ĐỐI THOẠI SOI SÁNG LỊCH SỬ [ 3 ] * HÀ VĂN THÙY

3. Tìm triết lý giáo dục mới.

Như trình bày ở trên, không chỉ triết lý giáo dục của miền Bắc đã lạc hậu mà hôm nay triết lý giáo dục của miền Nam cũng không còn phù hợp. Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa, việc mở mang, khai phóng là đòi hỏi tự thân của mọi người nên không còn chỗ đứng trong triết lý giáo dục. Không những thế, trước trào lưu mở cửa hôm nay, những người “tiên thiên hạ chi ưu” đã cảm nhận nguy cơ của sự “mở” quá đà dẫn tới vong bản!

Rất cần triết lý giáo dục mới, không chỉ tiếp nối truyền thống mà còn dẫn dắt dân tộc tới tương lai tươi sáng.

Từ khảo cứu cội nguồn văn hóa và lịch sử tộc Việt, tôi đề nghị triết lý giáo dục của Việt Nam hôm nay là: Dân tộc, Nhân bản, Minh triết.

Không ít người cho rằng Dân tộc là khái niệm cũ, nhưng thực sự, cho tới nay hầu hết chúng ta chưa hiểu hay hiểu rất sai về dân tộc mình. Đó vẫn là cách hiểu do các học giả phương Tây áp đặt từ thế kỷ XX: “Người Việt Nam là đám Tàu lai với nền văn hóa bắt chước Tàu chưa tới nơi tới chốn. Hơn 70% tiếng nói vay mượn của Tàu….”

Nhưng sang kỷ nguyên mới, nhờ khoa học tiến bộ, nhân loại khám phá ra rằng: 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi tới Việt Nam, sinh ra người Lạc Việt. Rồi từ Việt Nam, người Lạc Việt lan tỏa ra châu Á và thế giới, sinh ra phần lớn nhân loại. Người Lạc Việt cũng là chủ nhân của nền văn hóa nông nghiệp phương Đông rực rỡ, không chỉ giúp người Việt tồn tại mà còn có vai trò lớn là dẫn dắt nhân loại trong cuộc khủng hoảng trí tuệ hôm nay. Nền giáo dục Việt Nam cần dựa trên những khám phá mới về bản sắc văn hóa của dân tộc.

Tiêu chí Nhân bản do vai trò kinh điển của nó nên được giữ nguyên. Không những thế, càng cần trong thời đại thống trị của kim tiền, kỹ trị và nhân tính bị băng hoại.

Xin bàn về tiêu chí Minh triết.

Cho đến nay, nhân loại chưa có định nghĩa chuẩn về minh triết. Người Mỹ gọi minh triết là wisdom với nghĩa là “sự khôn ngoan”. Trong khi đó, người Pháp gọi minh triết “sagesse” “là một cái gì nguội lạnh và lẩn thẩn" (Francois Jullien). Ngay với người Việt, hậu nhân của cha ông sáng tạo minh triết cũng chưa thực hiểu minh triết là gì. Phần nhiều thường dẫn một câu ca dao, tục ngữ hay lời của cổ nhân rồi bình luận: “Ông cha ta minh triết thật!” Những người khác quan niệm minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt. Điều này phần nào gần với sự thật nhưng quan niệm như thế làm nghèo, làm tầm thường hóa thành tựu của cha ông.

Tôi mạo muội xin đề xuất một định nghĩa về minh triết như sau: “Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, luôn tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc và dẫn dắt dân tộc đi lên.”

Minh triết là phẩm chất cao nhất của trí tuệ và tâm hồn Việt. Do vậy phải là nội dung quan trọng của giáo dục. Chúng ta đang ở giai đoạn kinh tế tri thức, nhưng có người đã nói tới nền kinh tế minh triết. Tiêu chí minh triết trong triết lý giáo dục chính là chuẩn bị cho tương lai gần này.

Trong tình hình Việt Nam và thế giới hôm nay thiết nghĩ triết lý giáo dục nêu trên không chỉ phù hợp với dân tộc Việt mà nó còn có ý nghĩa dẫn đường cho giáo dục của nhân loại.

Sài Gòn Xuân Đinh Dậu

 

VĂN HÓA LÀ ĐỊNH MỆNH

(Trao đổi với ông Nguyễn Hòa về văn hóa học)

Ông Nguyễn Hòa là nhà phê bình văn chương. Bỏ qua một số bài mang tính đao to búa lớn, tôi thấy ông là cây viết trực ngôn và sắc sảo, một phẩm chất quý trong tình trạng văn đàn nhạt nhẽo đương thời. Tuy nhiên, dường như văn hóa học không phải sở trường của ông nên khi sa vào đó, ông hơi bị lạng quạng. Bài “Đông và Tây- khác biệt về văn hóa và tư duy”* thể hiện điều này.

  Xin trao đổi với ông đôi lời.

1. Không có lựa chọn, văn hóa là định mệnh

Ngay ở đầu bài, ông Nguyễn Hòa viết:

 “Tuy nhiên, do văn hóa là sự lựa chọn của mỗi cộng đồng người trong các điều kiện địa lý - kinh tế riêng nên ngay từ đầu, dù cùng một mẫu số chung, nhưng mỗi cộng đồng lại có các lựa chọn văn hóa khác nhau, với kiểu tư duy khác nhau khi tiếp cận thế giới, đẩy tới các kiểu quan niệm, các phương thức sinh tồn, các phong cách sống, các tập quán và thói quen... khác nhau.”

 Chỉ một câu trên đã bộc lộ sai lầm cơ bản về văn hóa học của tác giả. Biện chứng pháp marxit cho rằng vật chất quyết định ý thức. Như vậy, phương thức sinh tồn phải là cái có trước. Đó là những cái mà tự nhiên sẵn có, buộc con người muốn sống sót phải thích ứng với chúng. Và chính những hoạt động để đảm bảo cho cộng đồng không chỉ sống còn mà sống tốt nhất trong môi sinh cụ thể đã làm nên văn hóa. Vì vậy, văn hóa là tất yếu, là định mệnh. Nói cách khác, con người không có quyền lựa chọn văn hóa!

 Quả thực tôi không hiểu cái gọi là “mẫu số chung” ở đây là gì, vì ngoài chủ thể là Con Người ra, mọi sự hoàn toàn khác nhau, giữa Đông và Tây chả có gì chung cả! Trước đây, khi chỉ nhìn lịch sử bằng con số phiếm định hàng nghìn năm, người ta khó mà hiểu được nguyên lý đơn giản này. Nhưng nay, khi lặn ngụp tới chiều sâu tận cùng của lịch sử, thì ra đó là sự hiển nhiên.

Cho tới khi tôi viết những dòng này, trên thế giới chưa mấy người biết rằng, 40.000 trước, những nhóm người Europid từ Trung Đông vượt qua eo Bosphorus vào châu Âu. Tại đây, họ gặp những người Australoid cũng vừa từ Đông Á tới. Hai nhóm Homo sapiens hòa huyết cho ra người Eurasian, tổ tiên người châu Âu ngày nay. Nhưng 5.000 năm sau, khí hậu chuyển lạnh dữ dội khiến cho người Neanderthal, di duệ cuối cùng của Người Đứng thẳng Homo erectus – loài tiền nhiệm của chúng ta, bị tuyệt diệt đồng thời đẩy những người Homo sapiens sống ở phía bắc lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ rơi vào tình trạng tiềm sinh. Chỉ 10.000 năm cách nay, khi thời kỳ Băng Hà chấm dứt, người châu Âu mới ra khỏi những hang băng. Môi sinh lúc này tốt hơn nhiều. Nhưng đối mặt với rừng thưa và đồng cỏ, câu hỏi lớn nảy sinh: làm thế nào để sống? Cố nhiên, họ tiếp tục săn bắt, hái lượm. Đất không nước tưới nên không thể trồng trọt vả lại họ cũng chưa hề biết gì về trồng trọt. Rồi thời gian cho câu trả lời: thuần hóa, chăn nuôi động vật ăn cỏ để có thịt ăn, sữa uống và da thú che thân. Hết cỏ gần phải dẫn mục súc đi xa, tự nhiên, phương thức sống du mục ra đời! Từ phương thức sống du mục sản sinh văn minh du mục. Đó chính là định mệnh!

            Trong khi đó, 70.000 năm trước, người từ châu Phi men theo bờ biển Ấn Độ tới thềm lục địa Việt Nam. Lúc này đang thời kỳ Băng Hà, phần lớn trái đất phủ băng, nước biển thấp hơn ngày nay 130 mét. Đông Nam Á khô và mát, là địa đàng cho động thực vật và con người phát triển. Do thức ăn phong phú, người Việt sống quần tụ và sinh sôi nhanh chóng, tràn xuống các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ, lên chiếm lĩnh phần lục địa ngày nay gọi là Trung Quốc.

 Trong thời kỳ dài đằng đẵng săn bắn, hái lượm, tổ tiên ta luôn tìm cách cải thiện đời sống của mình. Nhưng làm gì khi đất hẹp, địa hình chia cắt? Dù 15.000 năm trước đã thuần hóa con gà, con chó sớm nhất trong lịch sử nhân loại và sau đó thuần hóa con heo đầu tiên nhưng không thể chăn nuôi lớn và càng không thể du mục!

Dựa vào thảm thực vật phong phú, tổ tiên ta bắt đầu thuần hóa bầu bí, các loại rau đậu rồi cây kê và lúa lốc (lúa nương, lúa khô) tự túc một phần lương thực. Khoảng 15.000 năm trước, khí hậu ấm hơn, mưa nhiều hơn, nước dâng lên, cây lúa nước ra đời. Sau từng ấy thời gian, “chồng cày vợ cấy”, “trông trời trông đất, trông mây”… văn hóa nông nghiệp hình thành. Hoàn toàn không phải lựa chọn mà là Định mệnh do môi trường sống quy định. Không cộng đồng nào chọn được văn hóa của mình!

2. Nông nghiệp, du mục: hai phương thức sống tạo ra hai nền văn minh.

 Với việc phát hiện di chỉ trồng lúa nước 12.400 năm trước ở phia nam Dương Tử, ta có đủ cơ sở để tin rằng, nền nông nghiệp lúa nước từ xa xưa đã là phương thức sống chủ yếu của dân cư Việt. Nông nghiệp lúa nước là cuộc sống định cư, cố kết cộng đồng để chống lụt lội, giặc, cuớp. Nông nghiệp lúa nước buộc con người không chỉ bó bện với nhau mà còn gắn bó trong sự hài hòa với thiên nhiên. Năm 1954, trong cuốn sách Nhiệt đới buồn, nhà nhân học nổi tiếng Levis Strauss phát hiện: “Người thổ dân vùng Caduevo phía Bắc Canada có đặc tính coi trọng phụ nữ và sự hài hòa giữa các yếu tố trong thiên nhiên, giống với người ở mạn nam Trung Quốc.” Lúc đầu người ta giải thích rằng, đó là sự giống nhau nảy sinh do môi trường sống giống nhau. Nhưng sau này, nhờ khảo cổ và nhất là di truyền học, người ta biết đó chính là người Việt di cư sang châu mỹ 15.000 năm trước, đã mang theo văn hóa nông nghiệp của tộc Việt!

Du mục là cuộc sống nguy hiểm, phải thường xuyên đối mặt với sự bất thường của thời tiết khắc nghiệt, thú dữ rình rập và sự cuớp phá của những bộ lạc hiếu chiến, nhất là trong thời kỳ hạn hán hay giá rét. Chính hoàn cảnh đã tạo ra phương thức sống tàn bạo dựa trên sự khai thác thiên nhiên và cướp bóc đồng loại. Trong hoàn cảnh như vậy, vai trò của người đàn ông trong gia đình, người chiến binh trong bộ lạc được đề cao. Từ đó dẫn tới chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, đầu óc tôn sùng thủ lĩnh và chế độ nô lệ.

            Phương thức sống khác nhau tạo ra hai phương cách tư duy khác nhau giữa Đông và Tây. Làm thí nghiệm đặt vi điện cực vào những trung khu thần kinh khác nhau của người phương Đông và người phương Tây, người ta nhận ra rằng người phương Tây thiên về tư duy phân tích, còn phương Đông thiên về tư duy tổng hợp. Đó là hệ quả tất yếu của cuộc sống cạnh tranh khốc liệt khiến người du mục, tổ tiên người phương Tây, phải phân biệt thật nhanh những nhân tố khác biệt của môi trường để ứng phó. Trong khi đó, người phương Đông quan tâm phát hiện những mối liên quan giữa các yếu tố của môi trường để thích ứng một cách hài hòa.

Người phương Tây gọi văn hóa là culture, với nghĩa nguyên thủy là trồng trọt. Như vậy, chính trồng trọt sản sinh ra văn hóa. Trong văn hóa học không có khái niệm văn hóa du mục mà chỉ có văn minh du mục. Điều này có nghĩa là phương thức sống du mục không làm nên văn hóa! Đó là sự thực.

Nhưng như vậy, phải chăng xã hội phương Tây không có văn hóa? Tôi từng băn khoăn: phương Tây quá văn minh nhưng hình như văn hóa nghèo nàn, đặc biệt hàm lượng minh triết thấp?

Và rồi tôi tìm ra nguyên do của sự việc. Khảo cổ và di truyền học cho thấy, bảy ngàn năm trước, người nông dân Trung Đông đem lúa mì và nho tới, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử châu Âu. Nhờ được cung cấp lương thực, những bộ lạc du mục hùng mạnh không còn theo chân đàn gia súc nữa mà dừng lại kiến tạo thành bang. Phân công lao động được đẩy mạnh, thủ công nghiệp rồi thương nghiệp ra đời… Khi đem nghề nông vào, chính người nông dân Trung Đông đã đem văn hóa tới châu Âu. Nhưng hàm lượng văn hóa không nhiều vì gen nông dân chỉ chiếm 20% trong huyết quản người châu Âu.

Đúng như câu nói nổi tiếng của Kipling: “Đông là Đông, Tây là Tây”, có thể nói rằng, về phương diện văn hóa, lịch sử đã chia Đông và Tây làm hai thế giới: Con người du mục - Homo nomadian và Con người nông nghiệp - Homo culturian.

Do không nắm được điều này nên ông Nguyễn Hòa đã nói rất hàm hồ: “Thật ra, xét về nguồn gốc thì phương Đông hay phương Tây đều có điểm xuất phát từ kinh tế - văn hóa nông nghiệp dưới hai hình thức chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt.”

 Xin thưa, du mục không bao giờ là nông nghiệp. Một người có tiếng như ông Nguyễn Hòa không có quyền sai lầm trong tri thức vỡ lòng về văn hóa học như vậy!

Ông Nguyễn Hòa viết: “Kinh tế thương nghiệp, sự ra đời của các thành bang, ngay từ đầu đã làm cho văn hóa Hy Lạp - cái nôi của văn hóa phương Tây, đi theo khuynh hướng khác hẳn phương Đông.”

Thưa ông, thương nghiệp chỉ là hệ quả chứ không phải là nguyên nhân của sự khác biệt Đông Tây. Phải truy về gốc của nó, chính là phương thức sống du mục duy lợi, duy lý, cạnh tranh, lang bạt… đã thúc đẩy thương nghiệp. Hy Lạp vốn là quê hương của người nông dân từ phương Đông sang. Vài trăm năm trước Công nguyên, người du mục chiếm vùng đất trù phú này. Trên nền tảng của văn hóa nông nghiệp, người du mục xây dựng văn minh Hy Lạp mà đặc trưng của nó là xác lập vị trí thống trị của người đàn ông – thủ lĩnh, thay những nữ thần nông nghiệp bằng nam thần du mục. Và từ cuộc xâm lăng của Alexander Đại đế sang phương Đông, người Hy Lạp cướp bóc, chiếm đoạt những thư viện lớn của Ai Cập, biến Aristoteles thành nhà tư tưởng vĩ đại nhưng cũng là kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại!

Ông Nguyễn Hòa viết:

“Hàng nghìn năm trước, khi cư dân Trung Hoa, Ấn Độ... bắt đầu phác họa các đường nét đầu tiên của văn hóa dân tộc mình, hẳn họ không ý thức được tầm vóc vĩ đại của những gì do họ làm ra.”

Điều này không mới vì suốt thế kỷ XX người ta từng ca như thế. Nhưng đó là sự lầm lẫn khổng lồ, sự đánh tráo lớn nhất của lịch sử nhân loại. Nếu thực sự là trí thức – những đầu óc mẫn tiệp, đi trước dẫn đường cho dân tộc, sang thế kỷ này người ta sẽ không viết vậy! Ngày nay, có đủ cơ sở để chứng minh rằng, người Việt không những sinh ra người Trung Hoa mà còn cho người Hoa tiếng nói, chữ viết và cả nền văn hóa nông nghiệp vĩ đại. Nói cách khác, toàn bộ nền văn minh Trung Hoa được xây dựng trên sơ sở của văn minh nông nghiệp Việt tộc. Và trên đất Ấn Độ, người Việt Dravidan đã sáng tạo nền văn minh Indus vĩ đại mà trên đó, người Arian từ Ba Tư sang chiếm đoạt làm nên nền văn hóa Ấn ngày nay.

Ông Nguyễn Hòa viết:

“Tương tự như vậy, để không rơi vào cuộc tranh luận chưa có hồi kết về một nguồn gốc một số thành tựu văn hóa - văn minh của người Trung Hoa là có nguồn gốc Trung Hoa hay phương Nam, bài viết này chỉ đề cập tới một số quan niệm vũ trụ, nhân sinh của người Việt (như quan hệ âm - dương chẳng hạn) có thể thực chứng qua hàng nghìn năm lịch sử và ít nhiều vẫn còn hiện hữu trong cuộc sống hôm nay.”

Viết như vậy, ông Nguyễn Hòa tưởng chừng chui vào cố thủ trong một bunker để được an toàn. Nhưng con đà điểu vùi đầu trong cánh liệu có tránh được bão? Khi chưa phân định tới tận cùng của lịch sử - văn hóa thì mọi bình luận về nó là chưa đủ cơ sở! Chính do sự trốn chạy, không muốn biết tới tận cùng của văn hóa Việt, ông đã viết thế này:

“Sinh tồn ở khu vực gần gũi với các nền văn minh lớn ở phương Đông, từ hàng ngàn năm trước, nền văn hóa sơ khởi của người Việt đã chịu ảnh hưởng và phần nào có thể nói, đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn minh Trung Hoa, Ấn Độ. Các đoàn thương nhân, các nhà tu hành... và các đạo quân xâm lược dẫu có để lại hình ảnh không đẹp đẽ trong quá khứ, thì họ cũng góp phần đưa tới một hiện tượng độc đáo là giúp cho cơ tầng văn hóa Việt bản địa phối kết với vô số thành tựu văn hóa bên ngoài, từ đó hình thành nên một văn hóa Việt mới, với một hệ thống khá ổn định về bản sắc.”

 Chung thói quen cố hữu của giới nghiên cứu xưa nay, khi chưa định hình văn hóa Việt là gì, ông Nguyễn Hòa đã vội vàng nói tới tác động ngoại lai của người lính viễn chinh, của thương nhân… làm nên văn hóa Việt?!

Ông Nguyễn Hòa viết:

“Cũng như các dân tộc ở phương Đông, trong quá khứ, người Việt tỏ ra thiếu khát vọng tìm kiếm cái mới, không thích lập kỷ lục... Họ không có hứng thú lặn xuống biển sâu, bay vào vũ trụ, không tự hỏi “hai vạn dặm dưới đáy biển” có gì.”

             Điều này có thể đúng với thời kỳ gần đây mà không đúng với toàn bộ tiến trình lịch sử của tộc Việt. Không thế nói như thế về một đại tộc từng từ Việt Nam tỏa ra khắp thế giới, sang phía tây góp máu huyết sinh ra tổ tiên người châu Âu, sang châu Mỹ để sinh ra người da đỏ, vượt trùng dương phiêu lưu về phía nam chiếm lĩnh Hawaii rồi chế tác rìu đá mài, trống đồng... Không chỉ thế, người Việt còn phát minh ra Âm Dương, Ngũ hành, Dịch lý… những tri thức sâu thẳm của nhân loại.

Càng sai lầm khi nói: “Họ không có hành động để chứng tỏ con người bình đẳng với tự nhiên, bởi chưa bao giờ trong ý thức xuất hiện ý niệm về điều đó.”

Thưa ông, hoàn toàn không như ông tưởng. Người Việt không chỉ dám bình đẳng với tự nhiên mà còn hơn thế. Trong quan niệm nhân sinh của người Việt là Nhân chủ - Thái hòa – Tâm linh, thì yếu tố đầu tiên là Nhân chủ. Đó là trong tam tài Thiên - Địa – Nhân làm nên vũ trụ thì Con Người là chủ. Vâng, chủ cả Trời, cả Đất. Do vậy con người phải sống thái hòa, tức là hòa mục cao nhất, không chỉ với nhau mà còn với Trời với Đất. Muốn sống được như vậy, con người không thể là con người duy vật mà là con người tâm linh. Đó là nhân sinh quan, tức là phương thức sống thấm đẫm trong toàn bộ văn hóa Việt.

Có thể dẫn nhiều thêm những điều bất cập của tác giả bài viết nhưng tôi dừng ở đây, mong rồi một ngày ông sẽ ngộ ra.

   3.  Kết luận

Là tác giả của những bài viết trực ngôn và sắc sảo, ông Nguyễn Hòa tạo dựng được chỗ đứng riêng trên văn đàn. Vì vậy khi thấy ông bàn về đề tài to tát của văn hóa, tôi kỳ vọng học được những điều bổ ích. Tiếc rằng, đó là bài viết không chỉ cũ kỹ nhàm chán, không đem lại điều gì mới cho học thuật mà lại có những cái sai không nên có nơi một đầu óc mẫn tiệp.            

                          Sài Gòn, tháng Ba năm 2012

*http://phunutoday.vn/xi-nhan/nghe-thuat-moi/201203/dong-va-Tay-khac-biet-ve-van-hoa-va-tu-duy-i-2139687

 

(tiếp theo)

 

Cảm ơn ông Nguyễn Hòa đã trả lời tôi. Kể ra câu chuyện dừng lại cũng được rồi nhưng do “tơ vương” vẫn còn, tôi xin thưa tiếp đôi lời.

1. Tôi không đọc Nghệ thuật mới nên không biết nhan đề chính thức bài viết của ông Nguyễn Hòa. Nhưng khi được ông cho biết “Đông và Tây - từ khác nhau trong văn hóa đến khác biệt tư duy”, trong óc tôi bỗng thấy gợn gợn…

 Đúng như ta thấy trong xã hội người hiện nay, văn hóa hướng dẫn tư duy. Nhưng văn hóa là sản phẩm của hoạt động xã hội chỉ xuất hiện khi con người đạt tới mức tiến bộ nào đó, nên được hình thành muộn hơn. Vậy khi chưa có văn hóa thì cái gì dẫn dắt tư duy?

Theo tôi, sự thể có lẽ đã diễn ra như thế này:

 10.000 năm cách nay, khi băng tan, những cánh đồng băng biến thành rừng thưa xen lẫn cỏ xanh. Điều kiện sống tốt hơn trước nhiều nhưng cố nhiên, châu Âu, Sahara, Gôbi… vẫn săn bắn, hái lượm. Người phụ nữ vẫn làm chủ gia đình mẫu hệ. Rồi với sự cần mẫn và dịu dàng của Người Mẹ, chính người đàn bà đã thuần hóa con cừu con dê đầu tiên và chăn nuôi gia đình ra đời. Dần dà, thú hoang giảm đi, săn bắn khó khăn hơn, trong khi chăn nuôi gia đình mang lại thu nhập quan trọng. Địa vị người đàn bà lên cao cực điểm. Nhưng khi đàn gia súc đông thêm, bãi chăn thả trở nên cằn cỗi, đời sống bị đe dọa. Lúc này, người ta thấy cần “tổ chức lại” bộ lạc để có thể đưa đàn gia súc đi xa, tìm bãi chăn thả mới. Phương thức sống du mục ra đời. Du mục là cuộc sống khó khăn, nguy hiểm: khám phá vùng đất mới, chống lại thú dữ luôn rình rập. Trong tình trạng cạnh tranh khốc liệt, mỗi bộ lạc phải tự bảo vệ để chống lại những người láng giềng hùng mạnh đồng thời ra sức đánh phá các bộ lạc yếu để cướp mục súc, bãi chăn thả và bắt người làm nô lệ... Muốn sống còn, con người phải nhanh nhạy phát hiện những thay đổi dù nhỏ nhất của ngoại cảnh để ứng phó, “tiên hạ thủ vi cường.” Từ đó phương thức tư duy phân tích ra đời. Sau sự xuất hiện công cụ lao động thì đây là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt con người với thú hoang. Đó cũng là bước chuyển vô cùng quan trọng trong lịch sử phương Tây mà chưa được chú ý nghiên cứu. Phải chăng điều này được phản ánh trong kinh Thánh: “Khởi thủy là lời”? Và cũng chính là cơ sở cho mệnh đề nổi tiếng của Descartes: “Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại”? Xin nhớ lúc này văn hóa chưa hình thành. Như vậy, phương thức tư duy phân tích trở nên yếu tố chủ đạo dẫn dắt cộng đồng du mục và tạo ra văn minh.

Trong điều kiện sống như vậy, bộ lạc cần những thủ lĩnh mưu trí, can trường, có uy quyền tuyệt đối cùng những chiến binh dũng mãnh, trung thành. Mặc nhiên, vai trò của thủ lĩnh, của chiến binh, của người đàn ông tăng lên, trong khi người phụ nữ vốn chân yếu tay mềm lúc này không đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, ngày càng trở nên phụ thuộc, địa vị bị sút giảm. Nữ quyền chuyển sang cho nam giới rồi theo đó, mẫu hệ chuyển thành phụ hệ. Văn minh du mục hình thành với những đặc trưng: duy lợi, duy lý, tôn sùng thủ lĩnh, đề cao vai trò đàn ông, áp chế phu nữ, chế độ phụ hệ và phụ quyền, khai thác thiên nhiên, cướp bóc đồng loại và chế độ nô lệ…

             Khi thiết chế văn minh du mục ổn định, nó trở thành một tính trạng di truyền (di truyền học gọi là di truyền quần thể fenotipe) được truyền cho các thế hệ sau qua tập quán sống. Đó chính là điều mà ông Nguyễn Hòa cho rằng văn hóa dẫn tới tư duy. Điều này dễ nhận ra. Và do bằng lòng với nó nên người ta không tìm hiểu sâu hơn để biết rằng: ban đầu, chính là tư duy phản ứng trước ngoại cảnh đã làm nên văn hóa. Khi văn hóa định hình thì tư duy lùi vào tiềm thức, trở thành bản năng. Thí nghiệm khảo sát các trung khu thần kinh dẫn ở bài trước còn có phần kết: khi người phương Tây sống lâu năm ở phương Đông sẽ tập nhiễm thói quen tư duy tổng hợp và ngược lại.

2.  Ông Nguyễn Hòa lo  “mai sau Hà Văn Thùy thành trò cười cho con cháu!” Cảm ơn nỗi lo của ông, nhưng quả là ông đã lo bò trắng răng. Tôi không lo con cháu cười bởi lẽ tai đã quen nghe tiếng cười của người hôm nay. Có người gọi tôi là “cuồng Việt”, lại có người cho rằng tôi điên (BBC and Hà Văn Thùy gone mad!). Người đương thời cười thay cho con cháu đấy!

Ông Nguyễn Hòa nói: “tôi thấy hình như các “tri thức” và luận chứng mà ông trình tấu lâu nay, vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của giới nghiên cứu?”

Quá đúng! Hơn tám năm, từ ngày công bố tiểu luận Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa trên BBC tiếng Việt đầu năm 2005, tới nay tôi đã có hơn trăm bài viết và ba cuốn sách, nhưng chưa hề nhận được cả sự đồng thuận cũng như bất thuận của giới nghiên cứu. Một sự im lăng đáng sợ!

 Lẽ thường tình, muốn đồng thuận, trước hết phải hiểu. Mà trước cái sự hiểu ấy phải là sự có muốn hiểu hay không? Đức Phật dạy, muốn ngộ đạo, phải gạt bỏ tạp niệm, tư kiến để tâm trí trống không như lòng trẻ thơ, như tờ giấy trắng. Gạt bỏ ngã chấp để trở về “không” đã khó. Nhưng gạt bỏ mình đi để rồi nhận được cái gì? Cay đắng thay, đó là sự sụp đổ: những “công trình để đời”, làm nên cân đai mũ mão vinh thân phì gia của nhiều người bỗng chốc trở thành hàng mã! Bắt con người tự giác phủ định mình là chuyện khó hơn tìm đường lên trời!

   Cho đến nay, có lẽ cũng ít người ngộ ra rằng, khoa học nhân văn Việt Nam được xây chủ yếu trên Đông phương học của trường phái Viễn Đông Bác cổ. Cái Đông phương học made by France này lại xây dựng trên thuyết Đa nguồn gốc của loài người. Thuyết thịnh hành suốt thế kỷ XX cho rằng, loài người được sinh ra từ nhiều khu vực khác nhau. Tại châu Á, người Việt, Hoa, Mông, Mãn… được sinh ra từ chân núi Thiên Sơn, tây bắc Trung Quốc. Khi băng hà tan thì di cư về phía đông nam, vào Trung Quốc rồi xuống Đông Nam Á. Người di cư mang theo văn minh. Cố nhiên, Đông Nam Á là “vùng nước đọng của lịch sử”, là khu vực cuối cùng hưởng xái văn minh nhân loại! Trộn thuyết này với cổ thư Trung Hoa, học giả Pháp Aurousseau dạy rằng, khoảng năm 330 TCN, con cháu của Việt vương Câu Tiễn chay loạn xuống Việt Nam, sinh ra người Việt! Bằng khoa học ngữ văn tân tiến, Viện sĩ Maspéro phát hiện, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Trung Hoa! Các học giả tiên phong của chúng ta như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… nghe theo rồi truyền dạy cho con cháu! Kết quả là khoa học nhân văn nước Việt được dựng trên hệ quy chiếu con người từ Tây Bắc xuống!

Nhưng ngày 29 tháng 9 năm 1998, Giáo sư Y. Chu, nhà khoa học gốc Hoa của Đại học Texas Hoa Kỳ, sau nhiều năm làm việc cùng êkip 12 nhà khoa học khác, có sự tham gia của Đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa trong Dự án Quan hệ di truyền của người Trung Quốc (Genetic Relation of Populations in China), với số tiền 1.000.000 USD của Quỹ Phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, công bố thông tin làm chấn động giới khoa học Mỹ:

“Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, người hiện đại Homo sapiens xuất hiện 160 đến 200.000 năm trước tại quê hương duy nhất là Đông Phi.” “Công trình của chúng tôi cũng cho thấy, khoảng 60-70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi men theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết, tăng nhân số và khoảng 50.000 năm trước, di cư ra các hải đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước đi lên Trung Hoa…”

Tiếp đó trong thập niên đầu của thế kỷ, xuất hiện nhiều nghiên cứu di truyền phục vụ Dự án lập Bản đồ gen người cho ra những kết quả ngày càng cụ thể hơn!

Bạn có tin hay không, tùy! Nhưng điều này thì không thể phản bác: di truyền học phát hiện, người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á. Có nghĩa là người Việt Nam cổ nhất trong dân cư Đông Á! Chưa nói tới các “rốn” khác nhưng Việt Nam chắc chắn là “rốn” gen!

Có thể nói là, từ năm 1998, một hệ quy chiếu mới cho khoa học nhân văn Đông Á được xác lập:

Con người từ đất tổ châu Phi, đặt chân tới Việt Nam trước nhất rồi lan tỏa khắp Đông Á và cố nhiên, theo đó, văn minh phải xuất phát từ Việt Nam! Và tất yếu: hệ quy chiếu Đông phương học thống trị một trăm năm của người Pháp sụp đổ! Nhận thức ra điều này là khó. Mà rũ bỏ nó để chấp nhận hệ quy chiếu mới càng khó hơn!

Tôi còn nhớ, khoảng tháng Năm năm 2005, ông Trần Quốc Vượng, vị giáo sư đứng hàng tứ trụ ngành Sử Việt Nam tuyên bố bằng giọng đầy quyền uy trên BBC tiếng Việt: ”Tôi đã nói rồi, nói với ông Phạm Văn Đồng là, nước ta có một nghìn năm Bắc thuộc. Tính cách sao thì cũng một nghìn năm. Quan sang này, rồi lính tới này, chúng ta bị đồng hóa đứt đuôi.” Cũng trên đài phát thành danh tiếng ấy, lần khác ông nói: “Tôi khẳng định Việt Nam ủng hộ quan niệm Đa nguồn gốc của loài người!”

Như vậy, có nghĩa là trong thời đại internet, sau bảy năm, phát kiến có tầm quan trọng làm đảo lộn lịch sử phương Đông của nhóm Y. Chu chưa tới được với Giáo sư Vượng! Còn nhớ, cuối năm 2004, trước khi gửi cho BBC, tôi có gửi một phiên bản bài Tìm lại… cho ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng Ban Văn hóa tư tưởng Trung ương, kèm theo đôi dòng: “Đây là những phát hiện mới và đáng tin cậy. Với tư cách nhà thơ, anh cần biết để có thêm cảm hứng sáng tác. Với vai trò người đứng đầu cơ quan văn hóa tư tưởng của quốc gia, anh càng cần biết để chỉ đạo công việc.” Nếu lúc đó, bằng động tác nhỏ của người đầy quyền năng, ông chuyển cho ngành Sử “nghiên cứu” hẳn sẽ cứu được giáo sư Vượng khỏi thất thố trước bạn bè quốc tế!

Không chỉ thế, từ năm 2006 tôi công bố phát hiện: “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa” và sau này trên mạng, nhiều người Việt trong và ngoài nước cung cấp thêm nhiều bằng chứng, thì tại các đại học lớn nhất nước Việt, người ta vẫn đang rao giảng luận thuyết Maspéro (tiếng Việt mượn 70% tiếng Hán) qua công trình “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt” của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn!

Một vị lão thành, cũng dân tai mắt trong làng văn hóa Sài Gòn kể với tôi câu chuyện. Cụ hỏi một giáo sư sử học: “Người ta phát hiện những điều mới như vũ bão về sử Việt mà sao ngành sử mấy ông im tiếng thế?” “Mấy ông sử học ở Hà Nội chỉ ủng hộ chính thống.” Vị giáo sư trả lời. Không nín được, cụ vặc lại: “Thế nào là chính thống? Aurousseau nó bảo mình là con cháu Việt Vương Câu Tiễn là chính thống sao? Maspéro nói tiếng Việt muợn 70% tiếng Tàu là chính thống sao?!”

Đọc tôi trên mạng rồi cụ mời tôi tới nhà. “Anh thứ lỗi, lẽ ra tôi phải tới thăm anh, nhưng xin anh thông cảm, tôi chân chậm, mắt mờ.” Tôi biếu cụ cuốn Tìm cội nguồn qua di truyền học. Nhìn sách, cụ tần ngần: “Di truyền học, có lẽ khó lắm đây. Khoa học sâu thế này chắc gì tôi đã hiểu được!” Tôi động viên: “Cụ cứ đọc, rồi cụ hiểu được mà!” Ít lâu sau, cụ gọi cho tôi: “Tôi hiểu được anh ạ. Anh viết ngắn gọn, rõ ràng, những kiến thức di truyền anh đưa vào cũng chỉ thoáng qua, vừa đủ làm rõ vấn đề. Nhờ vậy tôi hiểu được!”

Một chị bạn thời thơ trẻ, giờ là nhà văn có tên tuổi, bảo tôi: “Tớ đọc cậu rồi. Nói thực tình cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nhưng này, thế giới nó có công nhận cậu không vậy?” Tôi cười méo miệng. Vẫn biết “thế giới công nhận” là một tiêu chuẩn của chân lý. Nhưng chả lẽ ta chỉ biết học mà không có gì dạy lại cho thế giới? Tạo sao những chuyện về dòng giống tổ tiên, về văn hóa của mình mà cũng chờ thế giới dạy? Một thế kỷ Đông phương học Pháp dẫn chúng ta lạc đường, xa gốc chưa đủ làm bài học sao?!

Một bạn đọc cao tuổi từ nước ngoài gửi điện thư: “Những tư liệu dùng trong sách của anh có cả ở trên mạng, ai cũng có thể tìm thấy. Nhưng nối kết chúng rồi đưa ra ý kiến riêng là điều chỉ có anh làm được. Nhiều điều anh viết, tôi không hiểu lắm nhưng vì thấy nó có lý, lại nhất quán nên tôi tin. Mong anh có sức khỏe và lòng kiên trì để làm việc có ích cho đất nước.”

Một người bạn khác, là giáo sư kinh tế. Ủng hộ việc tìm tòi của tôi nhưng bằng giọng hoạt kê, anh cũng thỉnh thoảng châm chọc “những ý tưởng điên rồ” của tôi. Mới đây, anh gọi cho tôi: “Lạ quá Thùy ạ, hôm qua, dự một hội nghị, bỗng tao nhận ra, càng ngày càng có nhiều thằng nói theo giọng của mày!”

Tôi cười thầm: tư tưởng linh thiêng lắm. Hạt tư tưởng chắc mẩy thế nào cũng tìm được đất tốt để nảy mầm, nhất là trong thời đại kết nốt toàn cầu này. Chợt nhớ câu nói nổi tiếng của Esope: “Cả Hy Lạp biết Esope là người tự do, trừ các vị nguyên lão trong đền Pantheon”!

Một ngày mai, bà mẹ dân quê Việt sẽ kể cho con cháu nghe câu chuyện cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa, người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam, sinh ra tổ tiên chúng ta. Rồi người Việt lan tỏa ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, sang Ấn Độ, lên Trung Quốc, sang châu Mỹ thành ngươi da đỏ. Ở phía nam Hoàng Hà, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ sinh ra người Hoa Hạ. Không chỉ nuôi người Hoa bằng sữa mà người mẹ Việt còn cho con cháu mình cả tiếng nói, chữ viết…”

Chỉ riêng các nhà thông thái sống trong tháp ngà khoa học thì chưa biết!

 

                                    Sài Gòn, tháng Tư năm 2012

 

PHÊ BÌNH BÀI

“MỘT GIẢ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG NHÂN CHỦNG HỌC PHÂN TỬ” CỦA T.S ĐỖ KIÊN CƯỜNG

Trên tạp chí Văn hóa Nghệ An, Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường có bài “Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng chứng nhân học phân tử.”* Bài viết được dư luận quan tâm, nhiều trang mạng đăng lại. Là người nhiều năm nghiên cứu cùng đề tài và có tham khảo tư liệu di truyền học, tôi xin trao đổi với tác giả đôi điều.

I. Những điểm thành công.

Phải nói rằng, viết tiểu luận trên, tác giả đã có công sưu tập khối lượng lớn tài liệu chuyên ngành di truyền nhân học, kết nối chúng và đưa ra được một số nhận định mới, góp phần đưa nhân học Việt Nam tiến gần hơn tới chân lý:

1. Các cư dân châu Á có sự biến thiên ADN ty thể cao, trong đó người Việt có sự biến thiên cao nhất. Tuy nhiên, khoảng cách di truyền giữa các tộc người châu Á nói chung là nhỏ. Và sự gần gũi về mặt di truyền đó được giải thích bằng sự lan tỏa của nông nghiệp. Nói cách khác, nghiên cứu này cho thấy, so với người Hoa Nam và Hoa Bắc, người Việt nằm gần gốc của cây phả hệ di truyền hơn; và sự lan tỏa của lúa nước không phải từ Bắc xuống Nam, mà từ Nam lên!

2. Người Việt có nguồn gốc từ những người cổ đã cư ngụ lâu đời tại Việt Nam và họ thuộc nhóm những người đầu tiên thiên di tới Đông Nam Á.

3. Vùng thuần hóa lúa nước đầu tiên phía Đông lục địa Á - Âu cũng là nơi lan tỏa không ít hơn bốn ngữ hệ. Đầu tiên, những người nói tiếng Nam Á, bao gồm 150 ngôn ngữ, như tiếng Việt và tiếng Khmer, lan tỏa khắp Đông Nam Á (và có thể một phần Hoa Nam). Theo chân họ là những nông dân nói tiếng Tày - Thái, như tiếng Lào và tiếng Thái.

4. Quan niệm người Việt bắt nguồn từ người Bách Việt phía nam Dương Tử có lẽ sai sự thật. Theo quan niệm đó thì người Việt không thể có sự đa dạng di truyền lớn hơn so với người Hoa Nam ven biển và người Hoa Nam tại Trường Sa, như các nghiên cứu của Đại học Emory, Mỹ, và Viện nhân chủng học tiến hóa Max Planck, Đức, đã chứng tỏ.

5. Sự thiên di của những người nông dân trồng lúa nước từ Nam lên Bắc phù hợp với sự lan tỏa các dấu gien tại Trung Quốc, như các nhà khoa học tại Đại học Fudan, Thượng Hải, trong Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ 2005 - 2010, và Tổ chức bộ gien người HUGO 2009, đã chứng tỏ.

            Những phát hiện trên khác với quan niệm truyền thống của học giả Việt Nam thể hiện trong bài trả lời phỏng vấn BBC Vietnamese tháng 2 năm 2005, của Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Việt Nam ủng hộ thuyết đa vùng” và “không có chuyện nông nghiệp từ vùng nọ ảnh hưởng tới vùng kia” “Người Việt bị Hán hóa đứt đuôi.” Chúng khẳng định, người Việt Nam là người cổ nhất Đông Á vì là hậu duệ của di dân từ châu Phi tới đầu tiên. Việt Nam cung cấp con người, tiếng nói và cả nông nghiệp cho châu Á.

            Chính việc áp dụng công nghệ di truyền vào khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả Đỗ Kiên Cường đã góp phần hiện đại hóa khoa học nhân văn già nua, lạc hậu của Việt Nam, khiến không ít học giả Việt Nam phải nhìn lại mình.

Tiếc rằng phần thành công không tương xứng với sai lầm của bài viết.

II. Những sai lầm bất cập

Cái cảm giác đầu tiên xuất hiện nơi tôi là, ở bài viết có nội dung rất chuyên sâu này, tác giả dẫn ra quá nhiều kiến thức mang tính giáo khoa phổ thông (như quá trình hình thành tư tưởng phân loại sinh vật…), những kiến thức chết, vô bổ chỉ có tác dụng duy nhất là khoe chữ, khiến cho bài viết trở nên dài dòng, rối rắm. Vượt qua cái cảm giác ban đầu đó, có thể chọn ra những sai lầm, bất cập sau đây:

1. Chủng Mongoloid phương Bắc có nguồn gốc từ chủng Mongoloid phương Nam.

Sai lầm nghiêm trọng do thiếu kiến thức sinh học. Trong khi North Mongoloid mang nguồn gen Mongoloid thuần chủng thì Mongoloid phương Nam là sản phẩm lai giống giữa chủng Mongoloid phương Bắc và chủng Australoid. Là con lai nên độ đa dạng di truyền của Mongoloid phương Nam thấp hơn Mongoloid phương Bắc. Theo quy luật di truyền, chỉ dòng nguyên chủng mới sinh ra con lai. Còn những dòng con lai không thể sinh ra những cá thể nguyên chủng. Con không thể sinh ra cha!

2.  60.000 năm trước, đợt di cư đầu tiên theo ven biển Nam Á tới Đông Nam Á.

Thông tin này do Spencer Wells đưa ra. Nhưng hoàn toàn sai. Bởi lẽ khảo cổ học phát hiện cốt sọ 68.000 [1] năm tuổi ở hồ Mungo châu Úc, là một người Australoid. Hơn thế nữa, khảo cổ cũng tìm được bộ xương người Mongoloid 68.000 năm trước ở Lưu Giang Quảng Tây [2]. Như vậy, cuộc di cư khỏi châu Phi phải diễn ra trước 60.000 năm cách nay!

3. “Dòng gien từ phía Nam hướng lên lưu vực Dương Tử và Hoa Bắc (khoảng 10.000 năm trước) chính là dòng thiên di của những người nông dân Mongoloid đầu tiên.”

Không đúng! Khảo sát gần một trăm sọ thời đồ đá ở Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, cổ nhân chủng học khẳng định: từ 32.000 năm (sọ Sarawak) tới khoảng 5.000 năm trước (người Đa Bút), dân cư Đông Nam Á chỉ duy nhất loại hình Australoid [3]. Vậy người Mongoloid ở đâu ra để từ đây đi lên Hoa Bắc?

4. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa thấy bằng chứng nhân chủng học phân tử ủng hộ sự thiên di của các tộc người ngữ hệ Nam Á từ ven biển Hoa Nam xuống Việt Nam 4.000 năm trước.

Điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khảo cổ và nhân chủng học Đông Nam Á khẳng định, khoảng giữa thiên niên kỷ III TCN, có sự dịch chuyển lớn của người Mongoloid phương Nam từ phía Bắc tới Đông Nam Á, tạo nên sự kiện được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, chuyển hóa đại bộ phận dân cư Đông Nam Á từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Tại Việt Nam thời kỳ này, người Australoid văn hóa Đa Bút tiếp nhận người di cư Mongoloid phương Nam để chuyển thành con người và văn hóa Phùng Nguyên.

5. Khoảng 30.000 năm trước, những người thiên di thuộc làn sóng thứ hai men theo rặng Himalaya để tới Bắc Việt Nam và nhiều nơi khác tại Đông Nam Á, cũng như Vân Nam và Quảng Tây (nơi xuất hiện người hiện đại đầu tiên tại Trung Quốc). Họ có phần đóng góp khoảng 80% trong vốn gien người Việt hiện nay. Qua quá trình tiến hóa lâu dài khoảng 35.000 - 20.000 năm, màu da và hình thái của họ dần biến đổi để trở thành người nguyên Mongoloid (Proto-Mongoloid).

Thực tế bác bỏ chuyện này bởi lẽ, trong thời gian trên, Đông Nam Á chỉ duy nhất người Australoid sinh sống, với bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, có mã di truyền ổn định. Có nghĩa là không có nguồn gen bên ngoài xâm nhập. [Nguyễn Đình Khoa, 1983]. Mặt khác, về mặt sinh học, người Australoid không thể biến đổi màu da và hình thái để trở thành người Nguyên Mongoloid. Hơn nữa, thực tế khảo cổ và cổ nhân chủng học cho thấy, người Mongoloid đã xuất hiện trong tư cách một đại chủng khi đặt chân tới Việt Nam 70.000 năm trước.

6. Đại chủng Mongoloid hoàn chỉnh chỉ xuất hiện khoảng 10.000 trước tại cực nam Hoa Nam và Đông Nam Á.

Hoàn toàn sai.

Ngay tại châu Phi, ba đại chủng Europid da trắng, Australoid da đen và Mongoloid da vàng đã hình thành và cùng rời khỏi đất tổ 72.000 năm cách nay. Trước bức thành băng sừng sững chắn lối, không biết vì lẽ gì, Australoid và Mongoloid “rủ nhau” về phương Đông. Trong khi đó, Europid ém lại trên đất Yemen để 52.000 năm trước, khi khí hậu thuận lợi, họ di cư vào Trung Đông, sau đó vượt eo Bosphorus xâm nhập châu Âu. Không chỉ tìm thấy bộ xương Mongoloid 68.000 năm tuổi tại Quảng Tây mà khảo cổ học còn phát hiện vô số xương cốt Mongoloid  40.000 năm trước trên đất Mông Cổ!

            Có thể chỉ ra nhiều thêm sai lầm khiếm khuyết trong bài viết nhưng xin dừng ở đây để tìm nguyên nhân của chúng.

III. Nguyên nhân của sai lầm

            Tìm nguồn gốc người Việt là chuyện vô cùng khó khăn nên suốt thế kỷ trước, học giả trong nước và thế giới, trong đó có các bác học của Viện Viễn Đông Bác Cổ, dù bỏ nhiều tâm lực cũng đành bó tay. Không thành tựu vì thiếu một tri thức đột phá.

Sang thế kỷ này, di truyền học mở ra phương cách mới để tiếp cận vấn đề. Nhưng thực tế cho thấy, như những phương pháp đã có, di truyền học cũng chỉ là ngón tay chỉ trăng mà không phải trăng! Nó không ít nhược điểm, thậm chí sai lầm. Muốn giải được bài toán, chỉ có thể là người nắm vững tài liệu di truyền nhưng cũng phải uyên bác, lịch lãm, có vốn tri thức đa - liên ngành cần thiết để có thể vận dụng chìa khóa sinh học phân tử mở cánh cửa bí ẩn của tự nhiên.

Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường không có bản lĩnh đó. Thực tế cho thấy, ông có công sưu tầm một số nghiên cứu di truyền xung quanh đề tài nhưng trong nhiều trường hợp, không đủ sức hiểu tài liệu. Hạn chế lớn hơn là ông không có những kiến thức chuyên, liên ngành về khảo cổ, cổ nhân chủng, văn hóa học… để kết nối, giải mã tư liệu.

Do thiếu hụt kiến thức cơ bản về sinh học nên ông nói rất sai rằng, chủng Mongoloid phương Bắc được sinh ra từ Mongoloid phương Nam. Đứng về di truyền, Mongoloid phương Bắc là nguyên chủng, còn Mongoloid phương Nam là con lai. Đa dạng di truyền của Mongoloid phương Bắc lớn hơn. Vì vậy, nó tuyệt đối không thể do Mongoloid phương Nam sinh ra! Thực tế cho thấy, người Mongoloid nguyên chủng (bộ xương Lưu Giang), sau này được gọi là Mongoloid phương Bắc, xuất hiện 68.000 năm trước. Trong khi đó, người Mongoloid phương Nam mới ra đời 7.000 năm cách nay tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ. Cái sai này khiến tác giả bị rối khi nhìn nhận về nhân chủng Đông Á.

Rất sai lầm trong phương pháp luận, khi khảo cứu nguồn gốc người Việt, tác giả không bắt đầu bằng việc tìm hiểu xem khảo cổ học, cổ nhân học đã làm được những gì, rồi trên cơ sở thành quả của người đi trước, sửa điều sai, phát huy cái đúng. Do thiếu kiến thức về khảo cổ, cổ nhân học và văn hóa học nên khi tiếp xúc tư liệu di truyền, tác giả trở nên thụ động, lửng lơ, “chân không tới đất, cật chẳng tới trời,” không thể phân biệt đúng sai, đã đem cái sai của người vào lập thuyết của mình. Điển hình là trường hợp tư liệu của Spencer Wells. Quả thật, lúc đầu cũng như ông Cường, tôi đã theo ý kiến của Wells. Nhưng sau đó, thấy mâu thuẫn nên phải đối chiếu với công trình của J.Y. Chu và S. Oppenheimer cùng nhiều bằng chứng khảo cổ học, để loại Wells khỏi tài liệu tham khảo. Điều này tôi đã nói rất rõ trong cuốn Tìm Cội Nguồn Qua Di Truyền Học. [4]  Với bài viết trên, Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường không chỉ tỏ ra là người đa thư loạn thuyết hoang tưởng mà còn biến mình thành thày bói xem voi trong ngụ ngôn!

                                             Sài Gòn, cuối Thu Giáp Ngọ

                                                                         

 *http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/mot-gia-thuyet-ve-nguon-goc-nguoi-viet-dua-tren-bang-chung-nhan-chung-hoc-phan-tu

Tài liệu tham khảo:

1. The Lake Mungo remains are three prominent sets of bodies: Lake Mungo 1 (also called Mungo Lady, LM1, and ANU-618), Lake Mungo 3 (also called Mungo Man, Lake Mungo III, and LM3), and Lake Mungo 2 (LM2). Lake Mungo is in New South Wales, Australia, specifically theWorld Heritage listed Willandra Lakes Region.[1][2]

LM1 was discovered in 1969 and is one of the world's oldest knowncremations.[1][3] LM3, discovered in 1974, was an early humaninhabitant of the continent of Australia, who is believed to have lived between 40,000 and 68,000 years ago, during the Pleistocene epoch. The remains are the oldest anatomically modern human remains found in Australia to date. His exact age is a matter of ongoing dispute.

http://en.wikipedia.org/wiki/Lake_Mungo_remains

 2.Liujiang-Mensch (柳江人,  Liǔjiāngrén, englisch Liujiang Man) bezeichnet man hominine Fossilien, die 1958 in einer Höhle bei der Ortschaft Tongtianyan inLiujiang im Autonomen Gebiet Guangxi der Zhuang entdeckt und ins späte Mittelpleistozän / frühe Jungpleistozän datiert wurden.[1] Bei diesen Fossilien handelt es sich um einen vollständigen Schädel sowie um einige Knochen aus der Region unterhalb des Kopfes.

Die chinesischen Bearbeiter des Fossils ordneten es dem frühen modernen Menschen (Homo sapiens) zu und verwiesen darauf, dass es Merkmale eines frühen Vertreters der Mongoliden (yuánshǐ Měnggǔ rénzhǒng) aufweise.[2]

Der Schädel gilt als möglicher Kandidat für das älteste Fossil des modernen Menschen, das in Ostasien gefunden wurde, da eine Uran-Thorium-Datierung ein Alter von 67.000 ± 6000 Jahren ergab.[3]

 http://de.wikipedia.org/wiki/Liujiang-Mensch

3. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. DH&THCN, H. 1983

4. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn học. 2011.

 

LẦN THỨ BA THƯA CHUYỆN

VỚI ÔNG TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG

Từng thích thú khi đọc cuốn Sử thời nội chiến của Tạ tiên sinh. Nhưng đọc nhiều bài của ông gần đây trên mạng, tôi cảm thấy buồn về con người mình từng quý trọng. Nơi những bài viết đó, xen với một số ý kiến nghe được lại là những lời xỏ xiên cạnh khóe không xứng với phẩm giá sử gia. Chính vì vậy khi thấy giọng khinh bạc của ông trong “Sử Việt đọc vài quyển” trên BBCOnline ngày 11.5.2005, với những lời mai mỉa sâu cay Giáo sư Kim Định, tôi buộc phải thưa chuyện với ông bằng bài Trao đổi lại với ông Tạ Chí Đại Trường (18/9/2007). Nhưng rồi chỉ hơn năm sau, khi đọc bài Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam, (1) tôi lại phải viết bài thứ hai, Thưa chuyện với sử gia Tạ Chí Đại Trường. Nay, trên hai số liền của tạp chí Xưa&Nay, lại gặp những ý tưởng cũ rích nhàm chán của ông dưới nhan đề Về "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học" Việt Nam. (377) và Ảnh hưởng của Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay (378), tôi không thể không lên tiếng. Không thể bởi lẽ lần đầu tiên, tư tưởng của Kim Định được đưa ra mổ xẻ (chính xác là vùi dập) trên một tạp chí chính thức của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bất quá tam, người xưa nói. Thưa chuyện với ông lần thứ ba chính là tôi muốn nói với độc giả trong nước vì rất nhiều người chưa hiểu về Kim Định. Nếu bài viết này được đăng thì đây là cơ hội vàng để lần đầu tiên, sau 36 năm đất nước thu về một mối, tiếng nói bảo vệ phát kiến lớn nhất về văn hóa dân tộc Việt được công khai cất lên.

Như vậy là sau sáu năm, từ bài giới thiệu “Sử Việt đọc vài quyển” trên BBCOnline, cả giọng điệu lẫn chứng cứ phản bác Giáo sư Kim Định của ông Tạ Chí Đại Trường đều không mới, vẫn là giọng của người ngồi lê đôi mách đầy cảm tính, không hề có chuẩn mực khoa học tối thiểu. Nhưng xuyên qua mớ lời lẽ rông dài rối rắm đó, tôi thấy ông phê phán Kim Định trên hai mặt: phương pháp luận và nội dung học thuyết Việt nho. Xin hầu chuyện ông về cả hai phương diện này.

I. Về phương pháp luận của Kim Định

Bằng giọng diễu cợt: "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học" Việt Nam, ông Tạ Chí Đại Trường ám chỉ phương pháp luận giải mã huyền thoại của học giả Kim Định. Nhưng xin thưa, phương pháp đó chẳng phải do Kim Đinh đặt ra mà đã có từ xưa. Con người khôn ngoan nhận ra rằng, không phải là lịch sử nhưng huyền thoại, truyền thuyết là ký ức của cộng đồng dân cư về sự kiện quan trọng từng xảy ra trong quá khứ. Có nghĩa là những sự kiện lớn xảy ra trong quá khứ, được ghi trong ký ức cộng đồng rồi dần dà được mã hóa thành những truyền thuyết, huyền thoại. Từ nhận thức đó, nhiều người đi sâu giải mã trước hết là những huyền thoại lớn. Nhờ vậy, nhiều sự kiện từ xa xưa được sáng tỏ. Thành công hơn cả là những người giải thích Cựu ước. Từ câu chuyện về Noah, người ta lần ra trận đại hồng thủy 7500 năm trước. Từ truyền thuyết về ngôi Sao Hôm trong ngày Chúa ra đời, người ta tính ra, chúa Giesu được sinh vào một ngày mùa hè tháng Sáu. Cũng từ truyền thuyết trong Cựu ước, người ta viết cả cuốn sách về cội nguồn các sắc dân Trung Đông và Bắc Phi. Trước Kim Định, nhà tiên tri nổi tiếng người Mỹ Edgar Cayce phát hiện nhiều điều bằng giải mã huyền thoại. Sau Kim Định 30 năm, Stephen Oppenheimer, trong cuốn Địa đàng ở phương Đông, nhờ giải mã huyền thoại “các nhà thông thái từ phương Đông tới” đã phát hiện rằng, trong đại hồng thủy, người Đông Nam Á mang giống cây trồng, vật nuôi cùng tư tưởng về nông nghiệp tới Cận Đông. Từ liên hệ giữa chuyện anh em Cain và Abel trong kinh Thánh với truyền thuyết anh em Manup và Culabôp vùng hải đảo Đông Nam Á, ông phát hiện ảnh hưởng của văn hóa Viễn Đông tới thế giới Arập…

Ai đọc Kim Định sẽ thấy, ban đầu khi lập thuyết, ông dựa vào sử Trung Hoa của Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành: “Thoạt kỳ thủy, người Hoa, Việt, Thái, Mông… sống ở phía nam dải Thiên Sơn. Người Việt theo nguồn sông Dương Tử xuống đồng bằng Hoa Nam, lên Hoa Bắc, chiếm cả 18 tỉnh của Trung Hoa, xây dựng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển. Người Hoa do lối sống du mục nên nấn ná tại vùng thảo nguyên Thanh Hải, sau đó vào chiếm đất cùa người Việt, dựng vương triều Hoàng đế…” Ông cũng sử dụng một số tư liệu khảo cố ít ỏi thời đó nói lên mối liên quan của đồ gốm Ngưỡng Thiều và gốm Hòa Bình. Chính những gợi ý từ lịch sử và khảo cổ này cho ông ý tưởng: Một khi người Việt nông nghiệp đã sống hàng vạn năm trên đất Trung Hoa, sau đó đất ấy bị chiếm bởi những bộ lạc du mục rồi từ những bộ lạc du mục, người Hoa trở thành dân nông nghiệp, sở hữu nền văn hóa nông nghiệp phát triển; đến nay, văn hóa Hoa Hạ vẫn mang dấu ấn văn hóa Việt… Vậy thì cái văn hóa gốc ấy phải của người Việt! Trong khi tất cả mọi người tùy thời, cho rằng Việt học Hoa, Việt được Hoa khai hóa, thì bằng linh cảm thần thánh, Kim Định nghĩ ngược lại: chính Hoa học từ Việt! Ông đã tìm thấy chứng cứ cho ý tưởng của mình ở kinh Thư, kinh Thi, trong Khổng Tử nhưng chưa đủ. Vì vậy, theo bước người đi trước, ông tìm trong huyền thoại. (2)

Không phải mọi giải mã truyền thuyết của Kim Định đều thành công. Không thiếu trường hợp khi hăng hái quá đà, ông trở thành tư biện, dẫn tới sai lầm. Loa thành đồ thuyết (3) là một thí dụ. Quá say với phương pháp của mình, ông đã viết cả cuốn sách giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là “biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt”. Khi khảo cổ học phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương Vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện đắp. Hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành hình trôn ốc vì con người sống, đánh trận thế nào trong cái thành quái đản như vậy?!

Việc giải mã huyền thoại thành công hay thất bại tùy thuộc tài năng người sử dụng, nhưng bản thân phương pháp này tồn tại khách quan, như một công cụ để con người tìm hiểu quá khứ. Có thể phê phán Kim Định khi ông diễn giải sai lầm truyền thuyết cụ thể nào đó nhưng không thể phủ nhận rằng, chính nhờ công cụ này, ông đã phát hiện ra gia tài vĩ đại của tộc Việt là nền minh triết Việt nho, đó là phát kiến lớn nhất về văn hóa Việt!

II. Về thuyết Việt nho

Nói một cách đại lược, thuyết Việt nho cho rằng, thoạt kỳ thủy, người Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp minh triết và nhân bản, được gọi là Nguyên nho hay Việt nho. Việt nho được các thánh hiền người Việt đúc kết trong kinh Thư, kinh Thi, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc. Khi chiếm đất Việt, người Hoa Hạ chiếm luôn làm của riêng. Nếu Khổng nho còn giữ được ít nhiều cái gốc nhân bản Việt nho thì Hán nho, Tống, Minh, Thanh nho dã làm sa đọa Việt nho để phục vụ vương triều.

Cái quan trọng nhất trong ý tưởng của Kim Định là ông xác quyết: tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa chiếm đoạt và học theo. Ông kiên quyết đòi lại chủ quyền văn hóa cho tộc Việt.

Những năm Bảy mươi thế kỷ trước, trong bối cảnh tầng lớp trí thức tinh hoa Việt vẫn theo học giả phương Tây cho rằng các làn sóng văn minh được truyền từ châu Âu sang Trung Hoa, Ấn Độ rồi từ đây xuống Đông Nam Á thì những ý tưởng mà Kim Định đưa ra chẳng khác nào chuyện khôi hài, là sự báng bổ lương tri! Đúng như ông Tạ Chí Đại Trường nhận xét, nhiều người im lặng cười khinh vì không thèm chấp! Người phản bác Kim Định kịch liệt nhất có lẽ là nhà văn Bình Nguyên Lộc. Có thể nói, trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Kim Định trở thành bung xung để tác giả phỉ báng! Ông không trả lời Bình Nguyên Lộc trực tiếp mà đã viết cuốn “Vấn Đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam” (Nguồn Sáng 1973) để làm sáng tỏ câu chuyện.

Bốn chục năm đi qua, thời gian làm rõ nhiều chuyện: không phải người Việt Nam có nguồn gốc Mã Lai mà ngược lại, người Mã có nguồn gốc Việt! Nhưng kỳ diệu nhất là, mỗi bước đi của nó là một chứng minh cho sự đúng đắn của thuyết Việt nho. Ngay trước thềm thế kỷ XXI, khoa học tìm ra gốc gác duy nhất châu Phi của nhân loại. Tiếp đó, xác định con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc. Khoảng 20.000 năm trước, người Hòa Bình đã đưa công cụ đá mới lên Trung Hoa và chậm nhất, 12.000 năm trước, đưa cây lúa tới đồng bằng sông Dương Tử… Di truyền học cũng giúp ta phát hiện rằng, những bộ lạc xâm lăng Nam Hoàng Hà năm 2698 TCN không phải người Hán mà là người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid). Chỉ khi vào Trung Nguyên, họ hòa huyết với người Việt, mới sinh ra người Hoa Hạ, thuộc chủng Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Là con lai của tộc Việt, sống trên đất đai và văn hóa Việt, người Hoa đã học nghề nông, tiếng nói, chữ viết cùng văn hóa Việt để xây dựng các vương triều Trung Hoa… Từ thành tựu mới nhất của khoa học nhân loại soi vào tiền sử Á Đông, ta biết rằng, suốt hơn 2000 năm, bên cạnh các vương triều Trung Hoa, vẫn tồn tại những nhà nước hùng mạnh của người Việt: Ba, Thục phía tây; Ngô, Việt, Sở phía đông; Văn Lang phía nam. Những quốc gia Việt này có nền kinh tế và văn hóa rất phát triển để sản xuất ra tượng đồng Ba Thục, kiếm Việt, trống đồng Văn Lang… Tần Thủy hoàng thôn tính các quốc gia Việt, lập nên nhà Tần, thực chất là việc sáp nhập đất đai, dân cư cùng văn hóa Việt vào đế chế Tần. Đất nước Trung Hoa được xây dựng chủ yếu trên cơ sở con người cùng văn hóa Việt! Như vậy, thực tế lịch sử đã đi xa hơn dự cảm dù là thiên tài của Kim Định!

Đi vào cụ thể, đến nay nhiều tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, Hà Hưng Quốc (USA)… chứng minh một cách không thể phản bác rằng, sách Dịch là sản phẩm của Việt tộc. Chỉ cần đưa ra lẽ đơn giản: truyền thuyết Trung Hoa nói Phục Hy là tổ của họ, sống khoảng năm 4480-4369 TCN và làm ra Dịch. Trước đây chưa hiểu gốc gác người Hoa Hạ nên chúng ta chưa thể biện bác. Nhưng nay, xác định được rằng, người Hoa Hạ là con lai của tộc Việt với người Mông Cổ, ra đời khoảng năm 2698 TCN. Vậy, khi nói Phục Hy làm Dịch thì có nghĩa là Dịch xuất hiện 1700 năm trước khi người Hoa Hạ ra đời! Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt!

III. Đánh giá cống hiến của Kim Định

Do nắm bắt một cách hệ thống tri thức khảo cổ học, cổ nhân chủng học, ngôn ngữ, văn hóa học, kết hợp với những khám phá mới về di truyền học dân cư Đông Á, tôi đã xác định được cội nguồn người Việt, người Hoa, người Nhật, người Hàn, người Ấn… Từ đó, bằng những chứng cứ khoa học không thể phản bác, khẳng định người Việt sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp phương Đông rồi trên cái nền ấy, người Hoa Hạ học theo để xây dựng văn hóa Trung Hoa. Chẳng có gì huyền bí cả vì đó là kết quả của khảo cứu khoa học. Nếu hôm nay tôi không làm thì sớm muộn gì cũng có người khác tìm ra!

Nhưng điều mà tôi và không ai khác làm nổi là khám phá bản thể của nền văn hóa nông nghiệp Việt tộc. Một phát kiến thực sự vĩ đại mà duy nhất thiên tài Kim Định làm được! Nó quá lớn lao tới độ sau nửa thế kỷ, nhiều người vẫn còn ngỡ ngàng. Trong sự pha trộn, đa tạp của Khổng nho, Hán nho, Tống nho rồi Minh, Thanh nho… ông chỉ ra nền văn hóa Việt cội nguồn minh triết và nhân bản với bốn yếu tố:

1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa.

“Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy là bản thể mà cũng là sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái “đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông minh triết đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5: Dương + Âm = 5 = con số vũ trụ! Nhưng vấn đề đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2! Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên, là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương, của Trời là 3 còn dành cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất. Nhận thức ra bí mật lớn này của vũ trụ nhưng phương Đông không cứng nhắc nói “tam thiên nhị địa” mà ghi nhận theo minh triết “tham thiên lưỡng địa”: đúng là 3/2 đấy nhưng không phải là tương quan toán học cố định mà là tương quan biện chứng: lúc 3 nhưng có khi du di lớn hoặc nhỏ hơn 3 chút ít, đảm bảo sự năng động của phát triển.

Quan niệm như vậy của phương Đông khác hẳn quan niệm phương Tây. Vốn từ những người săn bắt hái lượm trọng động, chuyển sang du mục cũng trọng động, phương Tây quan niệm về một phương thức sống năng động, triệt để khai thác thiên nhiên cùng cạnh tranh với những bộ lạc khác. Trong con mắt của người phương Tây, vũ trụ cũng như cuộc sống vận hành theo tỷ lệ Dương 4 Âm 1. Đó là sự phát triển nóng, dẫn tới Dương cực thịnh, Âm cực suy, cuối cùng là phá vỡ cân bằng của thiên nhiên, của xã hội, gây ra thảm họa cho con người.

2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.

Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ ba yếu tố: Thiên, Địa và Nhân, trong đó con người là trung tâm của mối quan hệ này! Là chủ thể của vũ trụ, con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại. Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác.

3. Đạo Việt an vi.

Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại, con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ, không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng nhưng không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự.

4. Bình sản

Ba hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân chia tài sản thời cổ, đó là tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm chín phần đều nhau. Tám gia đình cày cấy tám phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần ruộng ở giữa, gọi tỉnh điền. Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy.

Bốn yếu tố kể trên là những đặc tính của văn hóa Việt cổ mà tôi gọi là hạt nhân minh triết, được hình thành từ xa xưa, rồi bị phiêu dạt, chôn vùi qua biến động lịch sử, hầu như mất dạng. Chính vì vậy, khai quật ra điều này là phát kiến lớn nhất của văn hóa Việt.

Không chỉ vậy, trong cuộc đời mình, Kim Định cho in 45 cuốn sách với hơn 8000 trang. Đó là cả một rừng chữ. Chưa mấy ai đi hết rừng chữ ấy và cũng chưa có ai dám nói là hiểu hết những gì Kim Định đề xuất nhưng có thể thấy trong đó định nghĩa khác về triết học để nêu bật vai trò quan trọng của minh triết phương Đông với văn hóa nhân loại. Cũng tìm được trong đó một nguyên lý giáo dục vừa khoa học vừa nhân bản được đề xuất nhằm phục hưng nền giáo dục đang sa đọa. Ở đó còn một đường lối xây dựng văn hóa cho nước Việt từ những phát kiến sâu thẳm của văn hóa cội nguồn. Ông cũng vạch ra mối tương quan văn hóa Đông Tây, sự khác biệt giữa du mục và nông nghiệp để tìm ra con đường đi tới của nhân loại… Điều chắc chắn, đó là kết quả của tấm lòng yêu nước, yêu dân tộc chân thành và trí tuệ siêu việt. Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn. Năm 1946, do viết cuốn sách phê bình chủ nghĩa Mác (5), ông bị truy đuổi. Những năm sau này, là linh mục nhưng quá đề cao tinh thần dân tộc, ông không được lòng bề trên. Kết quả là, mười năm cuối đời (1987-1997), ông sống tại một nhà tu nước Mỹ, trong cô đơn và bị kiểm soát gắt gao. Học trò muốn gặp ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người giám sát. Lúc bị đột qụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất trong đó có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hoàn tất để chờ xuất bản. Tới nay không ai biết máy tính đó đã đi đâu. Thật là một mất mát lớn lao cho văn hóa Việt! Nhân cách và cống hiến của ông đáng để cho chúng ta kính trọng.

Có thể bình luận về phương pháp luận cũng như chủ thuyết của Kim Định, nhưng khi truy nguyên động cơ của ông để phê phán thì Tạ Chí Đại Trường đã sa vào suy đoán ngoài khoa học: “Có thể nói lí thuyết Kim Định bắt nguồn từ ý tưởng bốc đồng huênh hoang của nhà chính trị trong thời gian mất nước vào tay người Pháp, cụ thể là của triết gia chính trị Lý Đông A/Nguyễn Ngọc (Hữu?) Thanh, Thư kí trưởng đảng Đại Việt Duy dân. Mất nước, người ta tưởng tượng ra một nước Việt Nam thời độc lập huy hoàng, to rộng…” “Lý Đông A mơ ước đến một Đại Bách Việt/Hồng Việt, một Đại Nam Hải…chỉ vì có quá khứ huy hoàng của một thời “văn hóa Môn””… Không, ý tưởng của những nhà yêu nước như Lý Đông A, Nguyễn Hữu Thanh, Trương Tử Anh… không hề là “bốc đồng”, mà nó phản ánh tâm thức của cả một dân tộc nô lệ tìm sức mạnh từ quá khứ cho công cuộc giải phóng. Cũng không hề “huênh hoang” vì tâm linh mách bảo rằng tộc Việt từng có quá khứ huy hoàng. Thời gian chứng tỏ các vị đã đúng vì giang sơn huy hoàng Lạc Việt là có thật! Không chỉ các vị mà đó còn là ý nguyện sâu thẳm của nhiều thế hệ Việt. Thậm chí ngày nay, tại Đài Loan, Quảng Đông vẫn còn người gốc Việt mơ ước về một liên bang Bách Việt! Mỉa mai, báng bổ những vị tiên liệt từng hy sinh cuộc đời vì lý tưởng giải phóng dân tộc, ông Tạ Chí Đại Trường không chỉ thiếu một tấm lòng!

Năm năm sau lần trao đổi đầu tiên với Tạ tiên sinh, tôi đã ngược thời gian, đi chặng đường dài về nguồn cội với ba cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (Văn học, 2006), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011). Chẳng biết có phải là kẻ “dân tộc cực đoan” không, nhưng chắc chắn rằng trong hai cuốn đầu, tôi đã phục dựng thành công lâu đài nguy nga kỳ vĩ của cội nguồn và văn hóa Việt. Còn cuốn thứ ba, là những bậc - cấp - khoa - học vững chãi để khi lên đó, người đọc tin rằng không phải “lâu đài cất bằng hơi nước!” Hơn thế nữa, nó cung cấp phương pháp luận mới, góp phần làm lại nền khoa học xã hội nhân văn tiền - di truyền học (pre-genetics) đang lạc hậu và lạc đường thê thảm!

Trên mỗi bước đi, tôi đều thấy bóng dáng lồng lộng của triết gia Kim Định trong tư cách người chỉ đường thông tuệ, có lòng yêu dân tộc vô hạn. Vậy mà buồn thay, suốt từng ấy ngày tháng, có người kiên trì phản bác ông vẫn bằng giọng ngồi lê đôi mách vô sở cứ!

Cũng như hai lần trước, lần thưa chuyện cuối cùng này tôi không hy vọng sử gia có lời để trả. Dù biết là khoa học luôn phủ định thì với tầm mức trí tuệ nhân loại hiện nay, người có thể phản bác những luận cứ của tôi chỉ ra đời khi nào một khoa học công nghệ mới xuất hiện, lật ngược di truyền học hiện đại, chứng minh được rằng: không phải loài người Homo sapiens được sinh ra trước nhất tại châu Phi. Người tiền sử không theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam và người Việt Nam không có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất, có nghĩa là cổ nhất Đông Á! Nhưng liệu có không một ngày như thế?!

Nói công bằng, trong bản văn công bố lần này, ông Tạ Chí Đại Trường có điều mới và đúng: người ủng hộ triết gia Kim Định ngày càng nhiều! Không chỉ những học trò Kim Định ở Anh, Mỹ, Úc lập Hội An Việt, in sách vở, dựng đài phát thanh quảng bá ông mà con em những người miền Nam xưa “im lặng cười khinh” cũng tìm học. Và lạ lùng hơn là người Hà Nội. Trước Bảy Lăm, miền Bắc hầu như không biết tới Kim Định. Sau đó thì sách của ông bị cấm. Nhưng, như Tagore nói: “Tư tưởng đi nhanh như gió. Gió qua biên giới không cần giấy thông hành,” xa lộ thông tin mang tư tưởng ông tới tận cùng ngõ ngách. Người Hà Nội với chiều sâu ngàn năm văn hiến vốn thâm trầm, không dễ tin. Nhưng khi thấy những “hạt nhân hợp lý” từ Kim Định, họ đã hưởng ứng. Và không như người đọc miền Nam nửa thế kỷ trước, bơ vơ ngơ ngác trước phát kiến mới lạ, rồi bị đám học phiệt bảo thủ làm rối trí. Hôm nay người Hà Nội tiếp nhận Kim Định trong bối cảnh học thuyết Việt nho đang tỏa sáng rực rỡ. Nếu thực sự khách quan, thực sự cầu thị, trước khi viết tiếp những lời phỉ báng, ông Tạ Chí Đại Trường nên bắt chước người Mỹ đặt câu hỏi “Why? Vì sao vậy? Vì sao ông càng rủa xả, người theo Kim Định càng nhiều?!”

                                                       Ngày 5 tháng Năm 2011

 

Tài liệu tham khảo:

1.http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=493

2. Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm Sài Gòn, 1970.

3. Kim Định. Loa thành đồ thuyết. Thanh Bình Sài Gòn, 1973.

 

GÓP PHẦN GIẢI MÃ DI CẢO CỦA

SỬ GIA TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG

Không biết có phải vì tôi ba lần “thưa chuyện” với ông mà trong Di cảo, sử gia họ Tạ cũng ba lần nhắc tới tôi. Thực lòng, khi thưa chuyện với ông, tôi chỉ muốn cung cấp những phát hiện lịch sử mới để mong rằng với danh tiếng của mình, ông giúp bạn đọc nhìn nhận lại lịch sử. Thật buồn, do “không có duyên” nên trong Di cảo, ông vẫn băn khoăn trăn trở đẩy những cánh cửa… mở. Nay ông đã thành người thiên cổ. Mọi chuyện luận bàn với ông là vô nghĩa, nhưng thể theo lời đề nghị chí tình của Diễn Đàn Thế Kỷ*, tôi xin mạo muội góp phần giải mã những “u ẩn” của người đã khuất.

Có thể dẫn ra những “u ẩn”nổi cộm trong Di cảo như sau:

1. Về Hồng Bàng thị truyện.

Tài liệu truyền thống cho rằng, truyện họ Hồng Bàng vốn được lưu truyền từ xa xưa trong ký ức người Việt. Tới đời Trần được ghi lại trong Lĩnh Nam chích quái. Nhưng L. Kelley dựa vào việc những biến thể của câu chuyện có mặt trên đất Trung Hoa như Liễu Nghị truyện hay trong Hoa Dương Quốc chí nên cho rằng, vào thời Trung đại, những trí thức người Việt được Hán hóa đã sao chép câu chuyện đó vào Lĩnh Nam Chích Quái để tô vẽ cội nguồn dân tộc Việt. Ông Tạ Chí Đại Trường ủng hộ quan điểm này.

Tuy nhiên, có thể thấy, khi làm việc đó, Kelley đã thực hiện một thao tác suy luận theo logic hình thức đơn giản, chỉ dựa trên sách vở mà bỏ qua sự thực lịch sử. Ông không biết rằng, trong quá khứ, dân cư từ Nam Dương Tử xuống tới Việt Nam đều là người Việt, cùng một chủng tộc, cùng tiếng nói, văn hóa, cùng chung một lịch sử. Từ năm 1936, khảo cổ học Trung Quốc phát hiện di chỉ văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ.[1] Sau nhiều năm khảo cứu, đã kết luận, có một nhà nước cổ đại tồn tại từ 3.300 – 2.300 năm TCN, mà kinh đô là Lương Chử, còn ranh giới gần khớp với địa giới nước Xích Quỷ truyền thuyết. Chủ nhân nhà nước này là người Lạc Việt. Những vật khắc bằng ngọc cho thấy, dân cư Lương Chử được gọi là Vũ nhân (羽人) hay Vũ dân (羽民). Điều này cho thấy có mối liên hệ với chim, với Hồng Bàng (洪龐). Khám phá trên cho ta lý do để kết nối nhà nước Lương Chử với nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Như vậy, Xích Quỷ là một thực thể quốc gia từng tồn tại. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy tiên nữ con Động Đình Quân đã trở thành truyền thuyết mang ý nghĩa cội nguồn của người dân trong nước. Khi Xích Quỷ tan rã, dân cư sống trên đất cũ Giang Nam và Việt Nam vẫn giữ truyền thuyết Hồng Bàng thị như dấu ấn của nguồn cội. Về sau, truyện dân gian được ghi vào sách. Do không hiểu quá trình lịch sử này, L. Kelley chỉ căn cứ vào biên giới quốc gia hiện tại mà chia tách người Việt Nam và người Nam Dương Tử trong quá khứ một cách khiên cưỡng. Sai lầm của Kelley thuộc về trình độ học thuật. Tiếc là sử gia họ Tạ hiểu lịch sử dân tộc không khác gì người ngoài! [2]

2. Về thời kỳ Hùng vương trong sử Việt.

Muốn biết tổ tiên người Việt là ai cần phải biết quá trình hình thành của người Việt trong lịch sử. Khảo cổ học cho thấy, suốt thời đồ đá, dân cư trên đất nước ta thuộc chủng Australoid. Nhưng sang thời kỳ kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở nên chủ thể của dân cư Việt Nam. Tại nhiều di chỉ thời Phùng Nguyên phát hiện di cốt của người Australoid lẫn người Mongoloid. Đặc biệt tại di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình có tuổi 2000 năm TCN, tìm được nghĩa địa chôn chung 30 di hài của hai chủng người này. Các nhà khảo cổ Việt-Úc đưa ra kết luận: “Trên đất Việt Nam có quá trình chuyển hóa dân cư từ người Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam và được hoàn thành khoảng 2000 năm TCN.” Phát hiện này cho thấy, có việc người Mongoloid từ nơi khác tới, chung sống lâu dài, đã chuyển hóa di truyền của người Việt từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Như vậy, đây là việc “diễn biến hòa bình” mà không phải là “xâm lăng diệt chủng” như người Arian thực hiện ở Ấn Độ 2000 năm TCN.

Câu hỏi thứ hai: người Mongoloid từ đâu tới? Do suốt thời đồ đá, ở Đông Nam Á có duy nhất người Australoid sinh sống nên người Mongoloid phương Nam chỉ có thể từ phương Bắc xuống. Khảo cổ học xác nhận, người Mongoloid phương Nam xuất hiện đầu tiên tại văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước. Đó là sản phẩm hòa huyết giữa người du mục Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) và người Việt chủng Australoid ở Nam Hoàng Hà. Người Ngưỡng Thiều tăng nhân số, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, là chủ nhân của đồng bằng Trong Nguồn và vùng Thái Sơn. Khoảng 4.000 năm TCN, tại đây xuất hiện các vị vua huyền thoại của người Việt là Phục Hy, Nữ Oa. Khoảng 3.300 năm TCN, nhà nước của Thần Nông ra đời mà kinh đô tại Lương Chử vùng Thái Hồ. Khoảng năm 2879 TCN, kế tục quốc thống của Thần Nông, nhà nước Xích Quỷ ra đời. Thời gian này người Mông Cổ du mục tăng cường đánh phá phía nam Hoàng Hà. Sau trận Trác Lộc năm 2698 TCN, họ Hiên Viên vào chiếm một phần đồng bằng Trong Nguồn, lập vương triều Hoàng Đế. Do sức ép của quân xâm lăng, người Việt di cư về phương Nam. Khoảng 2300 năn TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, người Việt di tản nhiều hơn xuống phương Nam. Người di cư mang gen Mongoloid trở về chuyển hóa di truyền dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam. Có thể trong thời kỳ này, truyền thuyết về Vua Hùng xuất hiện. Trong tiếng Việt cổ, bố -> bua -> vua cùng có nghĩa là cha. Khi người dân tôn Hùng vương làm vua cũng có nghĩa coi ngài là cha rồi thành tổ chung của cộng đồng. Cố nhiên, không phải vua Hùng sinh ra tất cả mà những người Mongoloid di cư trở về lai với người tại chỗ sinh ra người Mongoloid trên đất Việt. Không chỉ vậy, những đợt di cư tiếp theo, người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái-Trong Nguồn, từ vùng Động Đình Hồ trở về hòa huyết với dân nhiều nơi khác, tiếp tục sinh ra người Mongoloid phương Nam. Cho tới khoảng 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư Việt Nam thành chủng Mongoloid phương Nam. Tất cả đều coi người di cư về đầu tiên Lạc Long Quân và Hùng vương là quốc tổ. Do vậy, không chỉ người Kinh mà tất cả các tộc người trên đất Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam đều là con cháu vua Hùng. Cùng nhận được nguồn gen Mongoloid từ con cháu vua Hùng thì việc người Tây Nguyên, người Khmer Nam Bộ thờ vua Hùng có gì là trái lẽ? [2] Nếu ai để ý, sẽ thấy hiện tượng là, trong cổ tích về cội nguồn của các sắc dân thiểu số phía Bắc như người Dao, Mường… đều cho rằng, người Kinh là em út. Trong khi đó, cổ tích nhiều sắc dân Tây Nguyên lại gọi người Kinh là anh cả. Phải chăng điều này phản ánh thực tế phát sinh dòng giống từ xa xưa đã in sâu trong ký ức cộng đồng?

3. Chuyện “người Việt vào Trung Hoa trước”

Không hiểu vì sao, cho đến nay ông Tạ Chí Đại Trường vẫn căng thẳng với cụ Kim Định về ý tưởng “người Việt vào Trung Hoa trước”? Nói cho cùng, đó đâu phải là hư cấu của Kim Định? Chính là ông dựa vào sách của hai học giả Trung Quốc Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành. Không những thế, cho tới năm 1924, trong một bài giảng cho đảng viên cao cấp của Quốc dân đảng, Tôn Dật Tiên cũng cho rằng, khi người Trung Quốc từ phía Tây xâm nhập, họ đã gặp những người man di ở đây rồi. Không chỉ vậy, tới năm 2005, học giả Trung Quốc Zhou Jixu cũng cho rằng, khi người Trung Quốc Indo-Europian từ phía Tây vào thì họ là khách, chiếm vị trí người chủ đã sống ở đó từ trước. Đấy là chuyện sách vở. Nhưng sự thực lịch sử còn đẹp hơn mong ước của Kim Định: đúng là người Việt vào Trung Quốc trước nhưng không phải từ Nam Thiên Sơn xuống mà lại từ Việt Nam lên. Do vậy, thuyết Việt nho của Kim Định càng có cơ sở vững chắc. [3]

4. Về chuyện “người Lê Mường”, “Trịnh Lào”

Trong Di cảo, ông Tạ cho rằng, khi nhấn mạnh vai trò nam tiến của người Việt, người cộng sản bỏ qua vai trò của 53 cộng đồng khác!

Có một thực tế: Sử học là khoa học nghiên cứu hoạt động xã hội của con người trong quá khứ. Do vậy, điều tiên quyết cho thành công của Sử học là phải xác định được đối tượng nghiên cứu. Nếu không xác định đúng đối tượng nghiên cứu: một tập đoàn người, một chủng tộc, một quốc gia đang nghiên cứu là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình hình thành ra sao, mọi nghiên cứu cầm chắc thất bại. Nhưng đó lại là công việc của Nhân học. Sử học là cái nghề ăn theo bén gót Nhân học. Thật không may, Nhân học thế kỷ XX chỉ dựa vào những hòn đá, những mẩu xương hóa thạch nên thất bại trong việc khảo cứu nguồn gốc loài người cũng như các tộc người. Do vậy, suốt thế kỷ trước, các sử gia luôn nói về người Việt, người Hoa, người Mường, người Lào, người Thái… nhưng thực sự chẳng hiểu họ là ai nên hầu hết chỉ là nói mò! Chỉ sang kỷ nguyên mới, khi công nghệ di truyền vào cuộc, ta mới có hiểu biết minh xác về các chủng người. Tuy Việt Nam chưa bỏ đồng xu nhỏ cho việc này nhưng do đất Việt là nơi phát tích của dân cư châu Á nên nhiều nghiên cứu di truyền học đề cập tới dân cư Việt Nam. Những tài liệu đó cho thấy rằng, 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư trên đất Việt Nam đều thuộc chủng (race) Mongoloid phương Nam. Người Kinh, người Mường, người Thái, Người Tày, người Dao… chỉ là những sắc tộc (ethnicitíes) của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay chúng ta vẫn lầm khi cho rằng, đồng bằng sông Hồng là nơi phát tích của dân tộc Việt Nam. Sự thực là, 70.000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã định cư tại vùng Thanh Nghệ rồi lan ra toàn Đông Dương và đất Trung Hoa. Khoảng 500 năm TCN, khi đồng bằng sông Hồng hình thành, người Việt từ phía bắc Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai phá đất mới. Do cùng nòi giống, tiếng nói và văn hoá nên con người sống với nhau hòa hợp. Nhờ điều kiện môi trường sống thuận lợi, cộng đồng dân cư đồng bằng ra đời, được gọi là người Kinh. Như vậy, người Kinh là lứa con út của dân tộc Việt.

Người Việt vốn do người Lạc Việt đa số lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ nên tiếng nói chung là đa âm, vô thanh. Do người Việt từ Trung Quốc trở về như người Thái, Tày, người Hẹ (Hakka), người Hán mang theo tiếng nói đơn âm, hữu thanh nên người đồng bằng dần dần chuyển sang tiếng nói đơn âm hữu thanh. Cũng do suốt quá trình lịch sử dài, người từ Nam Dương Tử trở xuống thuộc cùng chủng tộc, cùng văn hóa, cùng quốc gia nên việc di chuyển của con người trong một nước là chuyện bình thường. Vì vậy, dòng chuyển dịch của người Việt từ phía bắc về diễn ra lâu dài. Sau này, dù quốc gia chia ranh giới nhưng máu huyết và văn hóa giữa con người không dễ phân lìa. Người Việt từ Trung Quốc như tổ tiên của Lý Bôn, thân phụ Đinh Bộ Lĩnh, nhà Lý, nhà Trần… trở về sinh sống, xây dựng đất Việt - mảnh đất cuối cùng còn tự chủ của tộc Việt- là xu hướng tất yếu của tâm linh và lịch sử…[4]

5.  Ai là chủ của thơ lục bát?

Dẫn việc nhà văn Võ Phiến “buột miệng” nói rằng, thơ lục bát là của người Chăm, ông Tạ khơi ra cuộc tranh chấp “bản quyền” thơ lục bát giữa người Chăm và người Kinh. Thực ra, không chỉ ở người Chăm mà trong nhiều câu ca của người Mường, người Dao cũng có bóng dáng của thơ lục bát. Ta biết rằng, người Việt từ xa xưa có thói quen hay hát, múa: hát Ghẹo, hát Xoan, hát Đối, hát Đúm… Ngoài âm nhạc cho mỗi loại hình ca hát mà chủ đạo là nhịp tương đối cố định thì lời bài hát lại rất thay đổi, linh động tùy theo hoàn cảnh. Vì vậy, sáng tạo lời cho bài hát là cuộc đua trường kỳ giữa trai tài gái sắc trong lễ hội hay những cuộc vui. Từ kinh nghiệm hàng nghìn năm của cuộc đua này, người Việt nhận ra, những bài vè lần lượt 6 tiếng rồi 8 tiếng nối nhau theo vần chân hay vần lưng rất dễ chuyển thành những bài hát theo các điệu khác nhau. Do vậy, dần dần thể vè 6-8 ra đời. Cố nhiên thời đó ngôn ngữ đa âm, vô thanh nên số tiếng trong mỗi câu ca không cố định, thường nhiều hơn 6-8. Những bài vè như vậy trở thành tài sản chung của cộng đồng Lạc Việt. Bài ca lục bát được ghi lại sớm nhất là Việt nhân ca trong sách Thuyết uyển 2800 năm trước. Đó là bài ca của người Việt chèo thuyền cho vị quân vương nước Sở. Cảm vì lời ca hay nhưng mình không hiểu, vị quân vương yêu cầu dịch sang tiếng Sở. Nhờ vậy bài ca được ghi lại bằng chữ Sở. Sau này được sao lại bằng chữ Hán trong sách Thuyết uyển. Hơn 2000 năm qua đi, bài ca thở thành quốc bảo của Trung Hoa nhưng không ai hiểu đúng nghĩa của nó. Chỉ mới đây, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành phục nguyên bài ca trở lại tiếng Việt thì phát hiện ra đó là bài thơ lục bát. [5] Điều này chứng tỏ, thơ lục bát là tài sản chung của các bộ tộc người Việt từ xa xưa. Đến nay một số sắc dân vẫn giữ được hình thức thơ này nhưng thể hiện bằng ngôn ngữ đa âm của mình.

Trong khi đó, nơi người Kinh, do tiếng nói được đơn âm hóa triệt để cùng với thanh điệu phong phú, nói như hát nên người Kinh sáng tạo được những câu ca lục bát có vần điệu tuyệt vời mà đỉnh cao là Truyện Kiều.

                                                            Sài Gòn, 28.5.2016

 

*www.diendantheky.net/.../di-cao-cua-nha-su-hoc-ta-chi-ai-truong.html

 

Tài liệu tham khảo

1. Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. NXB Hội Nhà văn, H. 2017.

2. Hà Văn Thùy. Khẳng định Kinh Dương vương là thủy tổ người Việt Nam

http://trannhuong.net/tin-tuc-16409/toi-khang-dinh-kinh-duong-vuong-la-thuy-to-nguoi-viet-nam.vhtm

3. Hà Văn Thùy. Thêm một lần buộc phải tranh biện với G.S L. Kelley.

4.  Hà Văn Thùy.  Truy tìm nguồn gốc người Kinh thuyhavan.blogspot.com/2016/01/truy-tim-goc-tich-nguoi-kinh.html

5.Đỗ Ngọc Thành. Phát hện lại Việt nhân ca (越人歌) - Việt Văn Mới Newvietart       newvietart.com/index4.606.html

 

BÀN TIẾP VỚI ÔNG TẠ ĐỨC

VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT-NGƯỜI MƯỜNG

Trong những bài trước trao đổi về cuốn sách của ông Tạ Đức, chúng tôi đặt vấn đề có tính cách nguyên lý: tìm nguồn gốc con người (loài người, tộc người thậm chí cá nhân cụ thể) là công việc của khoa học tự nhiên. Là khoa học tự nhiên nên nó thuộc về kỹ thuật và công nghệ, những khoa học chính xác. Thế kỷ trước sử dụng phương pháp nghiên cứu hình thái học sọ (metric) để phân loại các chủng người. So sánh số đo sọ cổ với sọ người hiện đại, nhà nghiên cứu xác định chủng loại các cốt sọ. Phương pháp này giúp khám phá những nét lớn của nhân chủng. Nhưng trong những sự việc cụ thể, tế vi, nó không đủ độ tin cậy nên đã gây những lầm lẫn tai hại. Trong thế bí, người ta phải so sánh những sản phẩm văn hóa như công cụ đá, đồ gốm, đồ đồng, cách mai táng, tiếng nói… để xác định chủ nhân của chúng. Tuy có những kết quả nhất định nhưng phương pháp gián tiếp này cũng không đạt được mức độ tin cậy cần thiết. Vì vậy, cho tới cuối thế kỷ XX, vấn đề quan trọng nhất của nhân học là nguồn gốc con người chưa được giải quyết, khiến khoa học nhân văn khủng hoảng nghiêm trọng. Suốt thế kỷ trước, nguồn gốc người Việt Nam là vấn đề được tranh luận nhiều. Từ những nghiên cứu của Viện Viễn Đông Bác Cổ, Đào Duy Anh cho rằng, người Melanesien có mặt trước tiên trên đất nước ta. Tiếp đó, người Indonesien từ Ấn Độ sang thay thế họ. Cuối cùng, người Mongoloid từ Trung Quốc xuống, đẩy người Indonesien lên rừng núi Tây Nguyên và các đảo Đông Nam Á…

Do nguồn gốc con người chưa được xác định nên nguồn gốc văn hóa Việt cũng chưa rõ ràng. May mắn là tới thập kỷ 1980, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa khảo sát lại sưu tập 70 sọ cổ tìm thấy ở Việt Nam, đã phát hiện: “Suốt Thời kỳ Đá mới, dân cư trên đất nước ta là người Australoid. Nhưng sang Thời Đồng-sắt, người Mongoloid đã là chủ thể đất này.” Nghiên cứu cũng khẳng định: Người Việt và người Mường cùng một nguồn gốc. Các khảo cứu tiếng nói của GS Phạm Đức Dương và đồng nghiệp cũng ủng hộ ý kiến này. Đây là khám phá quan trọng nhất về dân cư Việt Nam trong thế kỷ XX.

Cho tới năm cuối cùng của thế kỷ, công nghệ di truyền được áp dụng vào tìm nguồn gốc loài người. Như cây đũa thần, giải pháp gen không chỉ giúp xác định chính xác nguồn gốc loài người, nguồn gốc và quá trình hình thành các chủng người mà kỳ diệu hơn là tìm chính xác hậu duệ của một người thời đồ đá bị đóng băng 5000 năm trước, đang sống giữa chúng ta !

Đúng như câu ngạn ngữ “Mọi con đường đều dẫn tới La Mã” thì hầu hết phát hiện di truyền thập kỷ vừa qua đều liên quan tới Việt Nam! Thật đơn giản bởi vì Việt Nam là nơi phát tích không chỉ của toàn bộ dân cư phương Đông mà còn của một phần quan trọng nhân loại. Đấy chính là may mắn, là hạnh phúc lớn cho những nhà nghiên cứu người Việt trên đường tìm lại nguồn gốc dân tộc.

Nhạy bén, năng động tiếp cận nguồn thông tin này từ rất sớm, nhóm Tư Tưởng ở Úc đã có những nghiên cứu đầu tiên từ năm 2001. Năm 2003, Luật sư Cung Đình Thanh cho ra cuốn sách Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới Của Khoa Học. Ở thời điểm ra đời, nó là công trình mang tầm tri thức tiên tiến, có những phát hiện đột phá về cội nguồn dân tộc Việt. Năm 2007, tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp cho ra cuốn Khoa Học Soi Sáng Lịch Sử, cũng góp phần soi tỏ cội nguồn. Tiếc là cuốn sách bị nghiền làm bột giấy!

Từ năm 2004, may mắn được biết công trình Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of Populations in China), chúng tôi tập trung toàn bộ tâm lực nghiên cứu về thời tiền sử dân tộc. Từ khảo cứu, chúng tôi nhận thấy: 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi, theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Sau khoảng 20-30.000 năm định cư tại đây, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ, lên Trung Quốc. Kết hợp tư liệu di truyền học với nghiên cứu cổ nhân chủng, chúng tôi phát hiện: Tại Việt Nam, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hỗn hòa, sinh ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc nhóm loại hình Australoid. Trong đó, chủng Indonesian là đa số, người Melanesian đứng thứ hai. Di cư tới Việt Nam là những nhóm nhỏ khoảng 15-20 người, có thể khác nhau về chủng tộc và tiếng nói. Do sống chung lâu dài trên đất Việt, họ hòa huyết với nhau đồng thời cũng hòa chung tiếng nói. Ngôn ngữ Nam Á của người Indonesian (Lạc Việt) trở thành ngôn ngữ nền của cộng đồng. Khi di cư, từng nhóm người mang theo bộ gen chung Australoid và tiếng nói của sắc tộc mình, trong đó có nhiều yếu tố của ngôn ngữ nền Nam Á. Do sống trên những vùng địa lý có thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, tiếng nói của họ phân hóa thành những nhóm riêng biệt. Sau này, phát hiện trên đất Việt Nam và Trung Hoa những nhóm ngôn ngữ khác nhau là Tày-Thái, Nam Á, Nam Đảo… các học giả cho rằng đó là những chủng người có nguồn gốc khác nhau. Giải thích vì sao giữa những chủng tộc khác nhau này lại có rất nhiều yếu tố chung về ngôn ngữ, họ cho rằng, do sống gần gũi, các chủng người đã học từ nhau. Chính cách giải thích có vẻ hợp lý này đã che lấp quan hệ cùng nguồn của dân cư Đông Á, gây những hệ quả tai hại tới tận hôm nay.

            Các phát hiện khảo cổ học cho thấy, cho tới trước 5.000 năm TCN, trên toàn bộ Đông Á, chỉ có duy nhất người Australoid. Nhưng khoảng 5000 năm TCN, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà. Đó là chủng người sinh ra do lai giống giữa người Việt Australoid và người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid). Sống trên đất Việt, mang máu huyết Việt nên họ cũng là người Việt.

Khoảng 2.698 năm TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ vào Nam Hoàng Hà, người Việt vùng Núi Thái - Trong Nguồn di tản xuống Việt Nam. Người Mongoloid phương Nam trong đoàn di tản hòa huyết với người bản địa, sinh ra người Mongoloid phương Nam Việt Nam, là dân cư văn hóa Phùng Nguyên. Sau đó, do quân xâm lăng mở rộng lãnh thổ, người Việt vùng Núi Thái –Trong Nguồn và cả người Việt ở cửa sông Dương Tử di cư xuống Việt Nam và qua Việt Nam xuống Đông Nam Á, chuyển hóa di truyền dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam. Khảo cố học cho thấy, khoảng 2.000 năm TCN, hầu hết dân cư Việt Nam cũng như Đông Nam Á mang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nói như ông Tạ Đức rằng, người Môn, Man xuống Việt Nam trước, trở thành người Mường. Người Lava xuống sau, khoảng 700 năm TCN, thành người Việt là trái ngược với sự thật lịch sử và cũng trái ngược với tư liệu khảo cổ và di truyền học. Bởi lẽ, từ 2.000 năm TCN, tất cả dân cư Việt Nam là cùng một chủng Mongoloid phương Nam nên người Mường cũng như Tày, Thái cùng các dân Chăm, Êđê, Bana… đều cùng một nguồn gốc. Vào thời Xuân Thu 700 năm TCN, Trung Quốc không có biến động đặc biệt gây nên những cuộc di dân lớn. Chỉ khoảng năm 333 TCN, do nước Sở diệt nước Việt, mới có cuộc di cư đáng kể của người nước Việt (con cháu Việt vương Câu Tiễn) vào Bắc Việt Nam. Nhưng số dân này chỉ bổ sung cho dân cư có sẵn mà không gây biến động về dân số, lại càng không tác động gì về di truyền, vì tất cả đã cùng một chủng tộc Mongoloid phương Nam.

Văn hóa là sản phẩm của con người cho nên con đường hình thành dân cư cũng là con đường sáng tạo văn hóa. Cho tới trước 2.698 năm TCN, chỉ có người từ Việt Nam đi lên Trung Hoa. Vì vậy, dòng sáng tạo văn hóa cũng từ Việt Nam đi lên. Khảo cổ học cho thấy công cụ đá mới Ngưỡng Thiều là từ dạng sớm của Hòa Bình đưa lên. Mẫu gốm sớm nhất 20.000 năm trước cùng hạt lúa trồng sớm nhất 12.400 tuổi phát hiện ở Động Người Tiên Giang Tây, cách Việt Nam hơn 100 km. Chữ tượng hình có tuổi 4.000 – 6.000 năm trước tìm thấy ở Cảm Tang Quý Châu. Mẫu xỉ đồng Phùng Nguyên 4.000 năm trước, sớm hơn ở lưu vực Hoàng Hà… Vì vậy, nói rằng người Môn, Man rồi La Va từ phương Bắc xuống, làm nên người Việt, người Mường cùng văn hóa Việt, Mường là trái với thực tế.

Thế kỷ trước, do bất lực trong việc tìm nguồn gốc con người, khoa học buộc phải dựa vào những sản phẩm do con người làm ra như một thứ dấu vết gián tiếp về con người. Tuy có được những kết quả nhất định nhưng thực tế cho thấy có nhiều hạn chế thậm chí sai lầm.

Sang thế kỷ này, với công nghệ gen, việc tìm nguồn gốc con người được trả lại cho khoa học chính xác, đã đưa tới những kết quả vượt quá mong mỏi. Vì vậy, tới nay, còn dựa vào những hoa văn trên đồ gốm, một số biểu hiện của tiếng nói… để xác định chủng tộc là việc làm thiếu khoa học vì quá chừng lạc hậu. Sự lạc hậu này không chỉ kéo khoa học nhân văn Việt Nam xuống đáy của khoa học nhân loại mà còn tiếp tục giam hãm người dân Việt trong vòng tăm tối của kiến thức ngu đân cũ.

Vấn đề của ông Tạ Đức là vấn đề phương pháp luận. Để tìm nguồn gốc chủng người, đáng lẽ trước hết ông phải tham khảo bộ môn liên quan trực tiếp tới con người là nhân chủng học người Việt trong đó cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á là cẩm nang tối cần mà tiếc là ông không có! Tiếp đó, phải tham khảo những khám phá mới nhất của di truyền học về con người nói chung và người Việt Nam - Đông Á nói riêng xuất hiện rất nhiều trong thập niên vừa qua. Không theo con đường trực tiếp đó, ông lại đi đường vòng, tiếp tục phương pháp cũ kỹ của thế kỷ XX với hy vọng từ sản phẩm văn hóa xác định các chủng người. Chẳng những vậy, khi truy tìm dấu vết văn hóa, ông Tạ Đức cũng không cập nhật những tư liệu mới nhất. Sách in năm 2013 mà ông Tạ Đức không biết rằng, năm 2012 tại Tiên Nhân Động Quảng Tây, cách Việt Nam hơn trăm kilomet, người ta phát hiện hạt lúa trồng 12400 năm trước và mảnh gốm đầu tiên của loài người 20.000 tuổi! Chẳng những thế, ông cũng không biết, từ cuối năm 2011, tại Quý Châu, chữ Lạc Việt, tiền thân của Giáp cốt văn, được tìm thấy trên những chiếc xẻng bằng đá có tuổi từ 6000- 4000 năm! Thiết tưởng, nếu có những tư liệu này, hẳn ông Tạ Đức sẽ điều chính khảo cứu của mình.

Trong bài viết trả lời tôi, ông Tạ Đức cho rằng: “Quan niệm của ông Thùy gần với tôi.” Tôi nghĩ không đúng như vậy. Trong khi ông cho rằng, người Môn, Man rồi Lava xuống làm nên con người cùng văn hóa Việt Nam thì quan niệm của tôi là: Suốt trong thời kỳ dài 30.000 năm, người Việt đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng ở đó nền văn hóa phát triển. Chỉ sau 2.698 năm TCN, người từ Trung Hoa trở về Việt Nam làm chuyển hóa di truyền người Việt sang Mongoloid phương Nam. Do văn hóa trên đất Việt Nam hình thành từ rất sớm và là cội nguồn của văn minh Trung Hoa nên người Việt đã xây dựng nền văn hóa vững chắc trước khi người từ Trung Hoa trở về.

 

THƯ NGỎ KÍNH GỬI ÔNG NGUYỄN VĂN LỤC

Thưa ông Nguyễn Văn Lục,

Trên trang mạng DCVOnline có bài viết ký tên ông, nhan đề Chauvinisme trong ngành sử học [1], công kích nhiều nhà viết sử Việt Nam. Riêng tôi được ông ưu ái dành cho những dòng như sau:

“Nhà sử học Lê Minh Khải ngạc nhiên vì bài tham luận của ông Hà Văn Thùy có thể tóm gọn tất cả mọi người và tất cả mọi thứ ở Châu Á đều có nguồn gốc từ Việt Nam với người Việt Nam.

Nếu tôi được phép có thêm một nhận xét – qua hình chụp ông Hà Văn Thùy – thì ông quả thực là một mẫu hình tiêu biểu của một thứ văn hóa vật thể còn sót lại.

Sau đây xin trích dẫn nguyên văn câu của ông Hà Văn Thùy:

“Tất cả văn hóa vật thể và phi vật thể trên đất Trung Hoa trước 2600 năm TCN đều là sản phẩm của tộc Việt.”

Để đi tới một kết luận táo bạo như trên, người ta phải vận dụng đến nhiều ngành học đủ loại và cần viết cả một vài pho sách, vị tất đã viết xong.

… Sự khẳng định chắc nịch như trên của ông Hà Văn Thùy đối với cá nhân tôi không lấy gì làm lạ. Nó xuất phát từ một lối viết ‘lên gân’, lối học từ chương, nhồi sọ, giáo điều, khẩu lệnh của đảng và não trạng đã bị bào mòn.”

“Hiện tượng Hà Văn Thùy là tiêu biểu cao cho một khuynh hướng viết sử mà tôi gọi là “chủ nghĩa dân tộc sô vanh”, muốn áp đặt – muốn kéo dài quá khứ lịch sử dân tộc Việt không phải chỉ hơn 2000 năm – mà tròn số là 4000 năm.

Đối với tôi, cái hãnh tiến lịch sử phải nhường bước trước sự thật lịch sử. Nếu tổ tiên đã có thời ăn lông ở lỗ – cởi truồng đóng khố đi nữa – thì cũng vẫn là tổ tiên. Mà nhiều phần chắc là như thế!

Nhưng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc sô vanh, cực đoan thì lại cố tình khoác một hào quang lên quá khứ người Việt cổ. Đó là một quá khứ dưới mắt họ phải trọn gói – hoàn tất – đã có ngôn ngữ chính thức, có một nền văn minh, đã trải qua những cuộc tranh đấu kháng chiến, chống phong kiến dành độc lập, qua nhiều thử thách và trải dài trong suốt 4000 năm.

Niềm tự hào không đúng chỗ, đối với tôi, trước sau cũng chỉ là sự lừa bịp. Hoặc một chính sách ngu dân không cần thiết!

Những khẳng định như thế dĩ nhiên đã thỏa mãn niềm tự hào dân tộc của một số đông người, vì đã đòi lại những cái mình không có hay chưa hề có từ tay người Tầu. Chẳng hạn phủ nhận không có cái gọi là từ Hán Việt, Hán mượn Việt chứ không phải Việt mượn Hán.

… Lập luận kiểu đó nên bất chấp các sự kiện, bất chấp đúng sai vượt lên trên cái lương tri của một con người!

Nhưng thật ra trong giới sử học không phải chỉ có một Hà văn Thùy mà có nhiều Hà Văn Thùy.

Thời 1955–1960, đã có những vị có tiếng tăm như Nguyễn Khắc Viện, Trần Huy Liệu, Văn Tân, Trần Quốc Vượng và nhiều người cầm bút khác cũng vướng mắc phải chứng vĩ cuồng trong sử học.” (hết trich)

Tôi xin được thưa lại đôi lời.

1. Ông Lục viết: “Để đi tới một kết luận táo bạo như trên, người ta phải vận dụng đến nhiều ngành học đủ loại và cần viết cả một vài pho sách, vị tất đã viết xong.”

Thưa ông, đúng như ông nói. Để có được kết luận mà ông nhắc tới, tôi phải bỏ ra hơn 10 năm (từ 2004), không làm bất cứ việc gì khác mà dành toàn tâm toàn ý tra cứu chủ yếu qua chữ Anh và chữ Hán những tài liệu đáng tin nhất từ di truyền học, khảo cổ học, cổ nhân chủng học, dân tộc học, văn hóa học, ngôn ngữ học, sử học… Bằng cách kết nối và giải mã nhiều tài liệu, tôi đã công bố hàng trăm bài viết và cho xuất bản năm cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2006); Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn Học, 2008); Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn Học, 2011); Viết lại lịch sử Trung Hoa (Sài Gòn xuất bản, Amazon phát hành) [2]  và Tiến trình lịch sử văn hóa Việt (Sài Gòn xuất bản, Amazon phát hành) [3].

2. Ông viết: “Sự khẳng định chắc nịch như trên của ông Hà Văn Thùy đối với cá nhân tôi không lấy gì làm lạ. Nó xuất phát từ một lối viết ‘lên gân’, lối học từ chương, nhồi sọ, giáo điều, khẩu lệnh của đảng và não trạng đã bị bào mòn.”

Thưa ông Nguyễn Văn Lục, ở chỗ này thì ông lầm to. Đây hoàn toàn là những khám phá mới, chưa từng có trong tri thức nhân loại. Do lần đầu tiên được phát hiện nên lấy gì mà “nhồi sọ”mà “giáo điều”! Trong Lời giới thiệu cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp, Chuyên gia Khoa học khí quyển Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Australia, thành viên của nhóm Tư Tưởng, nhóm tiên phong nghiên cứu thời tiền sử dân tộc Việt qua những công bố di truyền học đầu thế kỷ, nhận xét: “Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, trên thực tế đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên tiến của thế giới.”

 Ông càng lầm hơn khi cho rằng tôi viết theo khẩu lệnh của đảng! Thưa ông, trái lại, chính vì vượt ra ngoài trí tuệ của đảng và dám động tới chân tướng của người Tàu, hai cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa và Tiến trình lịch sử văn hóa Việt không được in trong nước, buộc tôi phải nhờ bạn bè in ở California rồi phát hành trên Amazon!

3. Ông viết: “Hiện tượng Hà Văn Thùy là tiêu biểu cao cho một khuynh hướng viết sử mà tôi gọi là “chủ nghĩa dân tộc sô vanh”, muốn áp đặt – muốn kéo dài quá khứ lịch sử dân tộc Việt không phải chỉ hơn 2000 năm – mà tròn số là 4000 năm.”

            Thưa ông, những dòng trên chứng tỏ ông không đọc sách và những bài viết của tôi. Trên xa lộ thông tin có không ít người phản biện tôi. Nhưng họ ngỡ ngàng khi cho rằng “Hà Văn Thùy cuồng Việt, kéo dài sử Việt tới 70.000 năm!” chứ không phải 4000 năm. Đúng vậy! Lịch sử là sản phẩm hoạt động xã hội của con người. Di truyền học, nhờ đọc được cuốn “thiên thư” ADN ghi trong máu huyết của dân Việt Nam cũng như toàn châu Á, phát hiện ra rằng, 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây, những dòng người gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ chủng Australoid. Rồi từ Việt Nam, người Việt di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa, trở thành dân cư đầu tiên của Hoa lục. Rồi người từ Hòa Bình mang công cụ đá mới lên Trung Hoa. Người Lạc Việt ở Động Người Tiên tỉnh Giang Tây làm ra đồ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước, thuần hóa cây lúa đầu tiên…  9.000 năm trước, tại di chỉ Giả Hồ, người Việt sáng tạo chữ viết tượng hình. Tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây cuối năm 2011 phát hiện chữ tượng hình của người Lạc Việt khắc trên xẻng đá 6.000 năm trước. Từ Cảm Tang, chữ Việt được đưa lên An Dương Hà Nam. Năm 1.300 TCN, khi vua Bàn Canh chiếm Hà Nam của người Dương Việt,  lập nhà Ân thì người Hoa Hạ chiếm luôn chữ của người Việt, sau này nhận làm của họ và được gọi là Giáp cốt văn Ân Khư!

Không chỉ vậy, từ khảo cứu ADN của dân cư châu Á, khoa học thế giới cũng phát hiện: “Người Việt Nam có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á.” Điều này cho thấy, đất Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc châu Á còn người Việt Nam gần với tổ tiên hơn. Khi mà 70.000 năm trước người tiền sử đặt chân lên đất nước ta rồi từ đây, di cư làm nên dân cư và văn hóa của toàn bộ châu Á thì vì lẽ gì lịch sử tộc Việt không được tính từ 70.000 năm trước?

4. Ông viết: “Đối với tôi, cái hãnh tiến lịch sử phải nhường bước trước sự thật lịch sử. Nếu tổ tiên đã có thời ăn lông ở lỗ – cởi truồng đóng khố đi nữa – thì cũng vẫn là tổ tiên. Mà nhiều phần chắc là như thế! Nhưng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc sô vanh, cực đoan thì lại cố tình khoác một hào quang lên quá khứ người Việt cổ. Đó là một quá khứ dưới mắt họ phải trọn gói – hoàn tất – đã có ngôn ngữ chính thức, có một nền văn minh, đã trải qua những cuộc tranh đấu kháng chiến, chống phong kiến dành độc lập, qua nhiều thử thách và trải dài trong suốt 4000 năm. Niềm tự hào không đúng chỗ, đối với tôi, trước sau cũng chỉ là sự lừa bịp. Hoặc một chính sách ngu dân không cần thiết!”

Thưa ông Nguyễn Văn Lục,

Ông biết gì về quá khứ của người Việt? Muốn hiểu điều này, trước hết cần phải hiểu người Việt cổ là ai? Với tri thức ông bộc lộ trong bài viết, tôi đoan chắc, ông đang truyền bá một “chính sách ngu dân.” Cái chính sách ngu dân này được hình thành vừa cố ý vừa vô tình từ thời mồ ma thực dân Pháp. Bắt đầu bằng chủ trương của học giả Viễn Đông Bác cổ cho rằng, người Melanesien xuất hiện đầu tiên trên đất Việt Nam. Sau đó, người Indonesien từ Ấn Độ tràn sang, tiêu diệt người bản địa. Cuối cùng, người Mongoloid từ Trung Quốc xuống, tiêu diệt người Indonesien, trở thành dân cư Việt Nam hiện nay! Do nguồn gốc như vậy nên người Việt Nam thoát thai từ người Tàu. Văn hóa Việt Nam là sự vay mượn của nước Tàu! Đó là những giáo trình mà ông, tôi cùng nhiều thế hệ thanh niên Việt đã học và tin như vậy.

Rất may mắn là những thành tựu mới của khoa học nhân loại từ đầu thế kỷ này đã khám những điều mà tôi đã trình bày trong sách cùng các bài viết của mình. Rất mừng là trong công việc này tôi không lẻ loi. Nhóm Tư Tưởng của người Việt ở Úc gồm Luật sư Cung đình Thanh, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp là những người Việt Nam đầu tiên đi tìm nguồn gốc tộc Việt từ công trình di truyền học của J.Y. Chu, của Stephen Oppenheimer… Tôi ban đầu đã vui mừng theo bước các vị này. Ông Phạm Trần Anh ở Hoa Kỳ cũng có những thành tựu đáng khích lệ trong hướng nghiên cứu mới. Không chỉ vậy, rất nhiều người đọc đã tự mình tìm hiểu sách báo và nhận chân ra rằng: người tiền sử từ châu Phi di cư tới từ 70.000 năm trước đã làm nên dân cư Việt Nam…

Thưa ông Nguyễn Văn Lục, ông đã hiểu hoàn toàn sai những khám phá mới về cội nguồn cùng lịch sử văn hóa dân tộc. Chính những tư tưởng này, khi đi vào dân chúng sẽ trở thành sức mạnh vĩ đại giúp người Việt nhận chân về quá khứ vinh quang của dân tộc. NHÂN DÂN sẽ đứng lên vứt bỏ xiềng xích ngu dân hàng trăm năm đè nặng lên mình và sẽ ngửng đầu gánh vác sứ mệnh của tộc Việt trong kỷ nguyên mới. Chính vì vậy, việc cản trở tiến bộ trí tuệ, cố công trì níu những hiểu biết lạc hậu xưa cũ lại là việc làm ngu dân!

Thưa ông, từ khảo cứu của mình, tôi không chỉ đề xuất “không có cái gọi là từ Hán Việt” như ông nhắc tới mà còn công bố:

- Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa

Và:

- Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa.

Sau khi khám phá sự thật đó, tôi đã có thư tới vị Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm đề nghị họ xem xét. Nếu tôi sai thì công bố cho dân chúng biết để khỏi hoang mang còn nếu tôi đúng, phải tiến hành nghiên cứu, giảng dạy, thực hành tiếng Việt theo đúng với sự thật. Tuy nhiên tất cả rơi vào im lặng!

Thưa ông Nguyễn Văn Lục,

Theo cách sử gia William Duiker nói với ông L.C. Kelley (mà ông kèm trong bài của mình): “Hãy bỏ dân tộc chủ nghĩa sang một bên,” tôi đề nghị ông, đừng vội lên án mà hãy bằng bài viết mang tính học thuật phản bác ba đề xuất ở trên của tôi. Nếu ông chứng minh được một cách tâm phục khẩu phục rằng những đề xuất đó là sai, tôi sẽ đi khất thực (theo nghĩa đen vì từ năm 1989, sau bài báo bị coi là “chống đảng”, tôi phải đi trốn rồi bị đồng chí 3X lúc đó là chủ tịch tỉnh Kiên Giang đuổi việc, phải “ăn lương vợ” cho tới nay) tới trụ sở của Đàn Chim Việt, quỳ lạy, cúi đầu tạ tội với ông và xin lỗi đồng bào! Còn nếu không chứng minh được tôi sai, chỉ xin ông chân thành xin lỗi tôi trên trang Đàn Chim Việt. Những vị mũ cao áo dài đứng đầu các viện hàn lâm trong nước không thèm trả lời tôi bởi họ có cái nón “trách nhiệm tập thể”. Còn ông, với tư cách cá nhân, có danh dự, có lương tâm và hiểu cái lý “một lời nói một đọi máu”, chắc ông không ứng xử như họ!

 

Xin kính chúc ông sức khỏe

Hà Văn Thùy

 

 

Tài liệu tham khảo:

1.Nguyễn Văn Lục. Chauvinisme trong ngành sử học

ttps://www.yellowproxy.net/browse.php/QDk2xDj1/gjvnBrk4/XcSPw7aO/0n3QNNV_/2BB2vA6p/IEnf6aBu/ft4eY_2B/Mn2PFYUF/i8VRxiYr/5FcyPjN3/w6hPo7Q2/O8V8S6Mp/7Dq2/b29/

2..http://www.amazon.com/Viet-Lai-Lich-Trung-Vietnamese/dp/1500462675/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1407022568&sr=1-1&keywords=ha+van+thuy)

3.http://www.amazon.com/Tien-Trinh-Lich-Viet-Vietnamese/dp/1502407043/ref=pd_sim_14_1?ie=UTF8&dpID=51oJ2QNus4L&dpSrc=sims&preST=_AC_UL160_SR107%2C160_&refRID=0S1AAF3VCHVFB1Y86Y5

 

TÌM NGUỒN GỐC CỦA QUAN NIỆM ĐỒNG BÀO

Người bạn gửi cho tôi bài báo trên tờ Sài Gòn Giải Phóng nhan đề Đồng bào là gì* và yêu cầu cho nhận xét. Tác giả bài viết có biệt danh Nghê Dũ Lan tỏ ra là người hiểu biết, dẫn từ điển Thiều Chửu:

“Bào là: (cái) bọc, anh em cùng một cha mẹ gọi là đồng bào (anh em ruột). Nói rộng ra, anh bố gọi là bào bá (bác ruột), em bố gọi là bào thúc (chú ruột). Người trong một nước cũng gọi là đồng bào, nghĩa là cùng là con cháu một ông tổ sinh ra vậy.” Rồi bình:

Cách giảng như Thiều Chửu (đồng bào: cùng là con cháu một ông tổ sinh ra) có lẽ dễ làm “vừa bụng” không ít người quen nghĩ rằng “đồng bào” là một từ do người Việt sáng tạo ra. Đơn cử là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (bản sửa đổi lần cuối lúc 08:43, ngày 25-1-2007) viết như sau (http://vi.wikipedia.org/...): “Đồng bào là một cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con. [sic] Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.”

Nếu hiểu lầm chỉ dân tộc nào vốn cùng từ một “bọc” của Âu Cơ đẻ ra mới được gọi “đồng bào” thì đương nhiên hai dân tộc Hoa và Khmer không thể gọi là “đồng bào”. Quan niệm này vừa sai, vừa nguy hiểm vì nó dễ đưa tới tinh thần phân biệt, kỳ thị (discrimination) làm phân hóa sự đoàn kết các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia!

“Sự thật, người Việt đã vay mượn hai chữ “đồng bào” từ Hán ngữ, cho nên “đồng bào” không phải là một sáng tạo của người Việt dựa theo huyền sử một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ như Wikipedia đã “tưởng tượng”! Ta dễ dàng thấy mục từ “đồng bào” trong các từ điển chữ Hán không do người Việt soạn, chẳng hạn:

1.Mathews’Chinese-English Dictionary (Shanghai: China Inland Mission and Presbyterian Mission Press, 1931), mục từ 6615-118 giảng là “uterine brothers; compatriots” (đồng bào huynh đệ là anh em một mẹ; người cùng một nước).

2. Từ điển Hán-Việt do Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên (Bắc Kinh: Thương Vụ ấn thư quán, 1994, tr. 663) giảng đồng bào là: “anh chị em ruột”.

3.Chinese-English Dictionary Online (www.chinese-learner.com/dictionary) giảng là “fellow citizen or countryman”, tức đồng bào là người dân cùng một nước.

Tóm lại, đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước. Vậy thì nói đồng bào người Hoa, đồng bào người Khmer là hoàn toàn đúng, là xác định hai thành phần anh em trong đại gia đình Việt Nam gồm 54 thành phần mà ta thường gọi là 54 dân tộc.”

Tuy nhiên sự thực như sau:

Từ hàng vạn năm trước, người Việt chủng Australoid đã sống khắp nơi trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Khoảng 5000 năm TCN, tại cao nguyên Hoàng Thổ miền trung Hoàng Hà, do người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc (những người cũng từ Việt Nam lên 40.000 năm trước nhưng do di cư riêng rẽ, giữ được nguồn gen thuần chủng, sau này sống tập trung trên đất Mông Cổ) sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều, sau đó làm nên văn hóa Long Sơn nổi tiếng ở lưu vực Hoàng Hà. Vào thời điểm 4000 năm TCN, những thủ lĩnh người Việt là Phục Hy, rồi Thần Nông xuất hiện. Khoảng năm 2879 TCN xảy ra việc Đế Minh chia đất,  phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. Nước Xích Quỷ ra đời. Dân cư Xích Quỷ gồm ba thành phần: người da đen Indonesian, Melanesian và người Mongoloid phương Nam nước da sáng hơn, tất cả đều có gốc từ tổ Phục Hy, Thần Nông, là người Việt với tiếng nói cùng văn hóa Việt… Là những người đánh cá và đi biển thành thạo, dân cư Xích Quỷ đã giao thương bằng thuyền tới Đài Loan, Indonesia, Philippine, Việt Nam và hiểu các vùng đất này. Câu chuyện Lạc Long Quân-Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng xuất hiện.

Trước đây ta chỉ biết nước Xích Quỷ huyền thoại. Năm 1936, các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ. Từ nguồn tư liệu khai quật phong phú, họ đưa ra kết luận: có nhà nước Lương Chử cổ đại, với kinh đô Lương Chử rộng 3.000.000 m2 còn ranh giới trùng khớp với địa bàn nước Xích Quỷ truyền thyết. Đó là nhà nước sớm nhất trong lịch sử phương Đông, trước nhà Hạ hàng nghìn năm mà chủ nhân là người Lạc Việt. Từ những vật bằng ngọc cho thấy người Lương Chử được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân, liên hệ với vật tổ chim-Hồng Bàng. Từ những khám phá này, có thể tin, nhà nước Lương Chử chính là  Xích Quỷ trong truyền thuyết

 Khoảng năm 2698 TCN, xảy ra cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phương Bắc vào Trác Lộc ở bờ nam Hoàng Hà. Do cuộc xâm lăng này, người Việt chủng Mongoloid phương Nam từ Núi Thái-Trong Nguồn di cư về phương nam.

Theo xác nhận của nhân chủng học, trước thời Phùng Nguyên, dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình Australoid, được gọi là người Việt cổ. Người Mongoloid từ Núi Thái-Trong Nguồn trở về lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Cụ thể hơn, lai với người Indonesian, cho ra người Mongoloid phương Nam điển hình (người Mường, Mán, Dao, Nùng, Tày, Thái…)  Lai với người Melanesian sinh ra nhóm loại hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (người Chăm, Khmer, các sắc tộc Tây Nguyên…)

Do hình thành như vậy nên dân cư trên đất Việt Nam có chung tổ tiên là người di cư về cùng với Lạc Long Quân nên tất cả suy tôn Lạc Long Quân là tổ, còn các sắc tộc (ethnicity) đều là con trong dân tộc Việt.

 Quân Mông Cổ chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Các vương triều Hoàng Đế lấn đất mở rộng lãnh thổ, dân Việt vùng lưu vực Hoàng Hà tiếp tục di cư về phía Nam. Khoảng 2.300 năm TCN, do nước  biển dâng, kinh đô Lương Chử bị chìm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Người Việt từ nước Xích Quỷ di tản tới Ba Thục, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Đài Loan… Người di tản mang theo truyền thuyết một bọc trăm trứng tới nơi ở mới. Trên đất Ấn, truyền thuyết Một bọc trăm trứng của người Việt đi vào kinh Phật.

Truy nguyên nguồn gốc như vậy, ta thấy, truyền thuyết Một bọc trăm trứng xuất hiện thời Xích Quỷ. Khi Xích Quỷ tan rã, bộ phận người Việt sống trên đất Trung Hoa vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc của mình. Các nhà nước Trung Quốc về sau tiếp thu truyền thuyết này. Nhưng do không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó nên đã giảng theo thực tế dân cư Trung Quốc, phục vụ ý đồ chính trị, dù Trung Quốc có tới 5 chủng tộc khác nhau là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng thì họ vẫn dùng từ “đồng bào”.

Khái niệm “đồng bào” của người Việt vốn chỉ mối quan hệ nội bào, đồng tộc, cùng tổ tiên, dòng giống, trên đất Trung Hoa trở thành khái niệm quốc gia: mọi chủng người trong một quốc gia đều được gọi là đồng bào! Nghĩa mở rộng này được ghi vào từ điển.

Các nhà soạn từ điển phương Tây thế kỷ XIX, XX, là những học trò của văn hóa Hán, hoàn toàn tin rằng, chữ vuông do người Trung Quốc sáng tạo, ghi chép những sự kiện lịch sử văn hóa Trung Hoa nên đã căn cứ vào tự điển Trung Quốc để soạn thảo từ điển của mình, như tác giả bài viết đã dẫn.

Cho tới cuối thế kỷ XX chưa ai khám phá ra thực tế bi hài là, nhiều khái niệm hay tiếng của người Việt cổ để lại trên đất Trung Hoa sau này bị hiểu sai. Một chứng cứ tiêu biểu là câu Lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩ  trong kinh Thi. Hơn 800 năm nay, các đại nho Hoa-Việt học theo Chu Hy, cho chữ “hồ” là cái yếm ở cổ con sói nên giảng: sói bước tới dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi. Do vậy câu thơ mang nghĩa là tiến thoái lưỡng nan. Bạn đã bao giờ thấy con sói có yếm thòng xuống ở cổ chưa? Thực tế con sói không bao giờ có yếm ở cổ cả. Ngay cả bò là loài có yếm nhưng cũng chẳng bao giờ yếm chùng xuống khiến nó dẵm phải khi bước đi! Sự thực, “hồ” vốn là chữ“hố” của người Việt, còn bạt do chữ “tạt”, “tụt” biến âm. Câu ca của người Việt vốn là: Sói tạt (tụt, ẩn nấp) vào hố, vẫn lòi cái đuôi. Nghĩa là dấu đầu hở đuôi! Mông Cổ là gì? Ít người biết rằng, từ xa xưa, người Việt ở Nam Hoàng Hà gọi vùng thảo nguyên phía bắc là Đồng Cỏ hay Mông Cỏ (đồng = mông: Đồng không mông quạnh). Khi tràn sang chiếm đất bờ Nam, người du mục không nói được âm “Đ”nên đọc trại thành Mông Cỏ. Tới thời Đường chuyển sang Đường âm thành từ vô nghĩa Mông Cổ! Trung Nguyên là gì? Vốn là tên người Việt gọi đồng bằng miền Trung của Hoàng Hà, thuộc châu thổ sông Nguồn của mình là Trong Nguồn. Sau nhiều biến đổi, tới thời Đường thì Trong -> Trung,  Nguồn -> Nguyên. Mất đất và mất cả tên nên sau này con cháu Việt không hiểu câu Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra!

Cũng như vậy, đồng bào vốn là tên gọi ban đầu của người Việt: cùng một bào thai hay cùng bọc. Tới thời Đường được chuyển thành Đường âm: cùng -> đồng; bọc -> bào. Sau nữa, qua thời Thanh, quan thoại Bắc Kinh nói tủng pao. Trong khi người Quảng Đông nói tồng pào! Riêng tại đất gốc Việt Nam, người Việt vừa dùng đồng bào nhưng cũng nói một bọc!

Điều bi hài cười ra nước mắt ở đây là: chữ hay khái niệm đúng của người Việt, bị người Trung Quốc hiểu sai rồi ghi thành kinh điển. Kinh điển Tàu được chuyển thành kinh sách Tây! Ông cha ta xưa học Hán tự nên hiểu sai, bái phục các thầy Tàu uyên thâm: chữ thánh hiền có bao giờ sai! Con cháu bây giờ thông thái hơn, đọc được cả chữ Tàu, cả chữ Tây nên càng tin sái cổ những cái… sai rồi vênh vang đem về dạy (dọa) đồng bào mình. Lý lẽ chắc nịch hàng tấn: sách Tàu nói, sách Tây nói?!

Chỉ có Cụ Lạc Long Quân, Cụ Hùng Vương từ trên cao xanh nghe mà cười ra nước mắt: do vô minh nên cháu con tôn lũ dốt làm thầy rồi cúc cung học cái ngu!

Người Việt coi người Hoa, Khmer, Chăm, E đê, Gia rai… là đồng bào theo quan niệm truyền thống. Đó là những sắc tộc (ethnicities) cùng một huyết thống, cùng một bọc trong chủng tộc Mongoloid phương Nam của dân tộc Việt Nam.

                                                                  Tháng Năm 2016

 

*http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/4/94382/

 

VIỆT NAM CÓ BAO NHIÊU DÂN TỘC?

       Đến nay, trong quan niệm truyền thống cũng như văn bản pháp lý nói rằng: “Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc.” Niềm tin như vậy trở nên quen thuộc, thành lẽ đương nhiên. Đã tới lúc đặt lại câu hỏi: quan niệm như vậy có chính xác? Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần làm rõ định nghĩa: dân tộc là gì?

Từ điển Nguyễn Quốc Hùng chép: Dân tộc là “Giòng giống của người trong nước — Ngày nay có nghĩa là người trong nước.” Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân ghi: “Dân tộc là: cộng đồng người ổn định hình thành trong qúa trình lịch sử, cùng chung một tiếng nói, một lãnh thổ, cùng liên quan với nhau về sinh hoạt, về kinh tế và cùng có những điểm giống nhau về tâm lý.” Từ điển tiếng Vệt: “Gọi chung một cộng đồng người có chung một ngôn ngữ, lãnh thổ.”

Định nghĩa như vậy mang tính xã hội học thông dụng mà chưa đủ sự chính xác khoa học. Khoa nhân học chia loài người thành ba cấp độ: loài (species), chủng tộc (race) và sắc tộc (ethnicity). Cho đến nay, toàn nhân loại thuộc duy nhất loài Người Khôn ngoan (Homo sapiens). Người Khôn ngoan theo đặc điểm di truyền được chia thành các chủng: châu Âu (Europian), Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid), Mông Cổ phương Nam (South Mongoloid), Úc (Austronesian)…

Khám phá của công nghệ di truyền thế kỷ XXI cho thấy, người Việt Nam có quá trình hình thành như sau: Khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng (big races) người Australoid và Mongoloid từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Hai dòng người hòa huyết sinh ra bốn chủng (races) người cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong quá trình chung sống, hai chủng da đen Vedoid và Negritoid giảm số lượng và gần như biến mất khỏi lãnh thổ. 40.000 năm trước, hai dòng người Việt Indonesian và Melanesian đi lên khai phá Hoa lục. 7000 năm trước, người Lạc Việt tại đồng bằng miền Trung Hoàng Hà gặp gỡ, hòa huyết với chủng người Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục ở bờ Bắc, sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam, là chủng người Việt mới, làm nên dân cư văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều và đồng bằng Trong Nguồn (Trung Nguyên ngày nay). Sau cuộc xâm lăng của người du mục Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu năm 2698 TCN chiếm một phần đồng bằng miền Trung Hoàng Hà,  lập nhà nước Hoàng Đế, người Việt Ngưỡng Thiều di cư dần về Việt Nam và Đông Nam Á. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid về chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á từ loại hình Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam. Khoa nhân học xác nhận, về mặt di truyền, từ 2.000 năm TCN, trên đất Việt Nam, những cộng đồng người Mường, Tày, Nùng, Dao, Mông…  thuộc chủng tộc Indonesian chuyển hóa thành chủng Mongoloid phương Nam điển hình. Trong khi đó các cộng đồng Khmer, Chăm, Êđê, Bana, Giarai, Stiêng…thuộc chủng Melanesian thành loại hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam.[1] Như vậy, từ sau 2000 năm TCN, toàn bộ người Việt Nam cùng một chủng tộc, mang mã di truyền Mông Cổ phương Nam (South Mongoloid).

Trong tiếng Anh, nation có nghĩa là dân tộc, đồng thời cũng là quốc gia. Với ý nghĩa này thì Việt Nam là quốc gia với một chủng tộc duy nhất: Việt Nam là nhà nước của dân tộc Việt.

Dựa chủ yếu vào tập quán sinh hoạt và một phần vào ngôn ngữ, nhân học cũng phân biệt các sắc tộc trong một chủng người. Ngôn ngữ gốc của mọi sắc dân sinh ra trên đất Việt là tiếng Việt cổ, trong đó tiếng Lạc Việt là chủ đạo. Sự khác biệt tiếng nói giữa các cộng đồng người Việt là do những biến đổi diễn ra sau này. Người Kinh, người Mường, người Tày, người Thái, người Chăm, Khmer, Eđê, Giarai… là những sắc tộc (ethnicities) trong cộng đồng dân tộc Việt. Ngay cả người Hoa cũng là một sắc tộc trong chủng tộc Việt, không chỉ về di truyền học mà phần lớn họ là người Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Thượng Hải, Hải Nam… mà tổ tiên là người Lạc Việt.

Sở dĩ có quan niệm “54 dân tộc” là do ảnh hưởng của dân cư học Trung Quốc. Sau năm 1949, người Trung Quốc nói: “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em.” Do vậy, ta cũng học theo để ghi vào hiến pháp: “Việt Nam có 54 dân tộc anh em.” Nhưng sau này, thấy sai, người Trung Quốc đã sửa: “Trung Quốc có năm dân tộc: Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng”

Xác định thành phần dân cư là tiêu chí quan trọng hàng đầu để viết lịch sử quốc gia. Từ trước tới nay, do chưa có công nghệ phù hợp để xác định nguồn gốc các nhóm dân cư nên chúng ta lầm lẫn cho rằng, mỗi nhóm dân cư trên đất nước ta là một dân tộc khác nhau. Điều này đưa tới sai lầm nghiêm trọng là cho rằng, chỉ người Kinh mới là người Việt, còn các sắc dân khác là ngoại tộc. Thậm chí trước đây còn bị gọi là “man”, “mọi.” Từ khám phá của khoa học hiện đại đã tới lúc chúng ta sửa lại quan niệm sai lầm cũ để ghi nhận sự thực: Tất cả người dân bản địa trên đất nước ta đều là người Việt. Việt Nam là quốc gia của dân tộc Việt.

Lịch sử là hoạt động xã hội của một cộng đồng người trong quá khứ. Do vậy, muốn viết lịch sử một cộng đồng, điều tiên quyết phải xác định cộng đồng ấy là ai, từ đâu ra, trải qua quá trình hoạt động thế nào để có diện mạo như ngày hôm nay. Do vậy, Sử học phụ thuộc chặt chẽ vào kết quả của Nhân học. Cho tới cuối thế kỷ trước, nhân học người Việt Nam do các học giả Pháp xác định. Nhưng do hạn chế của tri thức thời đó (chưa có công nghệ gen để tìm ra nguồn gốc loài người cũng như các chủng tộc) nên họ xác định sai nguồn gốc cũng như phân loại người Việt. Điều này dẫn tới hệ quả là học giả Pháp của Viện Viễn Đông Bác cổ cũng như học giả Việt Nam thế kỷ trước quan niệm không đúng về nguồn gốc cũng như quá trình hình thành người Việt Nam. Do vậy đã viết hoàn toàn sai về lịch sử người Việt. Vào thập kỷ 1980, trong công trình Nhân chủng học Đông Nam Á, vượt qua học giả Pháp, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa phân định chính xác dân cư Việt Nam: “Trong thời đồ đá, trên đất Việt Nam có mặt hai đại chủng người Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp, sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negriotid, cùng thuộc loại hình Australoid. Trong đó người Indonesian chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Nhưng sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện, trở nên chủ thể dân cư. Người Austraoid biến mất dần trên đất nước này, không hiểu do di cư hay đồng hóa” (Nguyễn Đình Khoa, 1983, Tr. 126). Bằng phương pháp khảo sát hình thái sọ người (đo sọ), đạt được kết quả như vậy phải nói là tuyệt vời. Tuy nhiên, do hạn chế của tri thức thời đó, khoa học chưa biết nguồn gốc loài người nên không thể giải thích được những sự kiện: hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ đâu ra? Người Mongoloid phương Nam từ đầu tới? Họ thay thế người bản địa bằng phương cách thực dân diệt chủng hay chuyển hóa di truyền? Chính vì vậy, khám phá rất quan trọng của Giáo sư Nguyễn Đình Khoa cho tới cuối thế kỷ XX không thể vận dụng vào nghiên cứu lịch sử người Việt. Chỉ sang thế kỷ XXI, khi nhiều nghiên cứu di truyền học về con người Việt Nam và châu Á được công bố, mới có cơ sở giải thích được khám phá của Nguyễn Đình Khoa và vận dụng để nghiên cứu nguồn gốc người Việt.

Do hiểu không đúng về người Việt nên những cuốn sử Việt Nam được viết trong thế kỷ XX phản ánh hoàn toàn sai lịch sử của người Việt. Tiếc rằng, những tác giả của cuốn Lịch sử Việt Nam của Viện Sử học chủ yếu sử dụng tri thức nhân học của thế kỷ trước nên không thể viết chính xác lịch sử dân tộc Việt Nam. Không chỉ vậy, theo công bố mới nhất của Giáo sư Phan Huy Lê, người tổng chủ biên cuốn Quốc sử 30 tập của Hội Nghiên cứu lịch sử trong buổi họp báo ngày 22 tháng Hai năm 2017, thì tri thức của những học giả này cũng chỉ là những gì quá đát của thế kỷ trước, như chúng tôi đã trình bày trong hai bài Trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê về Sử Việt.(2)

Do nhận thức rất hạn chế thậm chí sai lầm nghiêm trọng về thời tiền sử nên cuốn sách 15 tập của Viện Sử học phản ánh rất sai lạc lịch sử dân tộc. Từ phát biểu của Giáo sư Phan Huy Lê, cho thấy, về cơ bản, kiến thức của những người làm cuốn Quốc sử 30 tập vẫn là những giáo điều của thế kỷ XX. Thất bại là điều chắc chắn.

Chúng tôi đề nghị: trước khi viết cuốn Quốc sử, giới Sử học hãy cùng các nhà nhân học cần làm rõ: người Việt Nam là ai và Việt Nam có đúng là quốc gia đa dân tộc? Chỉ khi xác định rõ điều này mới có thể viết chính xác lịch sử dân tộc.

 

 Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. DH&THCN, H. 1983

2. Trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê về Sử Việt.  https://khoahocnet.com/.../ha-van-thuy-trao-doi-tiep-voi-g-s-phan-huy-le-ve-su-viet/

 

NHẬN THỨC LẠI VỀ BÁCH VIỆT

Cho đến hôm nay, Bách Việt là một trong những vấn đề then chốt của sử Việt chưa được sáng tỏ. Hiện có ba luồng ý kiến khác nhau về Bách Việt:

1.Bách Việt là trăm nước Việt

2. Bách Việt là trăm dòng giống, trăm chủng tộc Việt.

3. Có người còn liên hệ với một bọc trăm trứng để cho rằng, Bách Việt là cội nguồn của dân tộc Việt.

Những quan niệm trên hầu như được xây dựng nhờ bấu víu vào những chứng cứ mơ hồ từ truyền thuyết và cổ thư Trung Hoa nên thiếu thuyết phục. Do nhận thức khác nhau nên đưa tới những ý kiến khác nhau, ông nói gà bà nói vịt kiểu những ông thầy mù sờ voi, cản trở rất nhiều đến việc khảo cứu sử Việt. Do vậy, tìm một nhận thức đúng về Bách Việt là cần thiết. Trong bài này, người viết xin được trình bày nhận thức mới nhất của mình.

1. Bách Việt là trăm nước Việt

 Trong quan niệm phổ cập hiện nay, Bách Việt là danh xưng để chỉ những sắc dân hay nước Việt từng tồn tại từ thời Tần Hán trở về trước ở phia nam sông Dương Tử. Tuy nhiên, trong hai cuốn sách khảo cứu kỹ nhất về Bách Việt là Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóaBách Việt tiên hiền chí cho thấy, danh xưng Bách Việt chỉ những nước Việt được ghi nhận từ cuối thời Chiến Quốc tới Tần Hán.

Theo La Hương Lâm trong Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa, thuật ngữ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Thị Quân: “Phía nam Dương Hán, trong khoảng Bách Việt, những đất Tệ Kha, Chư Phu, Dư My, các nước Phộc Lâu, Dương Xuất, Hoan Đâu, phần nhiều không có vua.” [1] Như vậy, cuốn sách này nói tới đấtnước mà không đề cập sắc tộc.

Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí viết: “Cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở, bị vua Sở Hùng Thích đánh bại. Vô Cương bỏ Lang Gia, đi đến ở Đông Vũ. Nước Việt tan. Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam, chia nhau kẻ làm quân trưởng, người làm vương, tất cả đều thần phục Sở, gọi là Bách Việt. Châu Dương từ đấy bị phân chia. Cối Kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần, sao Vỹ để định cương giới, đất Cối Kê thuộc vào Nam Hải. Khi Tần diệt Sở, vương Tiễn cai trị Dương Việt, chia cắt thành ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Con cháu Úy Đà thần phục nhà Hán. Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy, lại kiêm thêm các quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Châu Nhai, tổng cộng là chín quận. Nay vùng Nam Việt, bắc giáp Cô Tư đến tận Cối Kê là đất của Việt vậy. Phía đông, Vô Chư đóng đô ở Đông Trị đến Chương Tuyền là Mân Việt. Đông Hải vương là Diêu, đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt. Lãnh thổ xưa của Dịch Hu Tống, chạy dài từ sông Tương, sông Ly về phía nam là Tây Việt. Các đất Tang Ca, Tây Hạ, Ung, Dung, Tùy, Kiến là Lạc Việt vậy.” [2]

Như vậy, có thể khẳng định, Bách Việt là những nước Việt ở Nam Dương Tử xuất hiện từ cuối thời Chiến Quốc tới Tần Hán. Do đó, Bách Việt hoàn toàn không phải là trăm dòng giống, trăm chủng tộc Việt.

Aucun commentaire: