Pháp vẫn chưa quên cuộc phục kích kinh hoàng
này. Do đó, thủy thủ đoàn trên tàu Latouche Tréville toàn là người Âu Châu, Ấn
Độ, Nam Dương, Sri Lanka... Hãng Chargeurs Réunis không được phép tuyển dụng
thủy thủ người bản xứ thuộc địa. Sau Đệ Nhất Thế Chiến, 1914-1918, người VN mới
được nhận làm thủy thủ trên các tàu hàng hải Pháp.
Hãng
Chargeurs Réunis, sở hữu chủ chiếc tàu viễn dương Latouche Tréville, văn phòng
đặt trên đường Catinat – Tự Do, Sàigòn, nay là Đồng Khởi. Chiếc tàu dài 118,m,
ngang 15,2m, hạ thủy tại hải cảng Nantes, Pháp, năm 1904, trọng tải 7200 tấn,
chứa tối đa 1000 hành khách, 120 thủy thủ đoàn. Thuyền trưởng tên: "Louis
Édouard Maisen".
Ngày
29-5-1911, đầu bếp cha Ý mẹ Pháp Patrick Albertino, qua một người trung gian
môi giới nhận 2 lượng vàng, cụ Nguyễn An Khương "gửi tặng". Đổi lại,
Albertino lén đưa Nguyễn Tất Thành từ dưới ghe lên hông tàu bằng thang dây,
tránh đi qua Cầu Tàu để không bị cảnh sát thương cảng và hiến binh khám xét "Passport"
(sổ thông hành, hiện giờ gọi là hộ chiếu). Nguyễn Tất Thành trốn dưới hầm tàu,
khu chứa thực phẩm. Suốt cuộc hải trình, anh đóng vai phụ bếp, không có tên
trong danh sách nhập cảnh vào Pháp. Lẽ đương nhiên, 2 lượng vàng, ALBERTINO
không thể "ăn" một mình, phải chia với ê-kíp gardien (toán giữ an
ninh trật tự trên tàu). Cụ Nguyễn An Khương nhét vào túi sách Nguyễn Tất Thành
6 tờ giấy bạc 50 Francs màu xanh phòng thân, lỡ có chuyện phải xài trên bước
đường viễn xứ. Mỗi tờ giấy bạc 50 Francs màu xanh năm 1911, tương đương 474
euros ngày nay. Ngày đi, Nguyễn Tất Thành chỉ có Laissez – Passer Consulaire,
không có Pass-Port.
Chiếc tàu
Latouche Tréville và cảng Sàigòn ngàyy 1-3-2011, cặp bến Kho 5 bóc dở hàng hóa
nhập cảng vào Việt Nam. Ngày 8-3-1911, tàu được đưa vào "ụ" xưởng Ba
Son, sửa chữa máy móc, tu bổ, bảo trì, sau một chuyến hải hành dài trên biển. "Ba Son", phiên âm
từ tiếng Pháp: "Bassin de radoub" (Ụ Tàu). Xưởng đóng
tàu Ba Son, vua Gia Long xây cất năm 1791. Sau khi chiếm Sàigòn năm 1859, Pháp
biến thành Hải Quân Công Xưởng – Arsenal de Saigon. Năm 1888, Ụ Tàu Ba Son có
thể tiếp nhận những chiến hạm lớn nhất lúc bấy giờ. Khi Pháp ra đi, năm 1955,
Pháp bàn giao lại cho Hải Quân VNCH. Năm 1957, VNCH chia Cảng Sàigòn thành hai
khu. Từ Hải Quân Công Xưởng tới Kho 4 thuộc Quân Cảng (quân sự). Từ Kho 6 đến
Kho 18, giáp giới Cầu Tân Thuận là Thương Cảng (dân sự).
Ngày
22-5-1911, Latouche Tréville, ra khỏi Ụ Ba Son, bỏ neo tại Kho 7, bóc hàng hóa
xuất cảng: gỗ, cà phê, cao su, gạo, đồ gốm.... ngày 27-5-1911, tàu quay trở lại
cặp bến Bạch Đằng, rước hành khách.
12 giờ
trưa ngày 5-6-1911, tàu Latouche Tréville nhổ neo, rời sông Sàigòn, trực chỉ ra
khơi, vượt đại dương về Pháp. Căn cứ theo các tấm ảnh trong văn khố Hãng
Chargeurs Réunis (Archives de Chargeurs Réunis) chụp ngày 5-6-1911: Mây thấp,
trời bao phủ khu vực sông Sàigòn. Hướng Nhà Bè, mưa rơi nặng hạt, mưa ngưng lại
từng chập, rồi lại mưa tiếp. Quang cảnh ảm đạm, u buồn, như chia sẽ với người
ra đi. Người ra đi không hẹn ngày trở lại!
Hành
trình tàu Latouche Tréville cặp bến các quốc gia: Singapore, Ấn Độ, Sri Lanka,
Ai Cập, xuyên qua Địa Trung Hải, tới Marseille, Dunkerque, Le Havre, Pháp. Thời
gian hải trình trên biển: 40 ngày.
Hàng
ngày, giờ làm việc bắt đầu 5 giờ sáng, ra "ca" 10 giờ đêm: Rửa rau, gọt
cà rốt, đốt lửa lò, khuân vác than, thịt, cá, nước đá…. Rửa chén, chảo, nồi,
đĩa, lau chùi nhà bếp, quét dọn sạch sẽ sàn tàu…. Nguyễn Tất Thành rất tháo
vác, siêng năng, chu toàn mọi công vịêc.
Nhờ vậy,
khi tới Marseille, đầu bếp Albertino trình lên thuyền trưởng Louis Édouard
Maisen, chấp thuận Nguyễn Tất Thành chính thức trở thành thủy thủ ngày 3-8-1911,
và con tàu tiếp tục hải trình qua Phi Châu, Mỹ Châu.
Đến
Marseille, Nguyễn Tất Thành liền viết một lá thư gửi Tổng Thống Pháp Armand
Fallières, xin vào học Trường Thuộc Địa (École coloniale), hy vọng tốt nghiệp
sẽ được bổ nhiệm làm quan. Lá thư Nguyễn Tất Thành viết bằng tiếng Pháp, phạm 7
lỗi chính tả, cho nên, không được chấp thuận.
Marseilles,
Ngày 15 tháng Chín năm 1911
Thưa Ngài
Tổng thống!
Tôi xin
hân hạnh yêu cầu Ngài giúp đỡ cho tôi được vào học nội trú tại Trường Thuộc
Địa.
Hiện nay,
để nuôi thân, tôi đang làm việc cho công ty Chargeurs Réunis (Tàu Amiral
Latouche – Tréville). Tôi hoàn toàn không còn nguồn lực nào và rất thiết tha
muốn có học vấn. Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng
bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi được từ học hành.
Quê tôi ở
tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ phúc đáp theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng
thống nhận sự biết ơn sâu sắc của tôi.
Nguyễn
Tất Thành
Sinh tại
Vinh, 1892. Con trai của Ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương). Học sinh
tiếng Pháp và chữ nho.
Ghi Chú:
Nguyễn Tất Thành nói sai. Cụ Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc chỉ đậu Phó
Bảng, chưa hề đậu Tiến Sĩ.
Năm 1914,
Nguyễn Tất Thành thôi hành nghề thủy thủ, lưu lại Luân Đôn, làm lao công cho
Công Ty London Cleaning Company. Mùa Hè, mùa Thu quét đường. Mùa Đông cào
tuyết. Công việc vô cùng cực nhọc, vất vả.
Thời gian
sống bên Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành chia phòng với một người bạn Trung Hoa tên
Lý Lập Tam, lầu 4, số 7, Argyll Streeet, London, W1F 7TN England. Lý Lập Tam,
gia đình khá giả, đậu bằng Cử Nhăn Văn Chương Pháp, sang Anh Quốc, nghiên cứu
triết Học Angel, Karl Marx. Lý Lập Tam sinh năm 1899, tại
Hồ Nam , Trung Hoa. Nguyễn Tất Thành tình cờ quen Lý Lập Tam trên xe chuyến bus
vào mùa đông năm 1914. Tam nhận thấy Thành người cùng
màu da với mình. Thành nói tiếng Anh bồi, học lốm trong lúc
quét đường, cào tuyết, bập bẹ câu trúng, câu trật, bận lo miếng ăn, đầu tắt mặt
tối, vừa nuôi thân, vừa gửi tiền về nuôi ông bố, bà chị, người
anh cả Nguyễn Sinh Khiêm, đâu có thời giờ học ngoại ngữ. Lý Lập Tam hiểu, rất
thông cảm, dễ dàng kết thân với Nguyễn
Tất Thành.
Tháng
2-1921, Lý Lập Tam sang Nga, tuyên thệ gia nhập Đảng Cộng Sản Sô Viết
(KOMINTERN) Quốc Tế Cộng Sản Đảng Nga Sô – lại gặp Nguyễn Tất Thành, cũng tuyên
thệ gia nhập Đảng CS Nga. Lý Lập Tam, giới Thiệu Nguyễn Tất Thành làm quen với
Trần Độc Tú đang có mặt tại Nga. Trần Độc Tú, người đầu tiên sáng lập Đảng Cộng
Trung Quốc tại Thượng Hải, tháng 7-1921, chẳng phải Mao Trạch Đông.
Lý Lập
Tam theo Nga, bị Mao Trạch Đông xử bắn năm 1967. Lý Lập Tam là một trong 86.000
cán bộ CS Tàu thân Nga bị xử bắn. Trong đó, có Lưu Thiếu Kỳ. Nên hiểu, thuở ấy,
các đảng viên Việt Nam sang Nga, cứ nói tiếng Việt, có người Nga thông dịch ra
tiếng Việt.
Trung
tuần tháng 12 năm 1917, nhận được thư cụ Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành trở
lại Pháp, sống chung trong một căn phòng chật hẹp với các nhà cách mạng: Phan
Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, số 6, Villa des
Gobelins, Quận 13, Paris.
Cụ Phan
Chu Trinh dạy Nguyễn Tất Thành rửa phim ảnh, kiếm sống. Rửa phim ảnh khoảng 5
tháng, anh chán nản, bỏ ngang, đi làm một chân phụ hồ, ở thành phố Montreuil,
ngoại ô Paris. Ban ngày trộn hồ, ban đêm học cách chống Pháp "ngầm",
tránh cặp mắt cảnh sát chìm theo dõi. Hàng đêm, cụ Nguyễn Thế Truyền giảng dạy,
"nhồi sọ", đổ vào bộ não Nguyễn Tất Thành những lời "ru" ái
quốc, cứu nước, chống thực dân, giải phóng dân tộc.
Từ một
thanh niên học lớp Ba, kiến thức chính trị mù tịt, có lòng thương cha, thương
chị, thương anh, thương người mẹ quá cố, lòng yêu nước chưa xuất hiện trong tâm
trí. Nguyễn Tất Thành ra đi tìm tương lai cho mình, cho gia đình mình, nghĩa
là, làm sao có cuộc sống khá hơn, cơm đủ ăn, áo đủ mặc, có nhà ở…. Thế là đủ!
Đủ lắm rồi! Nhưng mà, chưa đầy một năm, qua những lời giảng tận tâm của Nguyễn
Thế Truyền, Phan Chu Trinh, vô hình chung, biến thành những giọt nước "Cam
Lồ" tưới vào hồn người thanh niên xứ Nghệ, thích an phận, hiền lành, chất
phát. Bỗng chốc giác ngộ "đột xuất". Giác ngộ yêu nước. Giác ngộ cứu
nguy Tổ Quốc.
Năm 1919,
giấy lesser-passer hết hạn, Nguyễn Tất Thành sắp bị trục xuất về VN. Cụ Nguyễn
Thế Truyền bèn liên lạc với người bạn học cũ, từng là Dân Biểu Cánh Tả, tên
Gilles Marcel Cachin, nhờ người bạn điều
chỉnh giấy tờ giúp Nguyễn Tất Thành định cư hợp pháp. Không hiểu Gilles Marcel
Cachin vận động thế nào, hai tuần lễ sau, Sở Cảnh Sát Quận 13, Paris, gửi văn
thư kêu Nguyễn Tất Thành tới làm thẻ căn cước (Carte d´Identité) và cấp luôn
Pass-Port. Nội dung thẻ căn cước ghi như sau:
Nom (Họ):
Nguyên
Prénoms
(Tên): Ai Quốc
Profession
(Nghề nghiệp): Etudiant Sinh viên
Né le
(Sinh ngày): 15 Janvier 1894 15/1/1894
À (Tại):
Vinh Département (Quận hạt): Annam
DOMICILE
(Nơi cư trú): 6, villa des Gobelins Paris 13e
SIGNALEMENT:
NHÂN DẠNG
Taille
(Cao): 1 mètre
65 (1m65)
Cheveux
(Tóc): noirs đen
Barbe
(Râu): không ghi
Yeux
(Mắt): noirs đen
Nez
(Mũi): Dos (Sống mũi) aplati dẹt, Base (đáy): horizontale ngang, Dimensions
(kích thước): fortis mạnh
Signes
particuliers (Dấu đặc biệt): néants không có
Forme
générale du visage (Khuôn mặt): ovale trái xoan
Teint
(Nước da): ngâm đen,
Ngày
4-9-1919. Signature du titulaire (Chữ ký người giữ thẻ): Nguyên A.Q.
Vísa du
Commissaire de Police (Chứng nhận của Ủy viên Cảnh sát): Đóng dấu mộc ở nơi ký
tên và ở ảnh (dấu dập nổi).
Xin nhấn
mạnh những đặc điểm cần chú ý:
"NGUYỄN ÁI
QUẤC – QUẤC » – CHỮ "Ấ"
KHÔNG
PHẢI "NGUYỄN ÁI QUỐC" – "HỮ Ố".
Kích
thước đo tại sở Cảnh Sát Quận 13, Paris, Nguyễn Tất Thành cao 1m65. Ngược lại,
theo hồ sơ Mật Thám Anh Quốc tại Bắc Kinh năm 1927 (British Secret Service
records in Beijing - 1927), Hồ Chí Minh - Hồ Tích Quang cao 1m72. Thời còn sinh
tiền, Nguyễn Tất Thành xử dụng hàng chục bí danh, không bao giờ tự nhận mình là
Nguyễn Ái Quốc. Con người Anh rất tự trọng, hết sức biết ơn các ân nhân: Phan
Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường… Bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc, bút hiệu chung của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn
TrườngTrường viết trên báo Le Paria.
Tiếng
Pháp, 3 năm học ở Việt Nam, 6 tháng học tại Paris, Nguyễn Tất Thành nặn óc suốt
đời cũng không "rặn" nổi một bài báo, dù nửa trang giấy, đúng văn
phạm và có trình độ văn học như các bậc thức giả Tây học Nguyễn An Ninh, Nguyễn
Thế Truyền, Phan Văn Trường.
Báo Paria
tiếng nói chống thực dân Pháp trên đất Pháp, xuất bản số đầu tiên: Thứ Ba, ngày
1-8-1922. Lực lượng "chống lưng" cho tờ Le Paria là ông Gilles Marcel
Cachin và các Ủy Viên Trung Ương Đảng CS Pháp. Không có "ô dù" Đảng
CS Pháp che chở, tờ Paria đã bị đóng cửa khi phát hành số thứ 2, các ông Nguyễn
An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh sẽ ngồi tù không có
ngày ra trong Khám Đường La Santé, Quận 14, Paris (Centre Pénitentiaire de Paris-La Santé,
Paris 14ème )
Ngày
30-12-1920, Đảng Cộng Sản Pháp chính thức ra đời, công khai "hành nghề".
Những "ông tổ" sáng lập đảng Cộng Sản Pháp gôm có:
FERNAND LORIOT, BORIS
SOUVARIN, MARCEL GILLES MARCEL CACHIN, LUDOVIC-OSCAR, FABIEN ROUSSEL, NGUYỄN ÁI
QUẤC. Tổng Bí Thư Đảng: FABIEN ROUSSEL.
Trụ sở: 44 rue le Peletier, Quận 9, Paris.
Đảng CS Pháp, Đảng CSVN (thành
lập 1930), Đảng CS Tàu và 37 Đảng CS khác trên thế giới, dưới sự
điều hành trong bóng tối của Grigori Zinoviev, Phó Trùm Mật Vụ KGB, Tổng Giám
Đốc là NIKOLAY IVANOVICH YEZHOV. Tên tội đồ YEZHOV đã xử bắn 5 triệu người Nga,
kiến trúc sư các Trại Cải Tạo Goulag. Năm 1946, Laveren Pavlovich Béria thay
thế. Chính Béria treo cổ YEZHOV. Năm 1953 Staline chết, Nikita Sergueievich
KRHOUCHTCHEV lên nắm Tổng Bí Thư Đảng, ra lệnh bắn BÉRIA chết nửa đêm trong nhà
tù Mạc Tư Khoa (Moscow Prison).
Đại Hội
Đảng Cộng Sản Pháp lần thứ 18 tổ chức tại thành phố Tours từ ngày 25 đến ngày
30-12-1920 (17 lần trước họp kín, hoạt động lén lút), tuyên cáo thành lập Đảng,
giới thiệu Ban Chấp Hành. Có mặt Grigori Zinoviev, Trưởng Trạm KGB tại Âu Châu
giám sát. Đại Hội thảo luận các chủ đề nhân quyền, tố cáo bọn thực dân tư bản,
tư sản cướp đất, cướp của nhân dân thế giới. Ngày cuối, bàn luận nên chọn đi
phương hướng nào? Đi theo Đệ Nhất Cộng Sản hay Đệ Nhị CS?
Đệ Nhất
Cộng Sản: Angel, Karl Marx thành lập.
Đệ Nhị
Cộng Sản: Lénine thành lập.
Đệ Tam
Cộng Sản: Staline thành lập.
Đệ Tứ
Cộng Sản: Léon Troitski thành lập.
Sau 5
ngày thảo luận, đa số bỏ phiếu chọn con đường đi theo Lénine, Đệ Nhị Cộng Sản.
Trong dịp này, tuy phát âm tiếng Pháp bằng gọng "An Nam" rặt, Nguyễn
Tất Thành đọc bài diễn văn làm "cháy lòng", các quan khách tham dự,
Nguyễn An Ninh biên soạn. Bài diễn văn cực lực lên án "Bọn tư bản ác ôn
thực dân Pháp", gây tiếng vang khắp Âu Châu. Sự thực, trong thâm tâm,
Nguyễn Tất Thành ý thức được pần nào sự
độc tài, tàn bạo của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng vào thời đó, theo Nguyễn Tất
Thành, CS là phương tiện duy nhất đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam.
Ngoài chủ nghĩa CS, không còn giải pháp nào khác?
Đại hội
bế mạc 6 giờ chiều ngày 30-12-1920, Nguyễn Tất Tất Thành về Paris, tức khắc,
lấy chuyến tàu đêm, qua Ba Lan, tới Ukraine, cuối cùng đến Moscow. Nếu ở lại
Paris, trước sau gì cũng bị Mật Vụ Pháp bắt giam.
Nguyễn
Tất Thành được hướng dẫn đến gặp Tổng Bí Thư Đảng CS Nga, GEORGI DIMITROV. Hai
ngày sau, anh diện kiến Lénine tại trụ sở Đảng, số 2, Quảng Trường Staraya,
Moscow, 1 tiếng đồng hồ. Không ngờ, Lénine rất có cảm tình với Nguyễn Tất
Thành. Ngay khi đó, Lénine bổ nhiệm anh làm Ủy Viên Trung Ương Quốc Tế Cộng Sản
Đảng, không cần phải đợi đến ngày Đại Hội Đảng năm 1921. Lénine còn « tặng »
anh Thêm một chức nữa: Trưởng Phòng Đông Phương Vụ, toàn vùng Đông Phương, anh
« Quản lý » các đảng CS từ A đến Z, văn phòng bí mật đặt tại Hồng Kông. Chính
vì chức vụ trung thành Nga hơn cả người Nga mà sau này Mao Trạch Đông phải hạ
sát Nguyễn Tất Thành bằng mọi giá.
Năm 1922,
Lénine bị đứt gân máu não, liệt tứ chi, ngồi một chỗ, quyền hành tối cao nằm
gọn trong tay Satline. May mắn một lần nữa đến với Nguyễn Tất Thành, Staline
rất quý mến anh. Trong khi đó, Hồ Chí Minh - Hồ Tích Quang những lần qua Nga,
lần nào cũng bị Staline đối xử bằng thái độ ghẻ lạnh. Staline rất ghét Tàu,
ghét lây Hồ Tích Quang, tuy rằng, Hồ Chí Minh - Hồ Tích Quang đến Nga với tư
cách "Cha Già Dân Tộc Việt Nam". Ngược lại, Mao Trạch Đông chẳng
những "rất ghét" Nga, mà còn thù hận người Nga tận xương tận tủy.
Khốn nạn cho đàn em Nga - Tàu là ở chỗ này.
Sau Đại
Hội Quốc Tế CS Đảng ngày 16-3-1921, ngày 10-4-1921, Nguyễn Tất Thành đi dự một
khóa học 2 năm để trở thành người CS chuyên chế tại Trường Đại Học Cộng Sản
Đông Phương (Communist University of the East) có thông dịch viên Nga-Việt
phiên dịch. Địa chỉ: Số 17, đường Sabit Orujov, Baku, Azerbaijan. Chương trình
thụ huấn gồm : "Lập luận, Lý luận, biện luận, biện chứng, tổ chức đảng,
các phương thức tuyên truyền, chiến thuật cướp chính quyền, phương thức tiêu
diệt các đảng phái không cùng chí hướng CS".
Nói cách
khác: Học nhuần nhuyễn nghệ thuật nói láo. Nghệ thuật giết người. Nghệ thuật đấu
tố giai cấp. Lấy giai cấp này tàn sát giai cấp kia. Giết! Giết! Giết đến khi
nào chỉ còn độc nhất giai cấp Cộng Sản! Ngày 10 tháng 4-1923, mãn khóa, Nguyễn
Tất Thành sang Hồng Kông thi hành nhiệm vụ.
Tại Hồng
Kông, có sự đỡ đầu của phe CS Tàu thân Nga: Tổng Bí Thư Trần Độc Tú, Lý Đại
Chiêu, Lý Lập Tam, Đặng Tiểu Bình (du học Pháp năm 1920, tuyệt đối trung thành
Staline đồng chí thân thiện nhất của Nguyễn Tất Thành), hai người từng quen
nhau ở Pháp - Lưu Thiếu Kỳ, Nguyên Soái Hạ Long…. Thi hành lệnh Dazdrapetrak,
Bí Thư Đông Phương Vụ, năm 1924, Cố Vấn là Lý Lập Tam, Nguyễn Tất Thành, mang
bí danh mới là Hồ Chí Minh, về Ung Châu, tỉnh Quảng Tây, tuyển mộ đảng viên,
gửi sang Nga huấn luyện.
Ghi chú.
Mao Trạch Đông lấy bí danh Hồ Chí Minh của Nguyễn Tất Thành đặt cho Hồ Tích
Quang năm 1934.
160 đảng
viên CS mà Nguyễn Tất Thành tuyển mộ từ trong nước VN, đưa qua Nga học tập,
trong số đó, những đảng viên trung thành nhất của Nga, sau này trở thành các
Tổng Bí Thư Đảng: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập.
Ngày
14-6-1925, Trần Độc Tú ủng hộ và khuyến khích Nguyễn Tất Thành sáng lập Thanh
Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, Ban Chấp Hành: Hồ Tùng Mậu (gián điệp của Mao
Trạch Đông), Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, Lê Hồng Sơn. Thanh Niên Cách Mạng
Đồng Chí Hội bị Mao Trạch Đông giải tán năm 1929.
Xin nhắc
lại: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, đọc tắt là VIỆT MINH, Mao Trạch Đông thành
lập ngày 19-5-1941, Hồ Tích Quang Tổng Chỉ Huy. Nguyễn Tất Thành đã qua đời
trước đó 9 năm!
Năm 1927,
Mao Trạch Đông dần dần thu tóm quyền lãnh đạo Đảng, phe thân Nga Trần Độc Tú,
dần dần bị loại ra khỏi Đảng, một số chạy qua đầu thú Tưởng Giới Thạch, một số
ở lại cúi đầu quy phục Mao Trạch Đông. Nguyễn Tất Thành, "đứa con cưng"
Sô Viết, bắt buộc Mao Trạch Đông phải ra lệnh thủ tiêu gấp.
Cũng
trong năm 1927, KGB Đông Phương Vụ gởi tới Nguyễn Tất Thành một cô gái Việt
Nam, 17 tuổi, làm phụ tá giúp anh mọi công tác bí mật. Cô tên Nguyễn Thị Vinh,
bí danh Nguyễn Thị Minh Khai, con gái cả Kỹ Sư cơ khí hỏa xa Nguyễn Huy Bình.
Cô có người em tên Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu tiên Võ Nguyên Giáp. Nguyễn
Thị Quang Thái bệnh thương hàn chết trong Nhà Tù Hỏa Lò, Hà Nội, năm 1944.
Vừa gặp
nhau, hình như có duyên nợ từ kiếp trước, Tất Thành và Minh Khai mê man bởi
tiếng "sét
ái tình".
Cùng ý chí, cùng lý tưởng, lại hợp nhãn, hợp tính tình. Họ yêu nhau tha thiết.
Trên bước đường tranh đấu gian nan, đầy nguy hiểm, họ không rời nhau nửa bước.
Nguyễn Thị Minh khai săn sóc Nguyễn Tất Thành từng miếng ăn, từng giấc ngũ,
từng thang thuốc kiêm luôn nhiệm vụ bảo vệ tính mạng Nguyễn Tất Thành.
Đối với
nàng, bên cạnh Nguyễn Tất Thành, hạnh phúc luôn luôn dâng ngập buồng tim. Là
vì:
Đủ nắng
hoa sẽ nở
Đủ yêu
thương hạnh phúc sẽ tràn đầy.
Đáp lại,
Nguyễn Tất Thành đến với Nguyễn Thị Minh Khai bằng khối óc bao phũ hình bóng
nàng:
Anh đến
với em là lẽ tất nhiên.
Như con
sông trở về biển.
Như qua
mùa xuân mùa đông lại đến.
Như sau
cơn mưa là lúc mặt trời lên.
(Trích
Thơ Tế Hanh)
"Cây
muốn lặng gió chẳng muốn ngừng". Sóng gió lại đến với Nguyễn Tất Thành. Bộ
hạ Trần Độc Tú báo tin: Đồng chí hãy đi nhanh. Người của Chủ Tịch Mao sẽ lấy
mạng đồng chí trong vài ngày nữa!.
Nhận được
hung tin, tháng 7-1928, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thị Minh Khai chạy sang Thái
Lan lánh nạn, cả hai ngụy trang nông dân, trú ẩn trong nhà một Việt Kiều thân
Cộng, tên Võ Tòng Đại, làng Na Jok, tỉnh Nakhon Phanon. Thời gian này, cứ 1, 2
tuần, Nguyễn Tất Thành ho ra máu một lần. Anh mắc chứng ho lao năm 33 tuổi. Năm
nay 39 tuổi. Một ngày hút 3 gói thuốc: Bastos hay Capstan hoặc Cotab. Bệnh ngày
càng trầm trọng hơn. Cơn ho từng đợt, không ngừng, kéo dài hơn. Có đêm mất ngủ,
ho sáng đêm. Uống thuốc Bắc, thuốc Nam liên miên, uống để trấn an mình, chả có
hiệu nghiệm gì cả! Ho vẫn ho! Ra máu vẫn ra máu! Có 3 loại vi trùng ho lao:
1 - Mycobacterium Tubercolis.
2 - Mycobacterium Bovis.
3 - Mycobacterium Africanum.
Không biết Nguyễn Tất Thành "dính" con vi trùng nào!
Tình báo trong giới kiều bào lại báo cáo, Mật Vụ Mao Trạch Đông "cài
cắm" đầy dẫy trên đất Thái, Nguyễn Tất Thành khó thoát lưỡi
hái tử thần nếu còn nán ở đây thêm một ngày. Anh và Nguyễn Thị
Minh Khai cấp tốc di chuyển lên Chiang Rai, miền Bắc Thái Lan. 4 giờ sáng ngày 3-12-1929 , đoàn cận vệ hộ tống hai người vượt biên giới qua Miến Điện.
Từ Miến Điện, Thành và Khai cùng đoàn tùy tùng đáp máy bay cánh quạt Douglas
DC-3 trở lại Hồng Kông, lãnh địa Anh Quốc, cảm thấy an toàn hơn.
Biết
Nguyễn Tất Thành đã chạy trốn, Mao Trạch Đông, tập họp các đảng viên CSVN đang
dự khóa "
Đào Tạo Cán Bộ Cách Mạng" tại Quảng Châu, giao Tập Trọng Huân, (cha Tập Cận
Bình) thành lập Đông Dương Sản Đảng ngày 1-6-1929. Tổng Bí Thư: Trình Đình Cửu.
(Trình Đình Cửu, người của Nguyễn Tất Thành, sau hợp tác với Lê Duẫn, chống
tàu, nên sống sót qua bao nhiêu cuộc thanh trừng, mất năm 1990). Uỷ Ban Trung
Ương Đảng: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Tuân, Dương Hạc Đính, Đỗ Ngọc
Du. Đảng CS này, giờ chót theo Nga, phản Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông nổi
điên, hạ lệnh giải tán ngày 3-2-1930.
Năm ngày
sau khi Mao Trạch Đông giải thể ĐDCSĐ, ngày 7-2-1930, Nguyễn Tất Thành lập Đảng
CS khác.
Nga không
nhường bước Tàu, cương quyết lấn sâu vào vùng Đông Dương, hất cẳng Tàu ra khỏi
khu vực chiến lược Đông dương. Nga chỉ thị Trung Tá KGB Dazdrapetrak, Bí Thư
Đông Phương Vụ, lập riêng một đảng CSVN của Nga, do Nga điều khiển và vì Nga
chiến đấu.
Nguyễn
Tất Thành triệu tập Đại Hội. Ngày 7-2-1930, tại số 5, Bowen Road, Hồng Kông,
trong một căn nhà ngói, cũ kỹ, tồi tàn. Nguyễn Tất Thành chủ tọa cuộc họp kín,
bí mật, với sự tham dự của các đảng viên thân Nga. Nguyễn Tất Thành tuyên bố
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ Tịch : Nguyễn Tất Thành. Tổng Bí Thư:
Nhiệm kỳ Tổng Bí Thư rất ngắn, lần lượt: Trịnh Đình Cửu, Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập. Uỷ Viên Trung Ương: Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ
Tùng Mậu, Châu Văn Liêm, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thiệu.
Năm 1933,
Mao Trạch Đông đổi thành Đông Dương Cộng Sản Đảng, giao Hồ Chí Minh Hồ Tích
Quang lãnh đạo cho tới ngày bị Lê Duẫn "đậy nắp quan tài" năm 1969.
Sợ Mật
Thám Tây, Mật Thám Anh Quốc, Mật Vụ Cộng Sản Mao Trạch Đông bắt giữ, Đại Hội
nhanh chóng kết thúc, diễn ra có một ngày. Tối ngày 7-2-1930, các đảng viên
thoát qua đất Tàu, sau đó, tìm đường về VN. Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thị Minh
Khai có người hướng dẫn đến Miếu Hầu Vương, trung tâm phố Cửu Long, ẩn trốn.
Không
hiểu sao Tổng Lãnh Sự Trùng Khánh, Jules Médard, tự dưng biết rõ Nguyễn Tất
Thành hiện đang ẩn trốn trong Miếu Thờ Hầu Vương, phố Cửu Long, Hồng Kông.
Nhận được
tin, Eugène Jean Louis René ROBIN, Toàn Quyền Đông Dương, đánh điện tín yêu cầu
Thống Đốc Hồng Kông (Governor of Hong Kong), Sir William Peel, bắt giam Nguyễn
Tất Thành khẩn cấp.
Ngoài ra,
Mao Trạch Đông còn chỉ thị các mật báo viên Trung Cộng "nằm vùng" trong
cộng đồng người Trung Hoa ở Việt Nam, chỉ điểm Mật Thám Tây bắt trọn ổ Đảng
CSVN, 20 phần trăm bị xử bắn, phải kể những đảng viên cao cấp như Trần Phú, Lê
Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu…. 40 phần trăm ngồi
tù Côn Đảo trung bình 10 năm trở lên, trong đó có Lê Duẫn. Lớp Tây xử bắn, lớp
CS Việt phe Tàu bắt cóc, thủ tiêu, ám sát CS Việt phe Nga, chết hằng hà sa số,
thây trôi đầy các dòng sông. Kịch bản biển máu CS Việt giết CS Việt suốt 26
năm, 1933-1959, bởi phe thân Tàu nắm quyền lực, tính thêm các cuộc thanh trừng
trong chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất" 1953-1957, cán bộ tử vong lên
đến con số 1, 2 trăm ngàn. Phải đợi đến năm 1957, Lê Duẫn ra Hà Nội, nắm trọn
quyền bính năm 1960, phe thân Tàu phân nửa xộ khám, phân nửa bị chôn sống. Năm
1960 đến 1975, Nga viện trợ với kinh phí "khủng", hàng chục tỷ đô la,
ủng hộ Lê Duẫn. 90% quân nhu, quân cụ, quân trang, vũ khí, đại bác, thiết giáp,
xe tăng, hỏa tiễn SAM đến từ Nga. 10% còn lại, Mao Trạch Đông viện trợ lương
khô, đồ hộp, mũ tai bèo, dép râu, nón cối. Hết! Chỉ có bấy nhiêu! 15 năm chiến
triến tranh Việt Cộng với Việt Nam Cộng Hòa 1960-1975, Nga là ông chủ thật sự
của Cộng Sản Hà Nội.
Năm 1980,
chẳng biết giận chuyện gì đó, Lê Duẫn nổi cơn khùng, nói toẹt "móng heo"
trước dư luận thế giới thân phận một dân tộc đánh giặc mướn, như sau:
"Ми
боремося зі США, боремося з кривдниками на Півдні, ми боремося за Радянський
Союз, ми боремося за Китай, а не за нас!". Trích "Ukrainian
Thời Báo", (Ukrainian Times) số phát hành ngày 12-4-1981 .
Xin dịch ra tiếng Mỹ rồi dịch sang tiếng Việt: "We fight the US ,
fight the henchmen of the South, we fight for the Soviets, we fight for China , not
for us! ".
"Chúng tôi đánh Mỹ, đánh bọn tay sai miền Nam là đánh cho Sô Viết,
đánh cho Trung Quốc, chứ đâu phải đánh cho chúng tôi!".
Rất nhiều người thắc mắc, cả ngàn đảng viên cao cấp CS, không lẽ, không một
ai nhận ra Nguyễn Tất Thành và Hồ Tích Quang? Ông Vũ Đình Huỳnh, Bí Thư
ông Hồ Chí Minh, năm 1946, tháp tùng ông Hồ qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau,
thương thuyết với Pháp? Ông Vũ Kỳ, Thư Ký riêng ông Hồ Chí Minh? Những người
này phải biết ông Hồ Chí Minh chứ ?
Xin trả
lời: Những cán bộ thân cận Nguyễn Thất Thành, 20% bị Pháp xử bắn, 40% tử vong ở
Côn Đảo và các nhà tù trên toàn quốc vào những thập niên 1920, 1930, 1940. 35%
bị CS phe Hồ Tích Quang ám sát, tử hình, thủ tiêu vào thập niên 1950. 5% sống
sót, bằng cách nhắm mắt không thấy, không biết, cúi đầu thần phục, ngậm miệng
suốt đời. Nguyễn Tất Thành rời VN năm 1911. Thời gian đó, chưa có CS, chưa có
một đảng viên nào biết mặt Nguyễn Thất Thành, kể cả Võ Nguyên Giáp, chỉ biết Hồ
Chí Minh Hồ Tích Quang năm 1937.
Tháng
8-1945, Trần Đăng Ninh dẫn Vũ Kỳ đến trình diện Hồ Tích Quang để giúp việc, lo
giặt giũ, cơm nước, làm việc lặt vặt, sắp xếp hồ sơ, văn thư... lần hồi trở
thành Thư Ký riêng Hồ Tích Quang. Vũ Kỳ chắc chắn không biết mặt Nguyễn Tất
Thành.
Ông Vũ
Đình Huỳnh, một nhà kinh doanh, giàu có, đại tư bản, có lòng với đất nước,
chống Pháp cực đoan. Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng
Ninh, Hoàng Quốc Việt, (tên thật Hạ Bá Cang), Bùi Lâm, Nguyễn Khang.... từng ăn
nhờ ở đậu nhà ông Vũ Đình Huỳnh, Phố Nhà Rượu, Hà Nội. Tháng 8-1945, tại Tân
Trào (Huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), Vũ Đình Huỳnh bỏ tiền bạc lo cơm nước
nuôi trên 100 miệng ăn, tính luôn Hồ Tích Quang. Năm 1946, Vũ Đình Huỳnh được phong
Đại Tá, đi Pháp với Hồ Chí Minh Hồ Tích Quang. Trọn đời ông, ông chưa có một
lần gặp Nguyễn Tất Thành. Lê Duẫn Tống Giam ông từ năm 1967 đến 1975. Con ông,
Vũ Thư Hiên, Lê Duẫn xử 9 năm tù. Hung thần Trần Quốc Hoàn (tên thật Nguyễn
Trọng Cảnh ), Bộ Trưởng Công An 1952-1982, tay trái Hồ Chí Minh Hồ Tích Quang,
nhưng lại là gián điệp của Lê Duẫn, cũng không hề biết mặt Nguyễn Tất Thành.
Trịnh
Đình Cửu, người thân nhất của Lê Duẫn, biết Nguyễn Tất Thành, nhưng phải "câm mồm" sống qua
ngày. Lầm tưởng Nguyễn Tất Thành được chôn ở Nghĩa Trang Victoria, năm 1961,
nhận lệnh Lê Duẫn, Trịnh Đình Cửu âm thầm sang Hồng Kông bốc hài cốt Nguyễn Tất
Thành mang về VN. Chẳng may, trước đó 29 năm, không biết ai đã bốc hài cốt
Nguyễn Tất Thành đem đi đâu mất! Chúng tôi sẽ viết rõ chuyện này ở đoạn kết.
Bốn nhà
cách mạng bảo bọc, bao che, nâng đỡ Nguyễn Tất Thành, biết rành rẽ Nguyễn Tất
Thành, lần lượt kẻ trước người sau "qua đời": Phan Chu Trinh mất năm
1926, thọ 54 tuổi. Nguyễn An Ninh mất ở Côn Đảo năm 1943, thọ 44 tuổi. Phan Văn
Trường mất tại Hà Nội năm 1933, thọ 57 tuổi. Nguyễn Thế Truyền mất tại Sàigòn
năm 1969, thọ 71 tuổi. Năm 1966, cụ Nguyễn Thế Truyền trả lời cụ Hồ Hữu Tường
rằng: "Nguyễn Tất Thành rời nước Pháp năm 1920. Từ đó đến nay 46 năm, tôi
không có dịp gặp lại. So với Hồ Chí Minh hiện giờ, tôi nhìn không ra. Nguyễn
Tất Thành gầy yếu, dáng người thấp, nhỏ con, mắt lé 35 độ ".
Chuyện gì
đến nó phải đến. 5 giờ sáng ngày 8-2-1930, Toán cảnh sát chìm (Secret agent), "ập" vào bên
trong Miếu Hầu Vương, phố Cửu Long (Kowloon), Hồng Kông, bắt gọn Nguyễn Tất
Thành, Nguyễn Thị Minh Khai, và 5 cận vệ Thái Lan gốc việt. Cả bọn còn đang
ngáy ngủ. Không kháng cự. Không có vũ khí. Không có tài liệu chống chính quyền
Anh hoặc Pháp. Họ được cảnh sát áp tải về nhà tù Trung Ương Victoria. 5 cận vệ
cùng khai giống hệt một khẩu cung: "Chả biết hai ông bà này là ai. Họ thuê
chúng tôi làm cận vệ có trả lương. Hai ông bà này con nhà giàu ở Việt Nam, sang
Thái du lịch. Chỉ biết có vậy, khai như vậy. Đánh chết cũng chẳng biết gì để
khai thêm".
Nguyễn
Thị Minh Khai được đưa tới khu tạm giam ở Old Wan Chai Police Sation, số 123,
Gloucester Road, Hongkong. Năm 1930, Nhà
Tù Victoria chưa có khu giam tù nhân phái nữ. Các điều tra viên có hỏi
cung Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thị Minh Khai 10 ngày, 10 tháng hay 10 năm,
cũng chẳng thu thập được tin tức gì mà nhà chức trách cần biết. Tất Thành và
Minh Khai là những cán bộ Cộng Sản thuộc hàng "cao thủ", họ trả lời
rất bài bản, trước sau như một: "Vô tội, công dân lương thiện, không biết
chính trị, không biết Cộng Sản là cái giống gì".
Mật Thám
theo dõi cả chục năm, lệnh truy nã có đầy đủ trong "Sổ Bìa
Đen".
Tụi nó nói gì kệ tụi nó. Tin hay không tin là quyền của cảnh sát. Tạm giam
những nghi can này hai ba năm chờ dẫn độ về VN là quyền của quan tòa. Chuyện từ
từ tính sau. Toàn quyền Pháp chưa muốn “rước” Tất Thành và Minh Khai về VN
trong lúc này. Sợ lắm! Sợ các tổ Cộng Sản "đóng chốt" trong nước xúi
dân chúng "quậy banh nhà lồng chợ", ầm ầm kéo xuống đường biểu tình: "đòi
nhân quyền", "đòi dân chủ", "đòi độc lập" gi’!ng như
vụ "đòi trả tự do" cho cụ Phan Bội Châu năm 1925 thì "chết cha"
cái chức Toàn Quyền của René ROBIN.
Nhà Tù
Victoria, tọa lạc số 16, Old Bailey, Hongkong, xây dựng năm 1841. Nhà Tù có 3
tầng, mỗi tầng chia làm 2 dãy, mỗi dãy 24 phòng giam. Phòng giam chiều ngang
rộng 1m50, dài 2m. Trên đầu người có một ô cửa sổ nhỏ hình bán nguyệt. Lính
canh, 100% người Ấn Độ. Cai tù, người Anh Quốc. Nhà tù u ám, tối tăm, thiếu ánh
sáng.
Hàng
ngày, tù nhân được phép ra ngoài đi dạo quanh sân 30 phút. Mỗi ngày tù nhân
nhận hai phần ăn trưa và chiều. Khẩu phần gồm cơm, bánh mì, cá hấp, chiên,
nướng, rau cải nấu canh hoặc xào. Thứ Hai,
Thứ Bảy có thịt heo và thịt bò.
Nguyễn
Tất Thành mắc bệnh ho lao, được giam nơi lầu 1, phòng số 6. Đảng Cộng Pháp
trích ngân quỹ Đảng, mướn Luật Sư Francis Loseby…
(Message tronqué)
Afficher l'intégralité du message.
* TRẦN TRUNG QUÂN.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire