Bản đồ hải chiến Hoàng Sa 1974
* MƯU ĐỒ và THAM VỌNG của TRUNG CỘNG
Ðế quốc Trung Hoa từ ngàn xưa cho tới nay
(đế quốc Trung Cộng) vẫn chỉ là một: tham vọng bành trướng lãnh thổ (xâm lược)
hầu thống trị toàn thế giới. Đế quốc Trung Hoa đã liên tục theo đuổi giấc mộng
xâm lược từ mấy ngàn năm thì nay (19-1-1974) đã bị thế giới vạch trần bộ mặt
tham tàn khi trắng trợn xâm lăng lãnh thổ nước Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa.
Ðây không phải là lần đầu tiên đế quốc Trung Hoa xâm lăng lãnh thổ Việt Nam, mà
đế quốc này đã từng làm trong các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn,
và Tây Sơn.
Qua trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974,
chúng ta tự hỏi: Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa nhằm mục đích gì? Có 4 giả
thuyết: (1) bành trướng lãnh thổ; (2) có mỏ dầu tại Hoàng Sa; (3) thực hiện
giấc mộng “Nam tiến”; (4) kiểm soát đường chiến lược trên Nam Hải (thủy trình
quốc tế). Gom cả 4 giả thuyết này lại làm một thì mới giải thích trọn vẹn tham
vọng bành trướng và xâm lăng của Trung Cộng.
* Hoàng Sa và Chủ quyền Việt Nam
1. Vị trí và địa thế - Quần đảo Hoàng Sa (Paracels hay Paracel
Islands) còn được Trung Cộng gọï là Tây Sa. Hoàng Sa (黄沙) là bãi cát vàng, do Vua Gia Long đặt. Hoàng
Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 270 hải lý.
Quần
đảo Hoàng Sa (theo cách gọi của Việt Nam)
hay quần đảo Tây Sa (giản thể: 西沙群岛; phồn thể: 西沙群島; Hán-Việt: Tây
Sa quần đảo; bính âm: Xīshā
qúndǎo, theo cách gọi của Trung Cộng và Đài Loan, còn
được biết đến thông qua tên gọi quốc tế phổ biến bằng tiếng Anh là Paracel
Islands) là một nhóm khoảng 30 đảo, rạn san
hô, cồn cát và bãi đá
ngầm ở biển Đông, là
đối tượng tranh
chấp chủ quyền giữa Trung Cộng, Đài Loan và Việt
Nam. Hiện nay, Trung Cộng là quốc gia đang duy trì sự kiểm soát cũng như quyền
tài phán trên thực tế đối với toàn bộ quần đảo này.
Quần
đảo Hoàng Sa nằm cách miền
Trung Việt Nam khoảng một phần ba khoảng
cách đến những đảo phía bắc của Philippines; cách
đảo Lý Sơn của
Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của
Trung Cộng khoảng 230 hải lý.
Theo
tài liệu của Hải Quân VNCH, Hoàng Sa là một dãy đảo nhỏ, gồm khoảng 130 đảo,
nằm giữa kinh tuyến 111º - 113º Ð và vĩ tuyến 15º45 - 17۫º05 B, cách Ðà Nẵng khoảng 170-200
hải lý (300-360 cây số về hướng ÐÐB), cách Sàigòn và Hải Phòng khoảng 400-500
hải lý (720-900 cây số). Diện tích chung quanh quần đảo Hoàng Sa độ 10-11 cây
số vuông. Mùa mưa từ tháng 6 tới tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 27 độ
C. Hoàng Sa là một vị trí chiến lược, kiểm soát mọi sự lưu thông trong vùng
biển Nam Hải. Ðài khí tượng của VNCH đặt tại đảo Hoàng Sa (Pattle). Việc trấn
giữ đảo gồm 2 đại đội TQLC và lực lượng ÐPQ.
Quần
đảo Hoàng Sa gồm có 2 nhóm; khoảng cách giữa hai nhóm này khoảng 40 hải lý (75
cây số):
a. Nhóm Nguyệt Thiềm (Group
Croissant) - Nằm ở phía Tây của quần đảo Hoàng Sa và gồm những đảo chính: Ðảo
Hoàng Sa (Pattle), Ðảo Cam Tuyền (Robert), Ðảo Vĩnh Lạc (Money), Ðảo Quang Hòa
(Duncan), Ðảo Duy Mộng (Drumond), Ðảo Tri Tôn (Triton), Ðảo Bạch Gui (Passu
Keath), và Cồn quan sát (Banc des observations).
b. Nhóm Tuyên Ðức (Group
Amphitrite) - Gồm các đảo quan trọng: Ðảo Tây (Banc Ouest), Ðảo Trung (I.
Milieu), Ðảo Cù Mộc (I. à Larbre), Ðảo Bắc (I. Nord), Ðảo Nam (I. Sud), Ðảo Hòn
Ðá (I. Rocheuse), Ðảo Phú Lâm (I. Boisée), và Ðảo Linh Côn (I. Lincoln).
2. Nguồn
Lợi Hoàng Sa – Quần đảo Hoàng Sa có 2 nguồn lợi lớn là
hải sản và khoáng sản.
a. Hải sản - Ðủ loại: cá hồng,
cá nục, cá đuối, cá mập, ốc tai tượng, trạch biển, rong biển, hải âu…
b. Khoáng sản - Khoáng sản của
quần đảo Hoàng Sa là "phốt phát" (phosphate). Số lượng phốt phát do
các đảo cung cấp: Hoàng sa: từ 562 đến 960 ngàn tấn, Vĩnh Lạc: từ 787 đến 1
triệu 200 ngàn tấn, Cam Tuyền: từ 675 ngàn tấn đến 1 triệu 400 ngàn tấn, Duy
Mộng: từ 675 ngàn tấn trở lên (theo tài liệu của Tổng Nha Khoáng Chất và Công
Kỹ Nghệ VNCH năm 1973).
3. Hoàng
Sa gắn liền với lịch sử Việt Nam
Theo
"Phủ Biên Tạp Lục" của Lê Quý Ðôn (viết vào khoảng 1775-1776) thì
tiền nhân ta đã mở mang kinh tế ở Hoàng Sa. Ông viết: "Năm 1638,
Hiền Vương Nguyễn Phúc Tấn đã tuyển ngư phủ hải đảo Lý Sơn (tức cù lao Ré,
Quảng Ngãi) để thành lập đội Hoàng Sa".
Từ thời
Chiêm Thành chưa sát nhập nước ta, người Chiêm Thành đã nhiều lần đi lấy hải
sản ở Hoàng Sa.
Ðời Vua
Gia Long, Ngài đã đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1802. Trong thời gian này,
Việt Nam đã thành lập công ty Hoàng Sa, gồm khoảng 70 thủy thủ, đi Hoàng Sa để
tìm hải vật.
Ðến đời
Vua Minh Mạng (1820-1848), Ngài đặc biệt chú ý đến Hoàng Sa. Trong cuốn
"Hoàng Việt Ðịa Dư" (ấn hành năm 1835) đã chứng minh chủ quyền Việt
Nam ở Hoàng Sa như sau: "Ở phía Ðông Bắc xã An Ninh, Huyện Bình
Sơn và ở ngoài biển khơi có một quần đảo gồm có 130 đảo nhỏ. Những hòn đảo này
cách nhau bằng một ngày thuyền hoặc vài giờ thuyền. Dưới ven đảo đều có giếng
nước ngọt. Ở giữa những mỏm đá người ta thấy có một bãi cát vàng bao la nên đảo
này mang tên là Hoàng Sa. Nơi đây có sóng biển dữ dội." Vua Minh
Mạng đã sai đội hải thuyền chở gạch đá ra Hoàng Sa dựng chùa "Phật Cổ
Tự" và dựng tấm bia "Vạn Lý Ba Ðình" (nghĩa là sóng êm nơi xa
vạn lý) làm dấu tích. Theo "Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu" thì Vua
Minh Mạng đã thân chinh đến quần đảo Hoàng Sa năm 1836 để quan sát việc đo đạc,
xác định vị trí và lập họa đồ.
Từ năm
1920, các tàu tuần tiểu của Nha Thương Chánh Ðông Dương luôn luôn tới lui quần
đảo Hoàng Sa để kiểm soát bọn buôn lậu vũ khí và á phiện.
Năm
1925, Hải Học Viện Ðông Dương đã cử một phái đoàn thám hiểm khoa học đến quần
đảo Hoàng Sa để nghiên cứu khoáng sản tại đó.
Ngày 3-3-1925 , ông
Thân Trọng Huề, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh của triều đình Huế, đã xác nhận chủ
quyền Việt Nam ở quần
đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, có đoạn như sau: "Quần đảo Hoàng
Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó
là vấn đề không thể chối cãi được…"
Năm 1926,
nhà địa chất học quốc tế, Tiến sĩ Khoa học A. Krempf, Giám đốc Hải Học Viện
Ðông Dương đã tới quần đảo Hoàng Sa để quan sát và đo đạc, năm sau (tức 1927)
ông phúc trình lên chính quyền bảo hộ (Pháp) về tài nguyên thiên nhiên tại quần
đảo Hoàng Sa. Ông kết luận: "Về mặt địa chất, quần đảo Hoàng Sa là
thành phần của Việt Nam"
(Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam ).
Năm
1931, Pháp gửi binh sĩ đến trú đóng tại Hoàng Sa.
Năm
1932, Pháp thiết lập một ngọn hải đăng tại đảo Hoàng Sa.
Trong
thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam đã có những cơ sở hành chánh tại quần đảo Hoàng
Sa: Nghị Ðịnh số 156-SC do Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương ký và ban hành ngày
15-6-1932 nhằm thiết lập đại lý tại đảo Hoàng Sa và đặt trực thuộc tỉnh Thừa
Thiên. Sau đó, Hoàng Ðế Bảo Ðại đã ban hành Dụ số 10 ngày 30-3-1938 .
Theo
Giám Mục Tabert trong quyển "Ðịa dư lịch sử cảnh trí và tôn giáo phong tục
tập quán các dân tộc" (xuất bản năm 1938) thì "… từ trên 34
năm rồi nhóm quần đảo Tây Sa mà người An-Nam thường gọi là đảo Cát Vàng hay
Hoàng Sa thực là hòn đảo nhỏ bí hiểm, gồm những mỏm đá xen lẫn với các bãi cát mà
những nhà hàng hải đều kinh hãi, đã do người Nam Kỳ chiếm cứ." Một
đoạn khác, tác giả viết: "… nhưng có điều chắc chắn là Hoàng Ðế
Gia Long đã đặt đảo đó dưới quyền của nhà Vua, và năm 1816, Hoàng Ðế đã long
trọng trương lá cờ Nam Kỳ ở trên đảo."
Ngày 5-5-1939,
Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương đã thiết lập 2 đơn vị hành chánh tại quần đảo
Hoàng Sa là đơn vị Croissant (Délégation du Croissant et dépendances) tại nhóm
Nguyệt Thiềm và đơn vị Amphitrite (Délégation de l'Amphitrite et dépendances)
tại nhóm Tuyên Ðức.
Năm
1947, Pháp thiết lập đài vô tuyến tại đảo Hoàng Sa để bảo đảm an ninh thủy vận
cho vùng Nam Hải.
Tháng 9
năm 1951, tại hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), trưởng phái đoàn Việt Nam đã
tuyên bố trước 51 phái đoàn các quốc gia tham dự hội nghị, đại ý như sau: "Ðể
cắt đứt mọi mầm mống xích mích, chúng tôi xác nhận chủ quyền Việt Nam trên quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà bất cứ ở thời đại nào cũng vẫn thuộc lãnh thổ quốc
gia Việt Nam".
Kể từ
năm 1956, Hải Quân VNCH đã thường xuyên tổ chức các cuộc thám sát và thăm viếng
quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm của Hải Quân VNCH đã thường xuyên chở các toán
TQLC và ÐPQ ra trấn giữ quần đảo Hoàng Sa và liên tục tiếp tế thực phẩm, quân
dụng, thuốc men cho các toán này.
Ngày
13-7-1961, Tổng Thống VNCH đã ban hành Sắc Lệnh số 174-NV đặt quần đảo Hoàng Sa
thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập xã Ðịnh Hải, thuộc quận Hòa Vang, tại đảo
này.
Ngày
21-10-1969, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH đã ban hành Nghị Ðịnh số 709-BNV-HC sát
nhập xã Ðịnh Hải vào xã Hòa Long, thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
* Trung
Cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại
Hoàng Sa
Năm
1956, Trung Cộng đã xâm chiếm hai hải đảo phía Bắc của quần đảo Hoàng Sa, đó là
đảo Phú Lâm (Boisée) và đảo Linh Côn (Lincoln), mà không gặp một trở ngại nào. Trước
tiên, chúng cho dân chài đến đánh cá vùng Hoàng Sa, rồi ghé lại các đảo này để
nghỉ ngơi. Thấy không có phản ứng của Việt Nam , chúng
đưa quân đội đến chiếm đóng và thiết lập các cơ sở và công sự phòng thủ. Riêng
tại đảo Phú Lâm, chúng đặt cơ sở thiên văn, đài truyền tin, và hệ thống điện
lực. Mục đích chính của chúng là khai thác phốt phát.
Ngày
4-9-1958, Trung Cộng ra bản tuyên bố về hải phận của Trung Cộng, trong đó bao
gồm hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands), tiếng Tàu gọi là Xisha (Tây Sa) và
Trường Sa (Spratly Islands), tiếng Tàu gọi là Nansha (Nam Sa).
Năm
1959, Trung Cộng âm mưu chiếm nốt các đảo ở phía nam quần đảo Hoàng Sa, tức
nhóm Nguyệt Thiềm, bằng cách áp dụng lại các kế hoạch năm 1956. Nhưng Hải Quân
VNCH đã kịp thời ngăn chặn âm mưu này và đã bắt giữ một số ngư phủ của Trung
Cộng xâm nhập bất hợp pháp hai đảo Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drumond).
Ngày
11-01-1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, ngang nhiên cho người và tàu bè xâm nhập
vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hòa (Duncan), và
Duy Mộng (Drumond) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bọn người này đã dựng chòi và kéo
cờ của Trung Cộng. Tức nước thì vỡ bờ, ngày 19-01-1974 VNCH đã ra lệnh hải
chiến với tàu Trung Cộng, gọi là trận hải chiến Hoàng Sa.
* Chứng
liệu bán nước của CSBV
Ngày
15-6-1956, Ngoại Trưởng của CS Bắc Việt là Ung Văn Khiêm đã tuyên bố: "Hà
Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc
gọi là Tây Sa và Nam Sa".
Ngày
14-9-1958, Phạm Văn Ðồng, Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
(tức Bắc Việt) đã ký văn thư gửi Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện (tức
Thủ-tướng) của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa (tức Trung Cộng), tán thành bản
tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng quyết định về hải phận của Trung Quốc
(trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam); đồng thời cam kết tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung Cộng.
Diễn
Tiến Trận Hải Chiến HOÀNG SA
HQ 10 VNCH
Diễn Tiến Trận Thư Hùng Hải Chiến Lịch
Sử
Ngày 19-01-1974, báo chí, hệ thống truyền thanh và truyền
hình VNCH đồng loạt tường thuật về trận hải chiến lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa
giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng. Trận thử lửa đầy gian nguy này nhằm
chống lại đế quốc Trung Cộng xâm lăng phần lãnh thổ thân yêu của Việt Nam,
nhưng chỉ có các chiến sĩ Hải Quân VNCH hào hùng bất khuất lâm trận; trong khi
đó, ngụy quyền Hà Nội và Hải Quân Bắc Việt đều lặng im thin thít một cách hèn
nhát.
Ngày 17-01-1974, 15 chiến sĩ Hải Quân VNCH thuộc Tuần
Dương Hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16) cùng các toán Người Nhái và Biệt Hải đã đổ bộ
lên quần đảo Hoàng Sa vì được tin một số quân Trung Cộng lén đóng trên đó. Các
chiến sĩ Hải Quân VNCH cắm hết cờ trên đảo và chờ lệnh. Lúc đó, phản lực cơ của
Trung Cộng gầm thét trên trời cao, và tàu của Trung Cộng xuất hiện ở ngoài biển
khơi.
4
tàu HQ/VNCH
Ngày 19-01-1974, trận thư hùng hải chiến bắt đầu. Khoảng
10 giờ sáng, các chiến hạm của Trung Cộng bắt đầu vây các chiếm hạm của Hải
Quân VNCH. Cùng lúc đó, tàu Trung Cộng đổ hàng chục Ðại Ðội lên đảo và giao tranh
với quân trú đóng phòng thủ của ta. Ðến khoảng 10 giờ 25 phút, tàu Hải Quân ta
được lệnh nã hải pháo vào tàu của Trung Cộng. Chỉ trong vòng 5 phút đầu, Hộ
tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10) đã bắn trúng hầm máy của chiến hạm Trung Cộng mang số
396 nên tàu bừng bừng bốc cháy. Tiếp theo đó, hàng loạt đạn hải pháo khác của
HQ.16, HQ.4 và HQ.5 đã bắn trúng tàu địch mang số 271, đài radar bị gãy, mất
tay lái, quay vòng vòng rồi lủi vào bãi san hô để tự hủy. Các thủy thủ của tàu
này phải nhảy xuống biển để đào thoát. Thêm một chiến hạm thứ hai mang số 274
bị trúng đạn phát hỏa dữ dội. Rồi chiến hạm thứ tư (số 389) của địch cũng bị
chung số phận.
Trục
Lôi Hạm T936 TC
2
Hộ Tống Hạm 271&274 TC
Bị thất bại nặng nề trong màn đầu hải
chiến nên quân Trung Cộng lồng lộn lên, lập tức tăng cường thêm nhiều chiến hạm
khác để gỡ gạc. Hai chiến hạm địch mang số 281 và 282 dồn hết hỏa lực vào HQ.10
để trả thù. Chẳng may, HQ.10 bị trúng đạn nơi phòng máy chánh nên tàu bị
nghiêng sang hữu hạm. Hạm phó (HQ Ðại Úy Nguyễn Thành Trí) bị thương nặng, một
số chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng Hạm Trưởng (HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà) và thủy thủ
đoàn còn lại không hề nao núng. Vừa tự cứu thương, cứu hỏa, vừa dồn hỏa lực
chống trả 2 chiến hạm địch (281, 282). Gần tới màn kết thúc, một trái phá của
địch bắn trúng đài chỉ huy HQ.10. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và HSI CK Ðinh Hoàng
Mai bị thương nặng, chiến hạm bị liệt máy và nghiêng tới mức nguy hiểm nên Hạm
Trưởng Thà ra lệnh cho nhân viên đào thoát trên 4 chiếc bè cứu cấp. Hạm Phó Trí
xin ở lại nhưng không được Hạm Trưởng Thà chấp thuận vì Hạm Phó phải đi với
nhân viên. Chỉ có HSI Mai được ở lại vì HSI Mai tha thiết muốn được noi gương
Hạm Trưởng chết theo chiến hạm Nhựt Tảo. Vì Hạm Phó Trí bị thương khá nặng nên
ông đã kiệt sức trên bè, đành phải thủy táng. Hai mươi hai thủy thủ còn lại đã
được thương thuyền Hòa Lan Skopionella cứu vớt 4 ngày sau đó.
6
Chiến Sĩ HQ/VNCH Hy Sinh
Trận
hải chiến kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Ngoài một chiến hạm địch đã chìm sâu
trong lòng biển lạnh, còn ba chiếc khác đang ngùn ngụt bốc cháy phải ủi bãi và
bị phá hủy sau đó.
Thành
Phần Tham Chiến
Về phía
VNCH: Lực lượng tàu chiến Hải Quân tham chiến gồm có: Khu trục hạm Trần
Khánh Dư (HQ.4), Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16), Tuần dương hạm Trần
Bình Trọng (HQ.5), và Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10). Hỏa lực của ta gồm có: đại
bác 20 ly, 40 ly, 57 ly, 76 ly và 127 ly.
Về phía
TC: Lực lượng tàu chiến gồm có: Ngoài bốn chiếc tàu ngụy trang tàu đánh cá
có trang bị vũ khí và một tàu đổ quân, còn có các chiến hạm trang bị hỏa lực
hùng hậu, có hỏa tiễn và đại bác từ 100 ly đến 130 ly. Sáu chiến hạm sơn màu
cứt ngựa mang số 271, 274, 281, 282, 389, 396.
(Ghi
Chú: Sau này tác giả mới được biết 271, 274, 281 và 282 là Hộ tống hạm
Kronstadt; 389 và 396 là Trục lôi hạm; còn 4 tàu ngụy trang tàu đánh cá là Phi
tiễn đỉnh (Komar 133, 137, 139, 145).
TỔNG
KẾT TỔN THẤT ĐÔI BÊN
Hải
Quân Trung Cộng
a) Tổn
thất chiến cụ: Kronstadt 274 bị chìm với toàn bộ sĩ quan tham
mưu; Kronstadt 271 bị hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó bị phá hủy, hạm trưởng tử
thương; Trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng phải ủi bãi và sau đó bị phá
hủy; 4 ngư thuyền (tức Phi tiễn đỉnh Komar 133, 137, 139, 145) chỡ quân bị
chìm, không rõ thiệt hại về nhân mạng.
b) Tổn thất nhân mạng: 24 sĩ quan tử thương (1 Ðô Ðốc + 7
Ðại Tá + 7 Trung Tá + 2 Thiếu Tá + 7 cấp Úy) và hơn 100 HSQ và Ðoàn viên tử
thương. Ðó là chưa kể số SQ, HSQ, ÐV bị thương nặng nhẹ.
Hải Quân VNCH:
a) Tổn thất chiến cụ: HQ.10 bị chìm. HQ.4, HQ.5 và HQ.16
bị hư hại nhẹ.
b) Tổn thất nhân mạng: 32 SQ, HSQ và Ðoàn viên tử thương
(trong đó có Th/Tá Thà và Ð/Úy Trí, Hạm Trưởng và Hạm Phó HQ.10) + 26 mất tích.
(Theo tài liệu hiện giờ có 74 Anh Hùng
Tử Sĩ Hải Quân VNCH).
Ghi
chú: Hạm Trưởng Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ.4): HQ Trung Tá Vũ Hữu
San; Hạm Trưởng Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ.16): HQ Trung Tá Lê Văn Thư;
Hạm Trưởng Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ.5): HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh;
Hạm Trưởng Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ.10): HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (sau trận hải
chiến ông được vinh thăng Cố Trung Tá; HQ Ðại Úy Nguyễn Thành Trí (Hạm Phó)
được vinh thăng Cố Thiếu Tá).
(Đức Phố, 19-01-2000)
* Vĩnh Liêm.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire