Thưa
Quý Bạn, cứ kể những chuyện vợ chồng chán ghét nhau, ly dị nhau hoặc ghen tuông,
đánh đập nhau riết cũng chán và hiện nay là vấn đề đại dịch Vũ Hán, chắc chắn
báo chí các nước bên ấy đăng ầm ầm,
quý bạn đã biết cả rồi. Vậy nay tôi xin
“đổi món ăn chơi”, kể hầu quý bạn một câu chuyện hơi
lạ về người vợ của nhà
thơThế Lữ. Bà này “lạ” ở chỗ chồng bồ bịch, có vợ nhỏ ngay trước mắt mà bà vẫn
cố gắng chịu đựng, không ghen tuông một tí nào cả chỉ với một niềm tin duy nhất
rằng chồng là người Công giáo, theo giáo lý Công giáo đàn ông chỉ có một vợ,
đàn bà chỉ có một chồng, do đó cuối cùng rồi chồng sẽ trở lại với mình. Vì vậy
bà vẫn yên tâm buôn bán kiếm ăn, chăm sóc bà mẹ chồng khó tính coi như mẹ ruột
của mình, và nuôi dạy con cái, 2 người con trai ăn học tới Tiến sĩ ở bên Mỹ,
còn người con gái thì trở thành một nhà doanh nghiệp. Đặc biệt, từ cuối năm
1977, “chàng lãng tử” Thế Lữ nay đã 70 tuổi, vào trong Nam sống với vợ con suốt
12 năm tại tiệm vải ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ, quận 3, gần
toà đại sứ Miên hiện nay là văn phòng UBND Quận 3) cho tới khi ông qua đời cũng
tại Sài Gòn mà hình như đa số chúng ta không biết.. Đây là câu chuyện về người
đàn bà đó nhưng xin mời quý bạn xem xét về nhà thơ Thế Lữ, chồng của bà trước
đã.
I . Tiểu sử Thế Lữ
Nhà thơ Thế Lữ tên thật là
Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, mất năm 1989 tại Sài Gòn,
hưởng thọ 82 tuổi. Sau 1975, ông từ Hà Nội vào Sài Gòn (cuối năm 1977) sống với
vợ con gần 12 năm ở đường Phan Đình Phùng (cũ), quận 3, Sài Gòn, cho đến khi
mất . Quê quán của cha ông ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là làng Phù
Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định, nhưng sinh ra ông tại ấp Thái
Hà, HàNội. Ấp Thái Hà nằm trên phần đất của 4 làng: Thịnh Quang, Nam Đồng,
Khương Thượng và Yên Lãng (làng Láng), nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Gọi là
“Ấp” vì đây là phần thưởng của Pháp dành cho Hoàng Cao Khải (Kinh lược sứ Bắc
Kỳ, kẻ đã đàn áp phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi) như một “thực ấp” của các
“đại thần” có công lao lớn thời trước. Mặc dầu Hoàng Cao Khải đã có dinh cơ tại
phố Tràng Thi, Hà Nội, nhưng vẫn muốn lập cơ ngơi tại đây để sống khi về già.
Ấp được Hoàng Cao Khải lập năm 1893, mang tên “Thái Hà” gồm tên làng Đông Thái
và tên tỉnh Hà Tĩnh là quê quán của Hoàng Cao Khải.. Những người sống ở ấp Thái
Hà hàng năm đóng thuế thổ trạch cho Hoàng Cao Khải chứ không phải cho Sở Điền
Địa của Pháp.
Thế Lữ hồi còn nhỏ có một
người anh lớn hơn cậu 1 tuổi (và một em gái), vì vậy cậu được cha đặt tên là
Nguyễn Thứ Lễ với ngụ ý đó là con thứ. Đến năm Thế Lữ 10 tuổi, chẳng may cậu
anh trai (11 tuổi) bị bệnh mất, cha bèn làm giấy khai sinh khác, đặt tên mới
cho Thế Lữ là Nguyễn Đình Lễ vì họ Nguyễn Đình là một họ lớn ở làng Phù Đổng,
không nên để người con trai duy nhất còn lại trong gia đình là “con thứ”. Do
đó, Thế Lữ có 2 giấy khai sinh: Nguyễn Thứ Lễ và Nguyễn Đình Lễ. (Thời Pháp
thuộc, khai sinh tại làng rất dễ, chỉ cần nói với “ông ký” giữ sổ sách làng vài
tiếng là được, hơn nữa cha của Thế Lữ lại là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng
Sơn – Hà Nội, gia đình khá giả, thỉnh thoảng ghé về quê chơi, ai cũng vị nể.
Như vậy, tài liệu nào nói Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ hay Nguyễn Đình Lễ
đều đúng. Sau này, tất cả các con của Thế Lữ đều mang họ Nguyễn Đình, như nhà
đạo diễn sân khấu danh tiếng Nguyễn Đình Nghi tại Hà Nội chẳng hạn.
Tuy nhiên, xem ra Thế Lữ
thích cái tên Nguyễn Thứ Lễ hơn tên Nguyễn Đình Lễ. Bởi vậy khi viết văn, làm
thơ, hoạt động kịch nghệ, ông đều lấy bút hiệu là “Thế Lữ”, tức nói lái từ hai
tiếng “Thứ Lễ”. Ngoài ra, khi viết văn vui trên báo Phong Hoá và sau đó là báo
Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương
mà ông là một trong 6 thành viên cốt cán, Thế Lữ còn ký tên là “Lê Ta” với ý
nghĩa: Chữ “ta”trong tiếng Việt, theo Hán tự là “ngã”; mà “ngã” theo tiếng Việt
lại còn có nghĩa là dấu ngã. Bút danh “Lê Ta” tức chữ “Lê” có dấu ngã”, đó là
chữ “Lễ”, tên thật của ông. Trên báo Ngày Nay số Xuân năm 1937, Thế Lữ đùa
nghịch đưa ra câu nói vui: “Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ: một quả lê tây, một lê
ta”, độc giả ai cũng tức cười và phục tài biến báo của ông.
Như trên đã nói, cha của
Thế Lữ là sếp ga xe lửa, trong thời Pháp thuộc rất có vai vế và có “ngoại tài”
(tiền bạc ngoài lương bổng) nên gia đình rất khá giả. Tuy nhiên, mẹ của Thế Lữ
buôn bán nhỏ, không giàu có gì nên gia đình bên nội không bằng lòng, song bà
nội phải chiều ý con trai, tổ chức cho hai người một đám cưới nho nhỏ tại Hải
Phòng, nơi cô dâu buôn bán ở đây. Tuy nhiên, ít lâu sau, bà nội lại cưới cho
cha của Thế Lữ một cô gái con nhà giàu ở Lạng Sơn và cho cô này làm vợ cả, còn
mẹ của Thế Lữ thì làm vợ lẽ. Kệ, muốn sao cũng được, chuyện này rất thường xảy
ra đối với các gia đình giàu có ở ngoài Bắc thời xưa khi người được cưới trước
không phải làcon nhà khá giả. Hơn nữa mẹ của Thế Lữ buôn bán ở Hải Phòng nuôi
hai con trai (lúc này bà chưa sinh cô con gái út) , ít còn thì giờ về Lạng Sơn
thăm gia đình nhà chồng nên không quá để ý đến chuyện mình là người được cưới
hỏi trước mà phải làm vợ lẽ.
Khi Thế Lữ được 3 tháng
tuổi, bà nội lại ra một lệnh khá đặc biệt: “Đứa cháu lớn (anh của thế Lữ) hay
ốm đau thì cho ở Hải Phòng với mẹ cũng được; còn đứa nhỏ (tứcThế Lữ) mạnh khoẻ,
bụ bẫm thì phải đem nó về Lạng Sơn sống với bà nội, cha và “mợ cả” (vợ mới của
cha)”.
Phải rời xa mẹ ruột từ lúc
còn bế ẵm, lớn lên, mỗi năm chỉ được gặp mẹ một đôi lần, Thế Lữ cho biết cậu
rất nhớ mẹ. Mãi đến năm cậu bé 10 tuổi, bà nội mất, rồi cậu anh ruột (11 tuổi)
cũng mất, Thế Lữ mới được đưa về Hải Phòng sông với mẹ ruột tại cửa hàng vải.
Tuy nhiên, Thế Lữ cũng nói rằng chính do sống ở xứ Lạng từ nhỏ cho tới năm 10
tuổi, cảnh vật thiên nhiên cũng như các câu chuyện “đường rừng”, ma quái, kinh
dị, có thể là những chuyện tưởng tượng của đồng bào thiểu số mà cậu được nghe kể
lại đã ăn sâu vào tâm trí cậu, khiến cậu có nguồn tư liệu dồi dào khi viết
những cuốn truyện“đường rừng” rất được độc giả ửng hộ. Năm ấy Thế Lữ 23 tuổi và
đã là một nhà văn, nhà thơ cốt cán trong Tự Lực Văn Đoàn.
Cuộc đời
Thế Lữ học chữ Nho do bà
nội bắt phải học khi lên 8 tuổi ở Lạng Sơn; học chữ quốc ngữ lúc hơn 10 tuổi
sau khi được trở về Hải Phòng ở với mẹ ruột. Tại Hải Phòng, cậu học tư với cha
của Vũ Đình Quý – đứa bạn thân đầu tiên của cậu tại đất Cảng. Ít lâu sau, mẹ
xin cho cậu vào lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École communale Française et
Vietnammiene ) mới mở ở Ngõ Nghè. Năm 1923, 16 tuổi, cậu thi đậu bằng Sơ Học
Yếu Lược (Certificat d’études en Langue Française, thường gọi là bằng “Xéc”,
tương đương với bằng Tiểu học sau này) dành cho các học sinh từ 12 tới 16 tuổi.
Đậu xong bằng “Xéc”, cậu ốm một trận rất nặng tưởng chết, phải nghỉ học mất một
năm. Năm sau, khỏi bệnh,17 tuổi, cậu được mẹ hỏi cưới cô Nguyễn Thị Khương, gốc
ở Nam Định, cũng buôn bán hàng vải tại Hải Phòng, lớn hơn cậu 2 tuổi. Mẹ thấy
cô Khương xinh xắn, nhanh nhẹn, cũng buôn bán vải, nhất là cũng theo Thiên chúa
giáo như gia đình mình nên hỏi cưới cho con trai vậy thôi chứ sự thực giữa Thế
Lữ với cô Khương không quen biết gì cả. Điều này không quan trọng trong thời
đại của Thế Lữ. Nhiều cô dâu chú rể mãi đên lúc cưới mới biết mặt nhau, nhưng
sau khi thành vợ thành chồng, họ rất yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau trọn
đời.
Năm 1925, Thế Lữ 18 tuổi,
học Cao đẳng Tiểu học (tức Trung học ngày nay), gọi là bậc Thành Chung, 4 năm, sau
đó sẽ thi lấy bằng Thành Chung thường gọi là bằng Diplôme. Nếu đậu, đã có thể
xin đi làm, nhưng chỉ học được 3 năm thì Thế Lữ bỏ. Năm sau, cậu lên Hà Nội,
với chứng chỉ đã học hết năm thứ ba ban Thành chung, cậu thi đậu vào trường Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng cũng chỉ học được một năm rồi lại bỏ do bất mãn
với một giáo sư Pháp và ban giám đốc nhà trường. Trong thời gian ở trường Cao
đẳng Mỹ thuật, Thế Lữ chơi thân với các bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc;
ngoài ra ông cũng chơi thân với các nhà văn, nhà thơ như Vũ Đình Liên, Ngô Bích
San, Hoàng Lập Ngôn…, và cùng nhau lập một Hội quán Văn học (Salon littéraire),
chuyên thảo luận về văn chương.
Làm nghề viết văn
Thời gian này, Thế Lữ bắt
đầu viết văn với những truyện ghi lại từ những gì mình đã được nghe kể khi ở
Lạng Sơn. Được nhà thơ Vũ Đình Liên (tác giả bài thơ Ông Đồ) khuyến khích, Thế
Lữ gửi các tác phẩm đầu tay của mình cho Nhà xuất bản Tân Dân,nhưng ngoài bút
hiệu Thế Lữ ông còn ký thêm bút hiệu tưởng tượng là “Đào Thị Tố” để thu hút sự
chú ý của nhà xuất bản. Hai cuốn “Một truyện báo thù ghê gớm” và “Tiếng hú hồn
của mụ Ké” rất được ông Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân khen ngợi và cho
in ra. Điều này càng khích lệ Thế Lữ từ bỏ con đường hội họa để bước hẳn sang
địa hạt văn chương. Bút danh “Thế Lữ” của ông ngoài chuyện nói lái từ hai tiếng
“Thứ Lễ” thì theo ông, còn có nghĩa là “người lữ khách lang thang trong trần
thế”, rất phù hợp với quan niệm sống của ông.
Hoạt động văn học
và Tự Lực văn đoàn
Sống tại Hà Nội, Thế Lữ
làm người sửa bản in (correcteur, thường gọi là “thầy cò”) cho báo Volonté
Indochinoise (tức báo “Ý Nguyện Của Đông Dương”) và thường đi làm qua Vườn bách
thú Hà Nội, do đó ông làm bài thơ "Nhớ Rừng" nổi tiếng, nói lên tâm
sự của mình:
“Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm…
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự….” ..vv..
Sau khi nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mua lại tờ Phong hóa của Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân và ra bộ mới vào tháng 9 năm 1932, Thế Lữ có gửi bài. Bài thơ đầu tiên của Thế Lữ đăng trên bao Phong hóa bộ mới là “Con người vơ vẩn”, số Tết năm 1933. Sau đó, khi đến tòa soạn báo Phong hóa lần đầu tiên để lãnh nhuận bút, ông đọc những bài thơ mình đã sáng tác cho mọi người nghe và được nhà văn Khái Hưng khen ngợi là “Lamartine của Việt Nam”. Bên cạnh đó, nhà văn Nhất Linh cũng đặc biệt chú ý đến những truyện dài “Một đêm trăng”, “Vàng và máu” và cho rằng Thế Lữ là một cây bút mới có nhiều triển vọng, “Phải mời bằng được vào cộng tác với báo Phong Hoá, chắc chắn điều đó cũngkhông khó”. Chẳng bao lâu sau, Thế Lữ được mời làm việc cho báo Phong hóa, đồng thời Nhất Linh cũng có bài viết đề cao Thế Lữ cũng như thơ văn của ông. Đoạn trên đây cho chúng ta thấy Nhất Linh và Khái Hưng là những người tôn trọng tài năng như thế nào.
Tháng 3 năm 1934,
Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên: Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Tự Lực Văn Đoàn chủ trương lên án tư
tưởng phong kiến, đả kích các thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội bằng cách
châm biếm, hài hước, đồng thời đổi mới quan niệm sáng tác, xây dựng một nền văn
chương và ngôn ngữ mới hoàn toàn Việt Nam. Thế Lữ rất tán đồng quan điểm này.
Trong suốt 10 năm hoạt động văn học, ông gắn bó chặt chẽ với Tự Lực Văn Đoàn và
nói: “Anh em đối xử với nhau như bát nước đầy. Nếu không có Tự Lực Văn Đoàn thì
đã không có Thế Lữ”.
Tháng 9 năm 1936, báo
Phong hóa bị đóng cửa do động chạm tới Kinh lược xứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải và
Tổng đốc Hà Nội Lê Hoan. Nhất Linh bèn ra tờ Ngày Nay, tôn chỉ cũng giống như
tờ Phong hoá. Thế Lữ với bút hiệu Lê Ta giữ các tiết mục: “Điểm báo”, “Điểm sách”,
“Tin thơ”, “Tin văn vắn”, “Tin tức…mình” … Ngoài ra, ông cũng viết các bài bình
luận ký tên Thế Lữ, phân tích về các vấn đề văn học nghệ thuật và làm giám khảo
cho tất cả 3 cuộc thi của Tự Lực Văn Đoàn trong các năm 1935, 1937, 1939,góp
phần khẳng định tài năng của các tác giả trúng giải. Ông là một “kiện tướng”
hết sức xông xáo của Tự Lực Văn Đoàn.
Tài năng đa dạng: Thơ,
Nhạc, và Kịch
Ngoài sự nghiệp văn
chương, nhà thơ Thế Lữ còn là một nhân vật lừng lẫy danh tiếng trong đời sống
kịch nghệ. Không chỉ góp phần hình thành Thơ mới, ông còn đặt nền móng cho nền
sân khấu Việt Nam hiện đại. (Thời trước, kịch là kịch thơ, kể từ Thế Lữ trở đi
mới có thoại kịch, tức bây giờ gọi là kịch nói, như các ban kịch nói Kim Cương,
Thẩm Thuý Hằng, Vũ Đức Duy..vv.. thời VNCH chẳng hạn),và ông cũng là tác giả
phần lời tiếng Việt của ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” được hát suốt từ đó đến nay.
Năm 1935, tập “Mấy vần
thơ” của ông xuất bản, góp phần cổ võ mạnh mẽ cho phong trào Thơ mới. Trong bài
thơ “Cây đàn muôn điệu”, ông tâm sự:
“Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn màu muôn vẻ
Mượn cây bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”…
Trong bài thơ “Giây phút
chạnh lòng” cảm đề truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,ông viết thay lời nhân vật
Loan nói với người mình yêu tên Dũng nhưng hai người không lấy được nhau vì nhà
Loan quá nghèo mà gia dình Dũng quá giàu, bà Phán mẹ Dũng lại quá khắc nghiệt,
khinh bỉ người nghèo. Khi Dũng bỏ nhà ra đi hiến mình cho lý tưởng, Loan nói
cứng nhưng trong lòng khắc khoải khôn nguôi:
“Anh đi đường anh, tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ”…
Về nhạc, năm 1944, khi
cùng đoàn kịch Tinh Hoa của mình đi lưu diễn tại Hội An tỉnh Quảng Nam mà ông
vừa là chủ gánh, vừa là người viết kịch bản, vừa là đạo diễn kiêmdiễn viên nòng
cốt trong đoàn, Thế Lữ tình cờ được nghe một bản nhạc có âm điệu rất hay của
nhạc sĩ La Hối (1920- 1945, người Việt gốc Hoa) với phần lời bằng tiếng Hoa của
tác giả Diệp Truyền Hoa. Lập tức ông tìm gặp nhạc sĩ La Hối (lúc ấy mới 24
tuổi), đề nghị chính mình sẽ viết thêm một bản lời Việt. Nhạc sĩ La Hối đã biết
tiếng Thế Lữ nên rất lấy làm hân hạnh, và sau đó, chỉ một đêm, bản “Xuân Và
Tuổi Trẻ” tiếng Việt ra đời:
"Ngày thắm tươi bên đời xuân mới
Lòng đắm say bao nguồn vui sống
Xuân về với ngàn hoa tươi sáng
Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng."
Năm sau (1945), người nhạc
sĩ trẻ tuổi gốc Hoa, do lòng yêu nước, cùng các bạn thân ở Hội An tổ chức một
hội đoàn chống Nhật, dần dần lan rộng khắp Quảng Nam nên bị hiến binh Nhật vây
bắt, xử bắn cùng 9 người bạn, nay 10 nấm mộ vẫncòn ở Hội An nhưng bản nhạc
“Xuân Và Tuổi Trẻ” do Thế Lữ đặt tên và viết lời Việt vẫn được mọi người hát
cho đến bây giờ, nhất là trong các dịp xuân về. Thế Lữ chơi đàn guitare, thổi
sáo và hát rất hay. Ông đã từng tổ chức một đêm ca nhạc kịch tại Nhà Hát Lớn Hà
Hội, gồm toàn các nhà văn, nhà thơ và các cộng tác viên của Tự Lực Văn Đoàn
biểu diễn, do chính ông đạo diễn và xếp đặt chương trình. Đêm ca nhạc kịch
thành công mỹ mãn, đối với độc giả của báo Ngày Naycàng thêm thân thiết.
II . Người vợ đáng nể của
Thế Lữ
Như phần trên đã nói,
người vợ đầu tiên của nhà thơ Thế Lữ là cô gái ở Nam Địnhnhưng buôn bán hàng
vải ở Hải Phòng, tên là Nguyễn Thị Khương, lớn hơn Thế Lữ 2 tuổi, do mẹ cưới
cho chứ chưa từng quen biết Thế Lữ. Bà Khương sinh cho Thế Lữ cả thảy 4 người
con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở Hải Phòng buôn bán, thay chồng chăm sóc mẹ
già và nuôi dạy các con để Thế Lữ được thỏa sức bình sinh phô diễn tài nghệ ở
Hà Nội. Tuy “chỉ là một khách tình si” nhưng Thế Lữ cũng nhận thức được những
vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với bà mẹ chồng quá khó tính. Ông giải
thích cho vợ hiểu rằng do mẹ đã gặp nhiều khó khăn khi làm dâu bà nội ở Lạng
Sơn với những uất ức không nói ra được, nên bây giờ bà cũng khó lại với con dâu
như cái “nợ đồng lần” vậy thôi.
Để cải thiện mối quan hệ
giữa mẹ chồng và nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn, mổ xẻ những vướng mắc
trong cái “nợ đồng lần” đó và ký tên khác hoàn toàn xa lạ, coi như của độc giả
rồi đọc cho mẹ nghe. Không ngờ chỉ mới nghe qua một đoạn, bà mẹ đã cầm cái ống
nhổ đựng quết trầu dằn mạnh xuống mặt bàn: “À, thế ra anh muốn dạy tôi đấy phải
không? Ai nuôi anh ăn học từ năm 10 tuổi? Ai chăm sóc anh suốt một năm trời
bệnh nặng tưởng chết, để rồi bây giờ anh dạy lại tôi! …”. Thế Lữ sợ mẹ giận,
chống chế rằng đấy là truyện do độc giả viết. “Muốn do ai viết cũng là nói tôi.
Anh đọc cho tôi nghe tức là muốn khuyên tôi đừng khó khăn với vợ anh nữa chứ
gì! Tôi thừa hiểu cái thâm ý của anh…”. Thế Lữ bèn xin lỗi mẹ rồi hôm sau trở
về Hà Nội, bao nhiêu tai ương vợ lại tiếp tục gánh chịu.
Thế Lữ có người yêu
Những ngày mê mải với việc
dựng kịch, Thế Lữ đã gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu tên là Phạm
Thị Nghĩa. Cô sinh năm 1913, kém Thế Lữ 6 tuổi, con gái quan tuần phủ Phạm Đình
Mẫn ở Hà Đông, cô ruột của các ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Đình
Chương. Phạm Thị Nghĩa học trường Pháp, năm 20 tuổi là giáo viên trường tư thục
Victor Hugo nhưng lại mê hát chèo và diễn kịch. Gia đình không chấp nhận“xướng
ca vô loài”, nên “cô giáo” Phạm Thị Nghĩa chỉ tập kịch và tập hát cheo do bạn
bè dạy. Cô rất có năng khiếu về hai bộ môn này và rất hâm mộ tài năng của Thế
Lữ, nên thường đi xem các vở thoại kịch rất gần với kiểu thoại kịch của Pháp,
do Thế Lữ đóng hoặc dàn dựng, rồi tự ý làm quen với Thế Lữ.
Nhận ra Phạm Thị Nghĩa tuy
là giáo viên trường Pháp, chuyên nói tiếng Pháp nhưng lại có tài diễn xuất và
hát chèo tiếng Việt, vì vậy khi đưa vở kịch “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ
lên sân khấu tại Hải Phòng, thiếu vai chính phù hợp, Thế Lữ bí mật cho người về
Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Mão. Dù diễn ở Hải Phòng nhưng cô Nghĩa
cũng sợ gia đình phát hiện nên lấy biệt danh là “Song Kim”, coi như cả mình lẫn
Thế Lữ đều là… hai cục vàng rất có giá trị. Vở kịch thành công mỹ mãn, trình
diễn nhiều đêm liền, Song Kim bỏ nhà, bỏ cả nghề dạy học đi theo tiếng gọi của
tình yêu và dần trở thành một diễn viên gạo cội trong đoàn kịch Tinh Hoa của
Thế Lữ. Họ kết duyên với nhau. Đó là cặp nghệ sĩ rất nổi tiếng và đẹp đôi mặc
dầu "chàng" hơn nàng 6 tuổi và đã có vợ con.
Bốn trong bảy thành viên Tự Lực Văn Đoàn: Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh,
Khái Hưng -Nguồn ảnh: Wikipedia
Ở Hải Phòng, bà Khương
biết chuyện, buồn lắm nhưng cố chịu đựng, không tỏ thái độ ghen tuông. Bà không
coi Song Kim là “vợ hai” của chồng, vì theo giáo lý Công giáo, đàn ông chỉ có
một vợ, bà tin rằng Thế Lữ là người Công giáo, được bà nội huấn luyện từ nhỏ
cho mãi tới năm 10 tuổi, rồi mẹ ruột lại dạy tiếp, sẽ có một ngày ông trở lại
với mình. Di cư vào Nam, nuôi 2 con trai học tới tiến sĩ và người con gái trở
thành một nhà doanh nghiệp.
Năm 1954, Thế Lữ đã đưa
người con trai cả là Nguyễn Đình Nghi đi theo mìnhcùng Song Kim lên Việt Bắc từ
năm 1945 và sau này Nguyễn Đình Nghi cũng trở thành một đạo diễn sân khấu nổi
tiếng. Hiệp định Genève diễn ra. Mặc dầu Thế Lữ và Song Kim ở lại Hà Nội nhưng
bà Khương quyết định dẫn mẹ chồng và 3 người con di cư vào Nam. Tại Sài Gòn, bà
vẫn sống bằng cách mở một tiệm bán vải để nuôi các con ăn học. Khi mẹ chồng
mất, bà làm đám tang “hoành tráng” không khác gì có mặt Thế Lữ ở nhà.
Thời gian qua đi, biến cố
1975 xảy ra, miền Nam sụp đổ. Ở ngoài Bắc, Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim không có
con, bà đối xử với đạo diễn Nguyễn Đình Nghi như con ruột và coi các con của vợ
chồng Nguyễn Đình Nghi như cháu nội. Trong khi đó, ở trong Nam, hai người con
trai của bà Khương là Nguyễn Đình Học và Nguyễn Đình Tùng đã lần lượt thi đậu
Tiến Sĩ và trở thành giảng viên đại học, còn người con gái tên Nguyễn Quỳnh Tâm
đã có gia đình. Năm 1977, mặc dầu là con người phiêu lãng và đã luống tuổi
nhưng Thế Lữ vẫn dành sự quan tâm tới vợ con. Ông thương thảo với Song Kim để
dọn vào Sài Gòn còn bà thì vẫn ở lại Hà Nội.
Hai vợ chồng già gặp nhau,
vẫn vui vẻ sau bao nhiêu năm xa cách. Ông sống chung với bà từ cuối năm 1977
tại căn nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ) quận 3 SàiGòn và qua
đời vào ngày 3/6/1989, thọ 82 tuổi. Như vậy ông bà “tái hồi Kim Trọng” gần 12
năm đúng như bà suy nghĩ: dù phiêu bạt đến mấy,cuối cùng là ông sẽ trở lại với
bà. Sau khi ông mất, hai người con trai của bà là Nguyễn Đình Học và Nguyễn
Đình Tùng đem vợ con vượt biên sang Mỹ năm 1990, hiện nay đang ở bên Mỹ. Còn
người con gái là Nguyễn Quỳnh Tâm thì không vượt biên, sau thời kỳ mở cửa, sẵn
có gia tài,tiền bạc của mẹ để cho, vợ chồng tiếp tục làm ăn, buôn bán, trở
thành một nhà doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu vải vóc có tiếng tại Sài
Gòn.
Bà Song Kim sinh năm 1913,
mất năm 2008 tại Hà Nội, thọ 95 tuổi. Cả bà và Thế Lữ đều được phong tặng danh
hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân, được Giải thưởng Hồ Chí Minh nhưng đều không phải là
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi vì bà là con gái quan tuần phủ thời Pháp,
còn Thế Lữ là người Công giáo, không chịu bỏ đạo mặc dầu ông rất bận, ít khi đi
lễ nhà thờ.
* Đoàn Dự.
* * *
Tài liệu hiếm quý. Tôi xin
phép bổ sung, sửa đổi vài chi tiết nhỏ.
- khoảng 1940, ông Thế Lữ
và bà Song Kim về ở đường Láng. Lúc đó, đường Láng chỉ có hai gia đình, một
chính là gia đình của cụ Tú Mỡ. Cụ chính là người rủ ông Thế Lữ về đó ở..
- ngươi con thứ, Nguyễn
Đình Học (tôi lại nhớ là Nguyễn Thế Học) đúng là tiến sĩ Toán, nhưng anh học
tiến sĩ ở Bỉ. Xong tiến sĩ, anh có đi Phi Châu, hình như xứ Congo, dạy học vài
năm rồi trở về Bỉ, ở thủ đô Bruxelles. Thới đó, chung quanh 1975, tôi thỉnh
thoảng có sang Bỉ thăm bè bạn, và hay đến nhà anh chị Học chơi, đánh mạc chược.
Chị Học, vốn là cô giáo Toán ở trường Gia Long, nhưng theo chồng sang Bỉ, hình
như thôi dạy. Bạn bè tôi bên Bỉ kháo nhau là chị Học vốn còn giỏi Toán hơn
chồng, nhưng phận nữ nhi, chịu nâng khăn sửa túi cho chồng, âu cũng là phong
tục An Nam ta.
TB. Tôi nghe nói, anh Học
đã mất lâu rồi, chị Học dọn nhà sang Mỹ. Mấy năm gần đây, chị cùng một số bạn
hữu sưu tập toàn bộ Phong Hoá - Ngày Nay, số hoá và mang về VN tặng cho một
trường ĐH ở SG, để phổ biến trong giới sinh viên làm tài liệu nghiên cứu. Tôi
nghe nói, cho đến nay tài liệu đồ sộ đó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi...
* Lương Lê Huy
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire