ĐỐI THOẠI SOI SÁNG LỊCH SỬ [ 4 ] * HÀ VĂN THÙY


2. Bách Việt có phải là cội nguồn của chủng tộc Việt?
Cổ thư Trung Hoa viết rằng thế kỷ XI TCN, một dòng của vua Vũ nhà Hạ vượt Dương Tử xuống vùng Chiết Giang, xăm mình, cắt tóc, lập ấp sống với người bản địa rồi trở thành thủ lĩnh, đứng ra lập nước. Tới thời Chu, được phong ở đất Cối Kê để lo phụng thờ vua Vũ. Do vị trí quá xa Trung Nguyên nên tiểu quốc Việt không thu hút nhiều sự quan tâm của nhà Chu và các nước chư hầu lớn. Chỉ đến khoảng 496 - 465 TCN khi Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, triều Chu phải công nhận nước Việt là bá chủ Trung Nguyên. Vào năm 333 TCN, nước Sở tiêu diệt nước Việt. Những thủ lĩnh vùng của người Việt đứng lên lập những quốc gia riêng, được gọi là Bách Việt. Từ những dòng này của cổ thư, các học giả về sau cho rằng, người Việt là hậu duệ của Hạ Vũ. Do vậy Bách Việt là nguồn cội của tộc Việt. Các sử gia người Việt cũng theo thuyết này. Quan niệm như vậy còn truyền tới hôm nay.
Tuy nhiên, có thực tế là, từ xa xưa, trước cả thời Hoàng Đế, những sắc dân Cửu Lê, Tam Miêu… là những chi nhánh của người Lạc Việt đã sống đông đúc ở Nam Dương Tử.  Nếu thực sự có con cháu vua Thiếu Khang nhà Hạ vào vùng đất của người Cửu Lê sống rồi làm vua thì cũng chỉ hoàng tộc mới là con cháu Hạ Vũ. Ta biết, Vũ là người Việt, có thể thuộc nhóm Tày-Thái, được vua Thuấn truyền hiền, lập ra nhà Hạ ở Trung Nguyên. Con cháu Hạ Vũ như vậy cũng là người Lạc Việt. Do sinh ra tại lưu vực Hoàng Hà nên người ở đây là hậu duệ của người Lạc Việt từ Việt Nam di cư lên. Do vậy, con cháu Hạ Vũ là hậu duệ nhiều đời của người Lạc Việt mà không thể là cội nguồn của dân tộc Việt. Thế nên, việc cho rằng người Bách Việt là con cháu Hạ Vũ và là cội nguồn dân Việt là không có cơ sở. Thêm nữa, do Bách Việt xuất hiện quá muộn nên không thể là biểu trưng của trăm con trong bọc trứng của Mẹ Âu cơ gần 3000 năm trước. Ý tưởng như vậy chỉ hoàn toàn là gán ghép, áp đặt.
Nay, nhờ di truyền học khảo sát ADN dân cư Đông Á, ta biết rằng, người Lạc Việt (chủng Indonesian) được sinh ra ở Việt Nam rồi 40.000 năm trước đi lên khai phá Hoa lục. Kết hợp với những phát hiện khảo cổ ở Giả Hồ, Hà Mẫu Độ, Lương Chử… cho thấy dân cư Nam Dương Tử là người Lạc Việt chủng Indonesian. Do vậy, dân cư nước Việt của vua Câu Tiễn cũng là con cháu người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên. Từ đó đưa tới kết luận: người Bách Việt không phải là cội nguồn của dân tộc Việt mà là hậu duệ của người Lạc Việt từ Việt Nam di cư lên trong các thời kỳ khác nhau.
Từ phân tích trên đưa tới kết luận:
1. Bách Việt là những nước Việt xuất hiện sau năm 333 TCN, một phần từ những mảnh vỡ của nước Việt bị Việt diệt vong. Một phần từ những bộ lạc người Việt khác nổi lên sau tời Chiến Quốc mà sử gia Trung Quốc biết tới.
2. Bách Việt không phải là cội nguồn của dân tộc Việt mà là hậu duệ của người Lạc Việt sống từ lâu ở Nam Dương Tử. Trong đó Lạc Việt là đất gốc của tộc Việt.
 
Tài liệu tham khảo
  1. La Hương Lâm. Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa. Trung Hoa tùng thư. Đài Loan thư điếm, 1955. Bản dịch chép tay của Vọng Chi Nguyễn Chí Viễn.
  2. Âu Đại Nhậm. Tựa Bách Việt tiên hiền chí. Thư viện Việt Nam, California, Hoa Kỳ, 2006.
 
ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ
VIỆT NAM CÓ BỊ HÁN HÓA?
Là kẻ hậu sinh, đọc sách rồi nghe các vị trưởng thượng nói “Việt Nam bị Hán hóa,” không biết từ bao giờ, tôi đã tin như một lẽ tự nhiên. Nhưng mới đây, không hiểu sao, một câu hỏi chợt gợi lên từ tâm thức: Có đúng Việt Nam bị Hán hóa? Trong khi tìm lời giải, tâm trí tôi lại gợi lên hai câu hỏi khác: “Nguyên do nào và từ bao giờ xuất hiện ý tưởng Việt Nam bị Hán hóa?” Khi đi tìm lời đáp, tôi nhớ câu truyền ngôn nghe từ thời thơ trẻ ở làng quê “Hoa Việt đồng văn đồng chủng.” Một khi đã đồng văn đồng chủng thì làm gì có chuyện Hán hóa? Tĩnh tâm kiểm lại những văn bản của thời Trung đại mà mình từng đọc, tôi dường như không thấy tài liệu nào đề cập chuyện này. Không tin vào trí nhớ mong manh của mình, tôi bấm máy hỏi một học giả uyên bác. Đang chuyện trò ngon trớn, nghe câu hỏi, ông sựng lại ngỡ ngàng. Lát sau ông trả lời: “Ờ, ờ… mình cũng chưa thấy. Nhưng để suy nghĩ thêm…” Mấy bữa sau, ông xác nhận là chưa từng đọc được ý tưởng nào như thế vào thời Trung đại. Chỉ có vua Trần dặn quần thần không được bắt chước Trung Quốc!
Sau hơn 20 năm hoạt động, Viện Viễn Đông Bác cổ công bố nhiều kết quả khảo cứu về lịch sử văn hóa Việt Nam. Năm 1912, trong công trình đầu tiên và có ảnh hưởng lớn tới tiếng Việt: “Các nghiên cứu về ngữ âm lịch sử của tiếng An Nam” (Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite: Les initiales), Viện sỹ Henri Maspéro cho rằng, tiếng Việt vay mượn khoảng 75% từ ngôn ngữ Hán. Tuy nhiên, ông không phải người đầu tiên đề xuất điều này. Trước đó, vào năm 1838 Giám mục Taberd (tác giả cuốn Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị) từng phát biểu: “tiếng Việt chỉ là một nhánh bị thoái hoá của tiếng Hán”. Nhiều học giả cho rằng, cơ sở để Taberd đưa ra ý kiến này là trong vốn từ của tiếng Việt, từ vựng có nguồn gốc Hán chiếm đa số. Tuy nhiên, mặc dù có tới 75% từ vựng tiếng Việt có gốc Hán nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội). Do đó, chúng phải là những từ vay mượn, chứ không phải là những từ mang tính nguồn gốc.
Tiếp đó, Aurousseau tuyên bố: “Năm 333 TCN, do nước Sở diệt nước Việt, con cháu của Việt Vương Câu Tiễn chạy xuống Bắc Việt Nam, làm nên người Việt Nam hôm nay.” Những kiến thức của các bậc thầy khai hóa khẳng định rằng người Việt là một nhánh của người Tàu từ mấy trăm năm trước Công nguyên. Không chỉ vậy, trong nghìn năm Bắc thuộc, người Tầu sang, đồng hóa tiếp khiến cho tiếng nói phải vay mượn tới 75% từ tiếng Tàu! “Tri thức khoa học” tân kỳ ấy được những học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… biên thành sách sử dạy dỗ dân Việt. Phải chăng, ý tưởng Việt Nam bị Hán hóa nảy sinh như vậy? Rồi từ đó ăn sâu trong tiềm thức người Việt. Học theo thầy Tây, ông Nguyễn Tài Cẩn, nhà ngữ học hàng đầu, “khám phá”, trong tiếng Việt có lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa, đẩy tỷ lệ vay mượn của tiếng Việt lên cao thêm. Ông Trần Quốc Vượng, một trong tứ trụ của nền Sử học đương đại tuyên bố dõng dạc trên BBC tiếng Việt: “Tôi đã nói rồi, nói với ông Phạm Văn Đồng rằng, chúng ta có một nghìn năm Bắc thuộc, tính cách nào thì cũng một nghìn năm. Quan sang này, rồi lính tới này. Chúng ta bị đồng hóa đứt đuôi!”
Cũng phải nói đến một sự thật là, suốt thời Trung đại, kẻ sỹ người Việt đều nhuần thấm Tứ Thư, Ngũ Kinh, đều thuộc Sử, Tử, đều hiểu và vận dụng thành thạo Dịch lý, Tử vi, Phong thủy… Không chỉ vậy, tri thức được coi là của Tàu đó cũng thấm đẫm trong cuộc sống của người bình dân ít học. Điều này mặc nhiên gợi cho người ta nếp nghĩ: vào thời Bắc thuộc, người Trung Quốc mang những thứ đó sang để khai hóa người Việt. Và đấy là sự Hán hóa!
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm khảo cứu tới tận cùng lịch sử văn hóa Việt, tôi phát hiện là hoàn toàn không có chuyện Việt Nam bị Hán hóa. Xin trình bày như sau.
Hán hóa là việc người Hán đồng hóa một cộng đồng khác, khiến cho cộng đồng này trở nên giống người Hán về di truyền và văn hóa. Có thể dẫn những thí dụ trong lịch sử: người Mông Cổ xâm chiếm Trung Hoa, lập nhà Nguyên và đưa hàng triệu người sang định cư. Tự hào là tầng lớp thống trị, người Nguyên vỗ ngực xưng: “Ta là Nguyên nhân.” Nhưng rồi khi triều Nguyên bị lật đổ, những người Mông Cổ trên đất Trung Hoa hòa huyết với người bản thổ, trở thành người Hán với mã di truyền Mongoloid phương Nam. Họ nói tiếng Bắc Kinh và theo phong tục tập quán của người Hán. Con cháu họ quên nguồn gốc của Thành Cát Tư Hãn mà xưng là người Hán, và cũng như mọi người Hán khác, nhận là hậu duệ của Hoa Hạ. Người Mãn Thanh cũng là thí dụ tương tự. Sau 300 năm dùng “văn hóa đuôi sam” thống trị Trung Quốc, nay tất cả họ đã thành người Hán và không còn ai nói được tiếng Mãn Châu. Điều này cũng xảy ra gần như tương tự với đại bộ phận cộng đồng Bách Việt ở Nam Dương Tử. Tuy từ hơn 2000 năm TCN, về mặt di truyền, người Bách Việt cùng chủng Mongoloid phương Nam với người Hán nhưng về mặt tiếng nói và văn hóa vẫn làm nên cộng đồng người Việt riêng. Nhưng chỉ 50 năm cuối của thế kỷ trước, sau khi Trung Cộng chiếm Hoa lục, hầu hết người Nam Dương Tử nói tiếng Bắc Kinh, theo phong tục tập quán Hán và tự xưng là người Hán. Rõ ràng sự Hán hóa đã thành công.
Muốn xem Việt Nam có bị Hán hóa hay không, cần phải khảo sát trên ba hệ quy chiếu: về con người, về ngôn ngữ và về phong tục tập quán.
1. Về con người:
Khảo sát 70 sọ từ thời đồ đá tới thời kim khí được phát hiện ở Việt Nam (khoảng 30.000 đến 2000 năm TCN), Giáo sư Nguyễn Đình Khoa công bố: “Suốt thời đồ đá, dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình Australoid. Nhưng sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện, trở thành chủ thể dân cư, người Australoid biến mất dần, không hiểu do nhập cư hay đồng hóa.” (1) Năm 2005, từ khai quật di chỉ Mán Bạc Ninh Bình, các nhà khảo cổ Việt-Úc nhận định: “Có quá trình chuyển hóa dân cư Việt Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000 năm TCN, việc chuyển hóa hoàn thành.” Như vậy, từ 2000 năm TCN, hầu hết dân cư Việt Nam là chủng Mongoloid phương Nam. Trong khi đó, các khảo cứu dân cư Trung Quốc cho thấy, trước cả thời điểm trên, đại bộ phận dân cư Trung Quốc là người Hán chủng Mongoloid phương Nam. (2) Điều này khẳng định một sự thật: từ 2000 năm TCN, người Trung Quốc và người Việt Nam cùng một chủng tộc Mongoloid phương nam. Nếu năm 333 TCN có chuyện người nước Việt tới nước ta thật thì về mặt di truyền, họ cũng giống như người Việt Nam. Còn tiếng nói của họ cũng là tiếng Việt nên không thể xảy ra chuyện đồng hóa. Vào đầu Công nguyên, khi nước ta bị Bắc thuộc, người Trung Quốc sang cai trị thì cả người Việt và người Hán cùng một mã di truyền. Việc hòa huyết Hán Việt là có nhưng hòa huyết nội chủng không phải là đồng hóa.
Mặt khác, từ khảo sát ADN dân cư châu Á, S.W. Ballinger cho biết: “Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á.” (3) Điều này nói rằng, dân cư châu Á cùng một nguồn gốc, trong đó người Việt Nam là gốc.  Khám phá này cho thấy, do có chỉ số đa dạng di truyền thấp hơn nên khi hòa huyết, người Hán không thể đồng hóa người Việt mà ngược lại, chính họ bị hòa tan vào người Việt. Có thể ví, người Việt Nam là một biển nước mặn mà mỗi người Hán là một thùng nước lợ. Đem thùng nước lợ hòa vào biển nước mặn không làm nước biển nhạt đi mà lại làm cho thùng nước lợ biến mất trong biển mặn.
Từ đó khẳng định: không có chuyện Hán hóa người Việt Nam về di truyền học.
2. Về tiếng nói:
Từ khảo cứu của mình, chúng tôi đã chứng minh rằng, 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục, trở thành dân Trung Hoa. Một khi dân cư Trung Hoa là người Việt thì tiếng nói Trung Hoa cũng là tiếng Việt. Khảo cứu ngôn ngữ Trung Hoa, các nhà ngữ học phát hiện: tám phương ngữ trên đất Trung Quốc đều là tiếng Việt mà không hề có cái gọi là “phương ngữ Hán”. Tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến là gốc của ngôn ngữ Trung Hoa. Người đặt chân đầu tiên tới Quảng Đông, Phúc Kiến là người Nghệ Tĩnh. Do vậy, tiếng nói vùng Nghệ Tĩnh trở thành ngôn ngữ gốc của Trung Hoa. Ở Nam Hoàng Hà, do người Việt tiếp xúc với người Mông Cổ nên tiếng nói chuyển hóa theo cách nói và giọng điệu Mông Cổ. Vào đầu thời Bắc thuộc, người Hán sang nước ta nói tiếng nói gần giống với tiếng Việt. Nhưng sau đó, do nhiều người phương Bắc (gọi là người Hồ) tràn vào, tiếng nói của quan quân Trung Quốc không còn giống tiếng Việt nữa. Vốn có tiếng nói thanh nhã chuẩn mực nên người Việt Nam không học tiếng của người Trung Quốc.
Từ những khai quật khảo cổ chữ Giáp cốt và khảo cứu quá trình hình thành chữ viết Trung Hoa, chúng tôi cũng chứng minh được rằng: người Việt sáng tạo chữ tượng hình từ 9000 năm trước tại văn hóa Giả Hồ. Sau đó, ở nhiều nơi khác. Khi nhà Thương chiếm đất An Dương Hà Nam của người Việt, đã chiếm luôn chữ tượng hình rồi cải tiến thành chữ thời Tần. Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa. Chữ tượng hình do người Việt chế ra để ký âm tiếng Việt. Do vậy, mọi chữ Hán chỉ khi đọc bằng âm Việt cổ và giải nghĩa bằng nghĩa tiếng Việt mới chính xác.
Những học giả hàng đầu thế giới trước đây như Taberd, Maspéro đã sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng, tiếng Việt mượn từ tiếng Trung Quốc. Chính sai lầm này góp phần tạo nên ý tưởng Việt Nam bị Hán hóa.
3. Về phong tục tập quán
Có sự thực là, giữa người Việt và người Trung Hoa có nhiều phong tục tập quán gần gũi: Tết Nguyên đán, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu, lễ tế Đàn Xã tắc, thờ ông Táo... Do vậy, từ lâu có ý kiến cho rằng, những tập quán đó do người Trung Quốc đem sang vào thời Bắc thuộc. Tuy nhiên khi khảo cứu kỹ, chúng tôi thấy, đấy là những tập quán của người Việt trồng lúa nước hình thành từ xa xưa và phổ biến trên đất Việt Nam và Trung Hoa, những nơi người Việt sinh sống.
Nhiều nhà khảo cứu cho rằng, lễ tế Xã tắc được nhập từ Trung Quốc. Nhưng sự thực, đó vốn là lễ tế Thần Lúa và Thần Đất của người Việt cổ. Tại Quảng Tây vẫn còn những đàn tế từ 6000 năm trước. Dân trong làng chung sức đắp khoảnh đất cao hình tròn gần làng đề hàng năm làm đàn tế thần lúa và thần đất. Còn khi lụt lội thì dân làng lên ở tạm. Tục tế Thần Đất và Thần Lúa theo chân người Việt tới Nam Hoàng Hà. Vào thời Chu, vua nhà Chu chuyển thành lễ tế tổ nhà Chu là Hậu Tắc nên gọi là tế Xã Tắc. Khi các quan cai trị Trung Quốc thực hành lễ tế Xã Tắc ở Việt Nam thì người Việt nhận ra nội dung lễ tế của mình nhưng hiểu chữ “tắc” là một loại lúa. Do vậy, lễ tế lớn này được các chính quyền quân chủ Việt Nam tiếp tục thực hiện, để tế Thần Đất và Thần Lúa mà không còn là tế tổ nhà Chu. Có việc một số nhà nước quân chủ Việt Nam học theo những quy chế, luật pháp Trung Quốc nhưng đó thuộc về thượng tầng kiến trúc mà không thuộc cơ sở văn hóa. Có sự thực là, trong tâm thức người dân Việt luôn cho rằng, người Việt ưu tú hơn người Tàu, gọi người Trung Quốc là thằng Ngô, chú Khách… Ngay Khổng Tử cũng nhận ra điều này trong chương thứ mười của sách Trung Dung. Tử Lộ hỏi về sự cang cường. Khổng Tử nói: “Là cái cang cường của người phương nam ư? Hay là nói cái cang cường của người phương bắc? Hay là nói cái cang cường (theo kiểu) của riêng ngươi? Dạy bảo người ta một cách khoan dung dịu dàng, không trả thù kẻ vô đạo đó là cái cang cường của người phương nam, người quân tử giữ sự cang cường đó. Còn ngày đêm bạn cùng giáp bền gươm sắc, dẫu chết cũng không ngán, đó là cái cang cường của người phương bắc, những kẻ thượng võ hiếu đấu thì giữ sự cang cường này! Người quân tử sống hoà mục với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục, đấy mới là sự cang cường chân chính.”
Chính do sở hữu một bản sắc văn hóa cao hơn nên người Việt Nam không bị Trung Quốc đồng hóa về văn hóa.
     Kết luận:
Việt Nam là cội nguồn của văn hóa nông nghiệp phương Đông nên Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét gần gũi về con người, tiếng nói và phong tục tập quán. Nội dung kinh Thi, kinh Dịch, kinh Nhạc, kinh Lễ… bàng bạc trong cuộc sống và tâm linh người Việt. Đó là văn hóa tinh thần do tổ tiên người Việt sáng tạo nhưng do chưa có chữ viết nên không ghi lại được mà chỉ truyền lưu một cách vô thức trong dân gian. Khi người Hán mang văn bản những kinh đó sang, người Việt cảm thấy dễ học, dễ nhớ như gặp lại những gì quen thuộc. Ngay chữ Hán, người Việt Nam cũng thấy gần gũi với tiếng nói của mình. Do vậy, suốt trong thời Bắc thuộc, người Việt luôn chống Trung Quốc xâm lăng nhưng không hề bài bác văn hóa Trung Hoa. Từ xa xưa, tổ tiên ta cho rằng, những nét tương đồng đó là do đồng văn đồng chủng mà không hề nghĩ tới chuyện người Việt bị Hán hóa. Chỉ sang thế kỷ XX, từ những công trình nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam, người Pháp theo quan niệm Hoa trung (Trung Hoa là trung tâm) cho rằng, người Hán mang văn minh Hoa Hạ xuống đồng hóa các sắc dân dã man phương Nam nên đã truyền cho dân ta quan niệm Việt Nam bị Hán hóa. Sự gần gũi về văn hóa giữa người Việt và người Hoa xuất hiện từ xa xưa, thuộc về nguồn gốc. Do không hiểu điều này nên các học giả Pháp cũng như Việt Nam cho rằng, đó là do người Trung Quốc mang tới vào thời Bắc thuộc.
Ngày nay, từ nghiên cứu khám phá sự thật về cội nguồn dân cư và văn hóa phương Đông, chúng ta khẳng định không hề có chuyện Việt Nam bị Hán hóa. Sự thực là, Việt Nam là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông nên những sự giống nhau giữa con người và văn hóa Việt Nam và Trung Quốc là sự giống nhau từ nguồn gốc mà Việt Nam là gốc. Theo nguyên lý nước chảy từ nơi cao xuống nơi thấp, Việt Nam có nền văn hóa cao hơn nên dù có 1000 năm cai trị thì người Trung Quốc cũng không thể đồng hóa được điều gì về con người và văn hóa Việt Nam. Cũng theo chiều lưu chuyển đó, người Triều Tiên và Nhật Bản nhận được dòng gen và văn hóa văn hóa Việt xa hơn so với người Trung Quốc.
Nhiệm vụ của chúng ta là làm rõ sự thật này để giải tỏa những sai lầm ngộ nhận trong quá khứ đang đè nặng tâm trí dân tộc!
 
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN, H. 1983)
2. Zhou Jixu. The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation.  SINO-PLATONIC PAPERS Number 175  December, 2006
3. S.W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
 
MỘT CÁCH LÝ GIẢI KHÁC VỀ
VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM
Cho đến nay đã có nhiều khảo cứu về vương quốc Phù Nam. Bài viết “Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử.” của Tiến sỹ Vũ Đức Liêm (1) là một cống hiến mới đáng trân trọng. Tuy nhiên, ngay ở đây chúng tôi cũng thấy tác giả chưa tiếp cận chân lý bởi lẽ chưa giải quyết được vấn đề căn cốt: chủ nhân của Phù Nam là ai? Có thể là như tác giả nói: người Austranesian từ biển vào kết hợp với người bản địa tạo thành dân cư Phù Nam. Nhưng một khi câu hỏi: người Austranesian có nguồn gốc thế nào và người bản địa là ai chưa được trả lời thì mọi phát biểu về Phù Nam cũng chỉ là xây lâu đài trên cát! Bởi lẽ lịch sử là hoạt động xã hội của cộng đồng người diễn ra trong quá khứ. Một khi chưa biết cộng đồng đó là ai, có nguồn gốc ra sao và quá trình hình thành thế nào để hiện diện ở thời điểm khảo cứu thì mọi điều nói về họ đều không có cơ sở. Do vậy, trước khi khảo cứu về Phù Nam phải giải quyết vấn đề tiên quyết: người Phù Nam là ai? Cho đến cuối thế kỷ trước, trả lời những câu hỏi trên là bất khả. Nhưng sang thế kỷ này những khám phá mới của di truyền học cho câu trả lời chính xác.
Bài viết này góp phần đưa ra một cách lý giải.
I.Ai là chủ nhân vương quốc Phù Nam?
Nói về nguồn gốc của người Austronesian, những người từ biển vào góp phần làm nên dân cư Phù Nam, TS Vũ Đức Liêm viết: “Lịch sử của Phù Nam có lẽ nên được kể từ 5000-7000 năm trước. Bắt đầu với cuộc di cư của các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesians) từ đảo Đài Loan xuống Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ mang theo lúa nước, lợn, dừa, khoai lang, và kỹ nghệ làm gốm, đóng tàu… qua các hòn đảo, duyên hải trên Biển Đông (Peter Bellwood 2006, 2007, 2014, 2017; Solheim 2007). Cuộc du hành này là một trong những hiện tượng kỳ vĩ của nhân loại, đưa Austronesians thành nhóm ngôn ngữ trải rộng nhất trong lịch sử thời tiền hiện đại, băng qua 1/3 địa cầu, kết nối hàng chục nghìn hòn đảo trải dài từ Nhật Bản đến đảo Madagascar và quần đảo Tây Thái Bình Dương.”
Hơn chục năm trước, chúng tôi đã đọc những tác giả mà ông dẫn và có lúc đưa vào tài liệu tham khảo của mình. Nhưng sau đó nhận thấy những tác giả trên chưa có cái nhìn toàn diện, đạt tới tận cùng của sự hình thành con người và văn hóa phương Đông, chúng tôi đã bỏ qua. Cho rằng nhóm người từ Đài Loan tới 5000 năm trước đã làm nên toàn bộ dân cư Austronesian là không phù hợp với thực tế.
Từ những khảo cứu di truyền học dân cư châu Á kết hợp với cổ nhân học, chúng tôi phát hiện, 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết cho ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian cùng mang mã di truyền Australoid. 50.000 năm cách nay, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, châu Úc và Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục (2), (3)
7000 năm trước, tại văn hóa Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà, người Việt Indonesian gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục ở Bắc Hoàng Hà, sinh ra chủng người Việt mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, sau này được gọi là người Nam Á. Khoảng 2600 năm TCN, người Mongoloid phương Nam di cư về phía Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền đại đa số dân cư Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam (4). Do lịch sử hình thành như vậy, nên toàn bộ dân cư châu Á là người gốc Việt với tiếng nói lạc Việt là chủ thể. (5)
Ở Đông Nam Á lục địa, người Indonesian tập trung ở Bắc Bộ Việt Nam sau này thành người Mongoloid phương Nam điển hình. Người Melanesian sống ở Tây Nguyên, các nước Campuchia, Lào, Miến Điện… sau thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Người Melanesian trên các đảo Đông Nam Á được gọi là người Austranesian hay Polynesian.
Khoảng 5300 năm trước, tại vùng cửa sông Chiết Giang, người Lạc Việt thành lập nhà nước Lương Chử (Xích Quỷ). Từ di cốt người Lương Chử, di truyền học phát hiện sự có mặt của Haplogroup O1 (Y-DNA) gồm người Indonesian (mã di truyền M122) và Melanesian (M119). Khoảng 4300 năm trước, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm. người Indonesian đi lên những chỗ cao trong đất liền. Trong khi đó, người Melanesian di cư ra Đài Loan rồi tới các hải đảo, nhập vào dòng người Austronesian sinh sống từ lâu ở đây. [6] Khoảng 5000 năm trước, vào thời thịnh vượng của nhà nước Xích Quỷ xuất hiện mạng lưới buôn bán ngọc bằng thuyền trên Biển Đông, đưa ngọc từ mỏ khai thác ở Đài Loan đến nhiều nơi ven biển Việt Nam, Philippine, Madagasca.
Từ sự hình thành dân cư khu vực như trên, ta có thể truy ra nguồn gốc người Phù Nam như sau:
1. Người bản địa Phù Nam.
 Danh xưng Phù Nam trong sách Trung Hoa gợi ý cho thấy, đây là những bộ tộc người miền núi. Bà Nam, Bồ Nam… là những từ Việt cổ chỉ núi. Sau này chuyển thành phnom, phnong. Từ đó người Hoa chuyển thành Đường âm Phù Nam. Mang tên “người miền núi” nói lên rằng, đó là những cộng đồng người Việt sống trên vùng núi Campuchia và Nam Trường Sơn. Vào đầu Công nguyên khi đồng bằng sông Cửu Long hình thành, những bộ lạc người Việt mang mã di truyền Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam tràn xuống định cư rồi xây dựng nhà nước của “người miền núi,” nước của dân Bà Nam, Phnom. Theo truyền thuyết, đấy là nước của công chúa Liễu Diệp. Điều này cũng cho thấy đang trong thời kỳ mẫu hệ
Các vật phẩm ngọc bích: A-Gò Mả Vôi (văn hóa Sa Huỳnh) và các di chỉ ở Phillipines và Đài Loan. (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007)
b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh (Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia,2002)
c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ) (Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức). Hình ảnh từ bài của TS Vũ Đức Liêm.
2.Về người Autronesian:
Ta có thể tin là người từ Mã Lai và Java, hậu duệ những người từ Việt Nam chiếm lĩnh các đảo này từ 50.000 năm trước. Họ giỏi đi biển và nhiều lần cướp phá ven biển miền Trung của người Chămpa. Do vị trí địa lý, họ đã thấm nhuần văn hóa Ấn Độ. Có khả năng trong đoàn người thực dân này có những nhà buôn, nhà sư và chỉ huy người Ấn. Sau khi đánh thắng người bản địa của Liễu Diệp, họ giữ vai trò chủ đạo và xây dựng đất nước theo mô hình văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, do là người Việt nên tiếng nói và nhiều phong tục tập quán của họ vẫn trên cơ sở văn hóa Việt mà ảnh hưởng Ấn Độ chỉ là cơ tầng thứ cấp. Như vậy, hai dòng người  Việt tạo đã nên dân cư Phù Nam.
Có một vấn đề đáng phải suy ngẫm: các nhà khảo cổ tìm được khuyên tai hai đầu thú bằng ngọc tại di chỉ Giồng Cá Vồ huyện Cần Giờ kèm theo xương thái dương. Do tuổi của di cốt không được xác định nên chúng ta không biết chính xác niên đại của khuyên tai. Bởi vậy ở đây buộc phải suy doán: loại khuyên tai này xuất hiện duy nhất một lần khoảng 5000 năm trước tại nhiều nơi ven biển Việt Nam, Phillipines… Giải thích sao đây về việc nó có mặt ở văn hóa Phù Nam? Liệu có chuyện người Phù Nam mang vật báu truyền từ hơn 4000 năm trước? Khả năng này gần như không có. Cách giải thích hợp lý hơn là di chỉ Giồng Cá Vồ có tuổi 5000 năm tương đương văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng do sự nhầm lẫn, các nhà khảo cổ cho đó là di vật Phù Nam? Như vậy nó không thuộc văn hóa Phù Nam mà thuộc về một văn hóa xuất hiện trước đó hơn 4000 năm. Nếu giả định này đúng thì Cần Giờ là di tích hình thành sau, ở dạng di tích chồng lên di tích. Điều này cho thấy người Việt đã sống ở đây từ 5000 năm trước. Không có gì bất thường, nó chỉ chứng tỏ một sự thực: người Việt từ xa xưa đã làm chủ vùng đất này.
II. Nguyên nhân sụp đổ của Phù Nam.
Dựa trên cổ thư Trung Hoa, nhiều tác giả cho rằng, vào thế kỷ VII, một phần do con đường thương mại không còn đi qua nên Phù Nam sút giảm về kinh  tế. Và cuộc xâm lăng của người Chân Lạp khiến Phù Nam sụp đổ. Có thể đó là một nguyên nhân nhưng không phải nguyên nhân cơ bản. Từ cuộc khai quật của Malleret năm 1944 tới những cuộc khai quật ở Nền Chùa, Gò Tháp… sau này, các nhà khảo cổ chứng kiến các di chỉ đều nguyên vẹn chứng tỏ vùng đất này không trải qua thời gian bị chiếm đóng, cướp bóc. Như vậy là không có cuộc xâm lăng hay cuộc xâm lăng chỉ xảy ra một cách hạn chế.
Thực tế, Phù Nam sụp đổ do nguyên nhân khác. 15 năm trước, trong bài viết “Từ Óc Eo nhìn về đồng bằng sông Cửu Long” đăng trên tạp chí Xưa&Nay, chúng tôi cho rằng, đó là do Hải xâm Holoxen IV. Nhà địa chất học người Pháp H. Fontaine cho thấy bức tranh khái quát của việc biến đổi mực nước biển như sau:
“Cuối Đại Trung sinh (Pleixtoxen) đầu Đại Tân sinh (Holoxen) có một đợt hải thoái, mực nước biển hạ thấp khoảng 100 – 120 m so với ngày nay, khiến cho Biển Đông chỉ còn là một vũng nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wun cách nay 60.000 đến 11.000 năm. Sau giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 750 năm (từ 11.000 đến 10.250 năm trước) là thời kỳ băng tan và nước biển bắt đầu dâng. Sau đó vào năm 4850 trước Công nguyên, nước biển dâng lên bằng mực nước ngày nay. Sau thời kỳ này là 4 đợt hải xâm và 3 đợt hải thoái xen kẽ nhau:
Hải xâm Holoxen I từ năm 4850 đến năm 1650 trước Công nguyên, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao: 4 m (năm 3900), 3 m (năm 2950 ), và 2 m (năm 2350 ).
Hải thoái Holoxen 1 từ năm 1650 đến năm 1.150 trước Công nguyên, thời gian 500 năm với mức hạ thấp nhất -0,8 m xảy ra vào năm 1400 trước Công nguyên.
Hải xâm Holoxen II từ năm 1150 đến năm 850 trước Công nguyên, thời gian 300 năm, đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Công nguyên.
Hải thoái Holoxen 2 từ năm 850 đến năm 200 trước Công nguyên, thời gian 650 năm, với cực tiểu 1 m xảy ra vào năm 550.
Hải xâm Holoxen III từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên, kéo dài 150 năm, mức cao nhất khoảng 0,4 m vào năm 50.
Hải thoái Holoxen 3 từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 Công nguyên, kéo dài 500 năm với mực nước thấp nhất -0,5 m vào năm 200.
Hải xâm Holoxen IV từ năm 350 đến năm 1150, kéo dài 800 năm với mức cao trung bình 0,8 m vào năm 650.
Từ năm 1150 đến 1950 nước biển dao động 1 m, xem như ổn định hơn các thời kỳ trước.
Điều đáng chú ý là khi so sánh những vết tích hải xâm, hải thoái ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy sự tương đồng với những dấu tích hải xâm hải thoái ở bờ bên kia của Thái Bình Dương, trên đất Mỹ: Hải thoái Óc Eo cách nay 1750 năm tương đương Hải thoái Florida -3 m cách nay 2000 năm; Hải thoái Rạch Giá cách nay 3350 năm tương đương Hải thoái Crane Key -2 m cách nay 3300 năm.
Trong những đợt hải xâm, hải thoái trên, đáng chú ý là Hải xâm Holoxen IV. Sau khi hiệu chỉnh niên hạn theo phương pháp C14, các đặc tính của lần hải xâm này như sau: Thời hạn 800 năm, từ năm 350 đến năm 1.150, đỉnh cao vào năm 650. Mực nước cao nhất từ 0,5 đến 1 m trong 30 năm, từ năm 635 đến năm 665.” [7]
Thời điểm Hải xâm Holoxen IV hoàn toàn trùng với thời gian sụp đổ của nhà nước Phù Nam. Sau thời điểm này, phía nam châu thổ sông Cửu Long trở nên hoang vu thời gian dài cho tới tận thế kỷ XIII mà ta thấy ghi chép trong Chân Lạp phong thổ ký của sứ thần nhà Nguyên Chu Đạt Quan. Cho đến thế kỷ XVII vùng đất mênh mông này tuy danh nghĩa thuộc Chân Lạp nhưng vẫn trong tình trạng hoang vu vô quản.
Một câu hỏi được đặt ra: người Phù Nam đi đâu? Họ di cư theo hai hướng: Bộ phận những người mà tổ tiên xưa từ biển vào, nay lại trở ra biển, về lại Mã Lai hay đảo Java. Một bộ phận đi lên phía Nam Trường Sơn, sống chung với đồng bào của mình, trở thành những tộc người Nam Trường sơn hôm nay như đồng bào Mạ.
III. Kết luận
Cho đến nay, những tư liệu và tư tưởng làm nên lịch sử Đông Nam Á phần lớn dựa trên thư tịch cổ Trung Hoa và Đông phương học của Viễn Đông bác cổ Pháp. Tuy nhiên, cả hai nguồn tri thức này đều có những hạn chế. Thư tịch Trung Hoa chỉ xuất hiện từ đầu Công nguyên nên không có những ghi chép xa hơn, tuy rất quý nhưng chỉ phản ánh những sự kiện gần, trong khi thời tiền sử quá dài bị khuất lấp. Đông phương học của người Pháp mang quan niệm sai lầm khi xác định chiều hướng lịch sử phương Đông theo con đường Nam tiến: người từ phương Tây vào Nam Hoàng Hà tạo ra văn minh Hoa Hạ rồi người Hán mang văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Quan điểm như vậy đã chi phối nền sử học phương Đông suốt thế kỷ XX. Nhưng sang thế kỷ XXI, sự thật trái ngược được phát lộ: người tiền sử đặt chân trước hết tới Việt Nam rồi trên đất Việt, con người hòa hợp về huyết thống, tiếng nói và văn hóa sau đó tỏa ra chiếm lĩnh châu Á. Do vậy, chiều hướng lịch sử của phương Đông được đảo ngược: chính con người cùng văn hóa Việt tạo nên dân cư và văn hóa phương Đông. Ngôn ngữ Việt là mẹ của tiếng nói các tộc người châu Á.
Nhìn vào bối cảnh toàn khu vực, Đông Nam Á mà theo ý kiến của Solheim, bao gồm cả Nam Dương Tử, ta thấy, đây là giang sơn của người Việt. Suốt thời đồ đá là hai chủng Indonesian và Melanesian. Sang thời kim khí chuyển hóa thành chủng duy nhất Mongoloid phương Nam.
Cho tới một vài thế kỷ TCN, dân cư Đông Nam Á quy tụ quanh trung tâm Văn Lang của các vua Hùng do mối quan hệ nguồn gốc, huyết thống, ngôn ngữ và văn hóa. Chứng cứ cho việc này là những trống đồng Heger I tìm thấy khắp vùng.
Có ý kiến cho rằng đó là sản phẩm mang tới từ thương mại. Nhưng cũng khó phản bác một khả năng, đó là quyền trượng mà các Vua Hùng ban cho thủ lĩnh khu vực. Sau khi Văn Lang diệt vong và nhất là sau khi Việt Nam bị phương Bắc chiếm đóng, mối liên kết truyền thống của Việt Nam với phía Nam bị đứt đoạn, lực hướng tâm không còn, các thủ lĩnh khu vực theo chiều hướng chung đứng lên lập nhà nước riêng. Những quốc gia cổ ra đời. Do hấp lực của văn hóa Ấn Độ, các nhà nước này theo chính trị Ấn Độ và đem văn hóa Ấn phủ lên nền tảng văn hóa Việt. Dù sự phát triển như vậy sau hàng nghìn năm, thì trên địa bàn Đông Nam Á vẫn tồn tại một nền văn hóa chung mang đậm bản sắc Đông Nam Á. Riêng Việt Nam, hình như cái bản sắc này có vẻ nhạt nhòa hơn nên được cho rằng Việt Nam thuộc cuối nguồn khiến cho chất Đông Nam Á từ các hải đảo tác động tới thiếu phần sâu đậm. Tuy nhiên, hôm nay nhìn lại từ nguồn gốc, ta thấy chính Việt Nam là gốc của văn hóa Đông Nam Á.
Về phương diện ngôn ngữ. Khoảng 150 năm, từ giữa thế kỷ XIX đến nay, những nhà ngữ học hàng đầu của phương Tây đã vũ đoán phân chia ngôn ngữ phương Đông ra các họ ngôn ngữ Hán-Tạng, Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á… Riêng tiếng Việt từng được xếp vào họ Hán-Tạng, sau thấy không ổn thì xếp vào Tày-Thái. Khi vẫn thấy không ổn lại chuyển sang họ Môn-Khmer rồi Nam Á… Cho đến nay lại xuất hiện ý kiến đưa trở về họ Hán-Tạng! Sở dĩ như vậy bởi lẽ có sự thật: tiếng Việt là mẹ các ngữ phương Đông. Tuy rất gần gũi với mọi ngữ hệ phương Đông nhưng khi xếp vào bất cứ khuôn nào thì rồi cũng tới lúc nó cựa mình phá tung cái khuôn nhỏ hẹp áp đặt. Chỉ tới hôm nay, khi nhận thức ra người Việt là chủ thể của mọi dân cư châu Á thì người ta mới bừng tình thừa nhận ý kiến của nhà ngữ học H. Ferey từ năm 1892: “Tiếng Việt là mẹ các ngữ” [8]
Từ thực tế trên có thể kết luận như sau:
Đông Nam Á là giang sơn của cộng đồng người Việt với dòng máu, tiếng nói cùng văn hóa Việt. Cho tới vài thế kỷ TCN, toàn bộ khu vực hướng vào trung tâm Văn Lang của các vua Hùng theo lực hướng tâm liên kết bởi nguồn gốc, huyết thống, tiếng nói và văn hóa. Vào những thế kỷ đầu CN, do Văn Lang bị diệt vong rồi bị xâm lược, lực hướng tâm đứt đoạn, các thủ lĩnh khu vực đứng lên lập quốc gia riêng. Trong quá trình lịch sử, giữa các quốc gia của người Việt liên tục có sự tranh chấp lãnh thổ. Biên giới như hiện nay là kết quả của những sự tương nhượng và được xác lập bởi công pháp quốc tế. Mọi ý tưởng về “quyền sở hữu lịch sử” là không có cơ sở thực tế và phi lịch sử.
Do vậy, đất đai Phù Nam xưa là một phần của đất nước Việt Nam hôm nay. Lịch sử Phù nam là một bộ phận của lịch sử Việt Nam, là lịch sử của người Việt từng xây dựng đất Việt.
 
Tài liệu tham khảo:
1. Vũ Đức Liêm. Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử. (http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/Phu-Nam-Huyen-thoai-va-nhung-van-de-lich-su
2. J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Populations in China
3. Stephen Oppenheimer. Out of Eden: The Peopling of the World.
4. Hà Văn Thùy. Góp phần nhân thức lại lich sử văn hóa Việt. (NXB Hội Nhà văn. H, 2015)
5. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á (NXB DH&THCN, H. 1983)
6. Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực (NXB Hội Nhà văn. H, 2017) 
 7. Liêu Kim Sanh. Hải xâm hải thoái xưa ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Nam Bộ. Trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng Cửu Long. Sở Văn hóa thông tin An Giang- 1984.
  8. FREY, H. L'annamite, mére des langues; communaute d'origine des races celtiques, semitiques, soudanaises et de l'lndo-Chine. Paris, Hachette et cie, 1892.
 
NHỮNG VẤN ĐỀ NỀN TẢNG
CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM
Cho đến cuối thế kỷ trước, do quá hiếm tư liệu nên hầu hết các cuốn sử đều viết rất sơ lược về thời Tiền sử. Vì thế, mặc nhiên hình thành quan niệm “thời Tiền sử không quan trọng đối với lịch sử các quốc gia”. Sách sử Việt Nam không là ngoại lệ. Trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy tới thế kỷ X (LSVN I) của Viện Sử học in năm 2015, tái bản năm 2017, thời Tiền sử người Việt tuy kéo dài tới 800.000 năm nhưng con người chỉ được biết tới từ người Đứng thẳng sang người Khôn ngoan với các bộ lạc Hòa Bình, Bắc Sơn… mà tất cả thành tựu văn hóa chỉ là những hòn đá.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng thời Tiền sử có ý nghĩa quyết định tới lịch sử mỗi dân tộc. Trong cuốn Nhiệt đới buồn, Claude-Lévi-Strauss nhà nhân học lớn của thế giới viết: “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua.”  “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi…” [1]. Xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, phát biểu của C. Strauss chỉ như lời tiên tri vì chưa nhiều sự kiện minh chứng cho nhận định của ông. Nhưng sang thế kỷ mới, nhờ công nghệ di truyền tìm ra nguồn gốc loài người cùng các chủng tộc, thời tiền sử của nhiều dân tộc trở nên sáng tỏ.
Sau hơn 10 năm (2004-2017) tập trung toàn bộ thời gian và tâm lực tìm về cội nguồn dân tộc, chúng tôi đã công bố hàng trăm bài viết và sáu cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2006), Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học, 2008), Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn học, 2011), Khám phá lịch sử Trung Hoa (NXB Hội Nhà văn, 2016), Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt (NXB Hội Nhà văn, 2016) và Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực (NXB Hội nhà văn, 2017).
So sánh khảo cứu của mình với cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, chúng tôi thấy có sự khác biệt rất quan trọng, có thể nói là dẫn tới sự phá sản của những quan niệm lịch sử cũ. Xin trình bày những vấn đề nổi cộm như sau:
1. Về người Đứng thẳng:
Sách LSVN I cho rằng: “Những dấu tích về Người vượn ở Núi Đọ, Xuân Lộc, Sa Thầy, Yaly tuy còn thiếu những chứng cứ về địa tầng và cổ sinh, không có tầng văn hóa rõ rệt; ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai chưa tìm thấy công cụ lao động nhưng được coi là xưa nhất, mở đầu cho lịch sử nguyên thủy ở Việt Nam.” (T.28)
            Tuy nhiên, những tài liệu khảo cổ học mới nhất của thế giới, cho thấy: Người Đứng thẳng (Homo erectus) và người Khôn ngoan (Homo sapiens) là hai loài người khác nhau. Người Đứng thẳng hoàn toàn biến mất khỏi lục địa châu Á từ 250.000 năm trước. Dấu vết cuối cùng của họ là tại di chỉ Ngandong Indonesia 200.000 năm cách nay.  Trong khi đó, nhân học thế giới khẳng định, người Hiện đại Homo sapiens có mặt ở Việt Nam 70.000 năm trước. Trên đất Việt Nam, hai loài người này sống cách nhau 180.000 năm. Do đó, không có chuyện người Đứng thẳng chuyển hóa thành người Khôn ngoan tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.  Cho rằng “Người đi thẳng muộn, thuộc Người tinh khôn” là phản khoa học! Không xác định được quan hệ giữa hai loài người mà đã cho rằng lịch sử thời tiền sử của Việt Nam kém dài tới 800.000 năm là sự khẳng định sai lầm khiến lịch sử Việt Nam lạc lõng với tri thức nhân loại.
2. Sự xuất hiện người Khôn ngoan trên đất Việt Nam.
LSVN I cho rằng: “Người Thẩm Ôm là dạng Người đi thẳng muộn, thuộc Người tinh khôn hay Người hiện đại (Homo sapiens) ở Việt Nam. Niên đại cho các hóa thạch này từ 140.000 năm đến 250.000 năm BP.” (T.28)
Trong khi đó, tài liệu mới nhất của thế giới xác nhận: Người Hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi 195.000 năm trước, 85.000 cách nay rời khỏi châu Phi, men theo bờ biển Ấn Độ Dương, tới Việt Nam 70.000 năm trước.
Như vậy, sách LSVN I do không cập nhật tài liệu thế giới nên không hiểu người Việt là ai. Lịch sử là tài liệu ghi chép hoạt động của con người trong quá khứ. Một khi không biết con người đó là ai thì những gì nói về họ đều không có cơ sở!
3. Người Việt chiếm lĩnh thế giới.
Trên đất Việt Nam, người Việt cổ tăng nhân số. 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh đất Ấn Độ. 40.000 năm cách nay, đi lên chinh phục Hoa lục. Cũng thời gian này, từ Hoa lục một bộ phận người Việt đi về phía Tây, qua Trung Á tới châu Âu. Ở đây họ gặp người Europid từ Trung Đông lên. Hai dòng người hòa huyết sinh ra tổ tiên người châu Âu. Khoảng 30.000 năm trước, từ Siberia, người Việt vượt eo Bering sang chinh phục châu Mỹ. Cũng khoảng 40.000 năm trước, những nhóm người Mongoloid cư trú riêng biệt ở phía Tây Bắc Việt Nam đi lên Tây Bắc Trung Quốc và đất Mông Cổ. Do giữ được nguồn gen nguyên chủng, sau này họ trở thành người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid).
Cuốn LSVN I hoàn  toàn không biết tới quá trình quan trọng này trong sự hình thành dân tộc Việt. Vì thế không thể hiểu lịch sử của tộc Việt.
4. Sự hình thành dân cư Trung Quốc.
Từ 40.000 năm trước, người Lạc Việt (Indonesian) mang mã di truyền Australoid đi lên Hoa lục. 7.000 năm trước, tại vùng Ngưỡng Thiều trung du Hoàng Hà, người Lạc Việt tiếp xúc với người Mông Cổ du mục ở bờ Bắc, dẫn tới hòa huyết sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể của văn hóa Ngưỡng Thiều rồi cả lưu vực Hoàng Hà.
Năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ do họ Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm đất của người Lạc Việt ở Nam Hoàng Hà, lập vương quốc Hoàng Đế. Do chung sống, người Việt Mongoloid phương Nam hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra lớp con lai Mông-Việt, tự gọi là Hoa Hạ. Người Hoa Hạ dần thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Do người Việt quá đông trong khi người Mông Cổ quá ít nên thời gian ngắn sau (không tới 100 năm), toàn bộ người Hoa Hạ chuyển thành người Việt. Các triều đại từ Nghiêu, Thuấn, Vũ tới Thương, Chu đều là người Việt và phần lớn không có quan hệ máu huyết với Hoàng Đế.  Nhưng do vinh quang của Hoa Hạ trong quá khứ nên đều nhận là Hoa Hạ!
Trong khi đó, bên ngoài vương quốc của Hoàng Đế, không chỉ ở lưu vực Dương Tử mà ngay tại lưu vực Hoàng Hà, nhiều quốc gia hay bộ tộc độc lập của người Việt liên tục kháng chiến chống lại triều đình Hoàng Đế. Thí dụ như nước Ư Việt hay Dương Việt ở vùng Hà Nam, tồn tại dai dẳng, sau này thành nước Sở. Bộ tộc Tần ở phía Tây sau này bành trướng thành nhà Tần diệt Lục quốc, lập đế chế Tần. Diệt nhà Tần, Lưu Bang người Việt nước Sở lập nhà Hán, xưng là Hoa Hạ, một sự trớ trêu của lịch sử!
Do không cập nhật tài liệu, cuốn LSVN I vẫn theo những quan niệm sai lầm của thế kỷ XX, cho người Hán từ phía Tây xâm nhập Nam Hoàng Hà, làm nên dân tộc Hán, dẫn tới việc cho rằng người Việt bị Hán hóa trong quá trình lịch sử.
5. Sự hình thành dân cư Việt Nam.
Từ 70.000 năm trước, hai đai chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam, hòa huyết sinh ra bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong quá trình chung sống, hai chủng da đen Vedoid và Negritoid gần như biến mất. Hai chủng Indonesian và Melanesian còn lại do người đa số Indonesian (được gọi là Lạc Việt) giữ vai trò lãnh đạo về ngôn ngữ và xã hội. 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. 7.000 năm trước,  do tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc, tại Nam Hoàng Hà, người lai Mông-Việt mang mã di truyền Mongoloid phương Nam (South Mongoloid) ra đời. Được sinh ra trên đất Việt, bú sữa mẹ Việt và sống trong văn hóa Việt, người Mongoloid phương Nam trở thành chủng người Việt mới, là chủ nhân của văn hóa Ngưỡng Thiều và lưu vực Hoàng Hà. Do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ năm 2698 TCN, người Lạc Việt Mongoloid phương Nam di cư xuống phía Nam, tới Việt Nam và Đông Nam Á, mang nguồn gen Mông Cổ về chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam [2]. Như vậy là, có hai giai đoạn hình thành người Việt: ban đầu là người Việt cổ, mã di truyền Australoid. Tới 7000 năm trước bắt đầu chuyển hóa sang chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Khoảng 2000 năm TCN, sự chuyển hóa hoàn tất. Người Mongoloid phương Nam (sau này gọi là Nam Á) trở thành chủ thể dân cư Việt Nam cũng như Đông Nam Á. Như vậy, từ 2000 năm TCN, người Việt Nam và người Trung Quốc cùng một chủng tộc Mongoloid phương Nam. Người Việt Nam có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa người Việt Nam là dân cư cổ xưa nhất ở châu Á.
Cuốn LSV N I không có những tri thức này nên không xác định được quá trình hình thành của người Việt.
6. Sự hình thành người Kinh.
Quan niệm phổ cập hiện nay cho rằng, từ cộng đồng Tiền Việt Mường khi tiếp xúc với nhóm Thái cổ hình thành hai dân tộc Việt (Kinh) và Mường.  “Việt Nam có 54 dân tộc”. Trong đó dân tộc Việt (Kinh) là đa số, còn lại là các dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng dân cư trên đất Việt Nam như sau: từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam là chủng người duy nhất Mongoloid phương Nam, gồm hai thành phần: người Mongoloid phương Nam điển hình, chủ yếu sống ở Bắc Bộ và dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam, sống ở phía Nam Trung Bộ trở xuống.
Khoảng 300 năm TCN, đồng bằng sông Hồng hình thành, những người năng động nhất, giỏi giang nhất trong các bộ tộc Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai phá đất mới. Do cùng huyết thống, ngôn ngữ và văn hóa nên giữa các nhóm người không có mâu thuẫn sắc tộc. Trong những người từ Nam Dương Tử trở về có người Tày-Thái, Hakka, người nước Sở, người nước Việt, người Hán… là di duệ của người Việt đi khai phá Trung Hoa từ xa xưa nên khi về Việt Nam là trở về đất tổ của mình. Do sống lâu dài ở Trung Nguyên, trong vương triều Chu, Hán nên ngôn ngữ của họ chuyển sang đơn âm và hữu thanh. Tiếng nói này dần lan tỏa ra trở thành ngôn ngữ chung của cả đồng bằng. Cùng với tiếng nói là những yếu tố tiến bộ về xã hội và sản xuất tiếp thu được ở vùng đất mở giao lưu với bên ngoài khiến cho người đồng bằng sông Hồng trở thành sắc tộc mới, được gọi là người Kinh. Trong khi đó những cộng đồng người Việt vẫn sống ở rừng núi dần trở thành những sắc dân thiểu số. Do được hình thành như vậy nên người Kinh trở thành cộng đồng chủ thể của dân tộc Việt. Quan niệm phổ cập cho rằng chỉ người Kinh mới là người Việt còn các sắc dân khác không phải người Việt mà là     “các dân tộc thiểu số” là sai lầm.
7. Về văn hóa Việt Nam
Sách LSVN I cho rằng, Việt Nam nằm trên ngã tư đường giao thông của khu vực nên có sự giao lưu tiếp biến văn hóa của các dân cư khác mà đặc biết là Ấn Độ và Trung Hoa.
Trong khi đó thực tế văn hóa Việt được hình thành như sau: Trong 70.000 năm sống ở phương Đông, người Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ: chế tác công cụ đá mới, thuần hóa giống kê, giống lúa, các giống khoai và rau đậu, gà, chó và lợn… đồng thời sáng tạo công cụ sản xuất và sinh hoạt. Từ 20.000 năm trước, sau khi sáng tạo công cụ đá mới Hòa Bình, người Việt mang tộc danh Người Việt bộ Qua. Sau khi làm chủ nông nghiệp lúa nước, người Việt có tộc danh Việt bộ Mễ. Khi sáng tạo công cụ bằng đồng, người Việt mang tộc danh Việt bộ Tẩu. Tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, người Việt sáng tạo chữ tượng hình đầu tiên. Từ 5300 năm trước người Việt thành lập nhà nước lớn và sớm nhất ở phương Đông. Có đủ cơ sở để khẳng định, đó là nhà nước Xích Quỷ trong truyền thuyết. Về văn hóa phi vật thể, tiếng Việt là chủ thể làm nên tiếng nói Trung Hoa. Người Việt sáng tạo chữ tượng hình, về sau là chủ thể của chữ viết Trung Hoa. Người Việt cũng sáng tạo kinh Thi, kinh Nhạc, kinh Lễ, kinh Dịch... Những thành tựu văn hóa rực rỡ trên đất Trung Hoa đều được khởi nguồn sừ sự sáng tạo của người Việt.
Do có quá trình người Việt đi lên khai phá Hoa lục rồi sau đó trở về xây dựng Việt Nam nên văn hóa Việt Nam kế thừa toàn bộ nền văn hóa do người Việt sáng tạo ở Hoa lục cũng như tại đất Việt Nam.
8. Quan niệm về lịch sử Việt Nam
a. Do người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục rồi sau đó trở về xây dựng nước Việt Nam nên lịch sử Việt Nam bao gồm cả lịch sử người Việt từ khi đi lên khai phá Hoa lục đến khi trở về Việt Nam. Như vậy, có thể khẳng định, thời Tiền sử của Việt Nam bắt đầu 70.000 năm trước, khi tổ tiên từ châu Phi đặt chân tới đất nước ta. Đồng thời khẳng định lịch sử đất nước ta bắt đầu từ 5.300 năm trước, khi nhà nước Xích Quỷ của họ Hồng Bàng được thành lập tại kinh đô Lương Chử.
b.Lịch sử một dân tộc là lịch sử của cộng đồng chủ thể làm nên dân tộc đó. Do người Kinh với số lượng đông nhất, có nền văn hóa tiến bộ nhất, trở thành chủ thể của dân tộc Việt Nam nên cũng là chủ thể của lịch sử Việt Nam.
9. Quan niệm về Bách Việt
Sách LSVN I cho rằng Bách Việt là trăm tộc Việt từng sống ở phía Nam dương Tử và là nguồn cội của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, từ cố thư và những khám phá di truyền học mới nhất, chúng tôi phát hiện: Năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt. Con cháu của vua nước Việt theo lãnh địa của mình đứng lên lập những tiểu quốc, cùng tuân phục nước Sở, được Lã thị Xuân Thu lần đầu tiên gọi là Bách Việt với ý nghĩa nhiều nước Việt ở Nam Dương Tử. Bách Việt chỉ tồn tại hơn 200 năm, từ năm 333 tới năm 111 TCN là năm nước Nam Việt bị tiêu diệt. Từ sự xuất hiện và suy tàn như vậy, nên Bách Việt không phải là trăm tộc Việt và cũng không phải là cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Tới nay, điều này càng rõ: cội nguồn của dân tộc Việt là người Lạc Việt xuất hiện trên đất Việt Nam từ 70.000 năm trước
10. Về nguồn gốc của Thục Phán
Trong sách LSVN I, các tác giả cho rằng, Thục Phán là một tộc trưởng người Tày Cao Bằng. Tuy nhiên ý tưởng như vậy thiếu thuyết phục vì lẽ nó bỏ qua những tư liệu thành văn giá trị như Hoa dương quốc chí, Hoài Nam Tử… cho rằng Thục Phán thuộc dòng họ Khai Minh nước Thục. Một số tác giả khác như Bình Nguyên Lộc cho rằng, người Thục là một bộ phận của tộc Lạc Việt sống từ xưa ở phía Tây Nam Trung Quốc. Từ giải mã tài liệu di truyền cho thấy, người Thục là nhánh Tày-Thái của tộc Lạc Việt, mang mã di truyền Haplogroup O1 (Y-DNA) sống từ xa xưa ở Tây Nam Trung Quốc. Trên địa phận Ba Thục, những bộ tộc Tày-Thái đã xây dựng vương quốc cổ cùng thời với nhà nước Xích Quỷ. Sau thời gian dài tan rã, khoảng thế kỷ 16 TCN, họ Khai Minh dựng nhà nước Thục rất văn minh, do Tàm Tùng đứng đầu. Năm 316 TCN nhà Tần diệt nước Thục, con cháu vua Thục chạy xuống ở nhờ đất Văn Lang. Vốn cùng huyết thống, tiếng nói và văn hóa nên tập đoàn vương thất nhà Thục thu phục được các tù trưởng địa phương, lập nước Nam Cương. Sau khi đánh thắng quân xâm lược Tần, Thục Phán chiếm ngôi vua Hùng, lập nước Âu Lạc. Đây là những tranh chấp trong nội bộ người Việt để tiến tới lập nhà nước lớn mạnh hơn.
Như vậy Thục Phán là hậu duệ của tộc Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa, lập nước Thục. Khi nước Thục bị hại, ông dẫn vương triều lưu vong chạy về đất Văn Lang. Do tài năng, ông lãnh đạo các bộ tộc người Việt ở phía Bắc Việt Nam đánh thắng quân Tần sau đó sáp nhập Văn Lang thành Âu Lạc. Âu lạc là quốc gia đầu tiên của người Việt thời có sử.
11.Triệu Đà và nước Nam Việt.
Cuốn LSVN I cho rằng Triệu Đà là người Hán, được nhà Tần cử xuống đánh Lĩnh Nam. Nhân cơ hội nhà Tần suy bại, Triệu Đà lập nhà nước cát cứ rồi xâm lược Âu Lạc. Tuy nhiên, từ khảo cứu của mình, chúng tôi phát hiện Triệu Đà thuộc bộ tộc Tần, là nhánh Tày Thái người Lạc Việt. Thời Xuân Thu, tổ tiên Triệu Đà họ Doanh đi lên Nam Hoàng Hà, nhập nước Tấn. Có công phụ giúp các công tử nước Tấn, được phong Triệu Thành nên mang họ Triệu. Cuối thời Xuân Thu, họ Triệu bành trướng thế lực, cùng Hàn và Ngụy chia nước Tấn làm ba, lập nước Triệu. Khi nhà Tần diệt nước Triệu, Triệu Đà 20 tuổi xung lính đi dánh Lĩnh Nam. Khi nhà Tần diệt vong, ông lập nước Nam Việt.  Như vậy, cũng như Thục Phán, Triệu Đà là người Việt khi xuống Lĩnh Nam, ông trở về quê hương xa xưa của mình. Khi điều kiện cho phép, ông lãnh đạo đồng bào người Việt lập quốc, chống lại nhà Hán. Việc ông chiếm Âu Lạc lập nước Nam Việt cũng giống như Thục Phán lập nước Âu Lạc, hoàn toàn không phải là xâm lược. Chính quyền do ông thành lập là nhà nước của người Lạc Việt, hoàn toàn không phải là chính quyền cát cứ.
Cho rằng Triệu Đà lâp vương quốc cát cứ, xâm lăng Âu Lạc rồi trục xuất nhà Triệu khỏi Sử Việt là cách nhìn sai lầm, phản dân tộc.
12. Về các vương quốc cổ ở phía Nam Việt Nam.
Cuốn LSVN I bao gồm lịch sử các quốc gia cổ Lâm Ấp-Chiêm Thành, Phù Nam vào lịch sử Việt Nam. Đó là việc làm đúng. Tuy nhiên các tác giả chưa lý giải rõ về nguồn gốc dân cư và văn hóa các quốc gia này.
Trên thực tế, dân cư trên toàn bộ Đông Dương bao gồm cả Thái Lan, Myanmar, cùng với Mã Lai, Indonesia là người Việt. Cho đến vài thế kỷ trước Công nguyên, do chung cội nguồn, huyết thống, tiếng nói và văn hóa, họ quy thuộc về Văn Lang của các Vua Hùng. Bằng chứng là các vua Hùng đã trao cho họ trống Đông Sơn như một thứ quyền trượng. Nhưng một hai thế kỷ trước Công nguyên, sau khi Văn Lang diệt vong và nhất là sau khi Việt Nam bị phương Bắc chiếm đóng, mối liên kết truyền thống của Việt Nam với phía Nam bị đứt đoạn. Lực hướng tâm không còn, các thủ lĩnh khu vực theo chiều hướng chung đứng lên lập nhà nước riêng. Những quốc gia cổ ra đời. Do hấp lực của văn hóa Ấn Độ, các nhà nước này theo chính trị Ấn Độ và đem văn hóa Ấn phủ lên nền tảng văn hóa Lạc Việt. Trong quá trình lịch sử, giữa các quốc gia của người Việt trong vùng liên tục có tranh chấp lãnh thổ. Biên giới như hiện nay là kết quả của những sự tương nhượng và được xác lập bởi công pháp quốc tế. Mọi ý tưởng về “quyền sở hữu lịch sử” là phi lịch sử và không có cơ sở thực tế. Từ lịch sử như vậy, các quốc gia cổ phía Nam cần được bao gồm trong lịch sử Việt Nam trong quan hệ cùng chủng tộc và văn hóa.
13. Lịch sử Việt Nam có chế độ phong kiến không?
Trong LSVN tập I, các tác giả nhiều lần nói tới thuật ngữ “chế độ phong kiến” ở Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy cần có sự đánh giá lại quan niệm này. Trên báo Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 268 (29 Novembre 1934) học giả Phan Khôi khẳng định “Lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến.” Trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, sử gia Lê Thành Khôi cũng biện bác rất có lý rằng Việt Nam cũng như Trung Quốc thời Trung đại không hề có chế độ phong kiến với đặc trưng bản chất của nó là “phong hầu kiến địa.” Từ khảo cứu của mình, chúng tôi cho rằng nhận định của những học giả trên hoàn toàn chính xác. Do vậy, cần xóa bỏ quan niệm “chế độ phong kiến” trong lịch sử Việt Nam để nhìn nhận lịch sử đúng với sự thực.
14. Những “người Trung Quốc tới làm vua Việt Nam” là ai?
Có một số người từ Trung Quốc sang cư trú tại Việt Nam rồi sau đó con cháu họ làm vua đất Việt. Tuy ghi nhận điều này nhưng trong tâm trạng người Việt Nam là sự phân vân của mặc cảm tự ty: người Trung Quốc lại làm vua nước mình! Tuy nhiên nay ta biết rằng, từ Thục An dương Vương, Triệu Vũ Đế đến Lý Bí, rồi nhà Lý, nhà Trần… đều là người Việt mà tổ tiên xưa từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Trong điều kiện lịch sử nhất định đã trở về đất tổ. Nhờ tài năng và đức độ đã trở thành những vị vua của Việt Nam. Khi nhận ra sự thực này, chúng ta xóa đi mặc cảm tự ty, trở nên yên tâm và tự hào về dòng giống cùng lịch sử của mình.
15. Hoa Việt đồng văn đồng chủng.
Từ thơ ấu, nghe các cụ ở quê nói “Hoa Việt đồng văn đồng chủng,” quả tình tôi không hiểu nổi. Nay, từ khám phá tới tận cùng lịch sử phương Đông, thì điều này được khẳng định. Tuy nhiên, khác với cách hiểu trước đây cho rằng người Hán đồng hóa người Việt, người Việt bắt chước người Hán từ tiếng nói tới chữ viết. Nay là sự thật trái ngược: Người Việt và người Hoa cùng một nguồn gốc và văn hóa. Người Hán là con cháu từ xa xưa của người Việt. Tiếng Việt là nguồn gốc của tiếng nói Trung Hoa. Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa. Những thành tựu văn hóa rực rỡ trên đất Trung Hoa đều do người Việt sáng tạo.
Nhìn chung, sách LSVN I phần nhiều chép lại những tư liệu từ những cuốn sử hình thành trong thế kỷ XX. Dựa vào cổ thư Trung Hoa và khảo cứu của Viễn Đông Bác cổ, chiều hướng của lịch sử phương Đông được xác định là: Từ Tây Tạng, người Hán vào Nam Hoàng Hà xây dựng văn minh Hoa Hạ sau đó mang văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phương Nam. Dân tộc Việt Nam bị Hán hóa cả về nòi giống và văn hóa.
 Nhưng sang thế kỷ XXI, khoa học khám phá sự thực ngược lại: người Khôn ngoan từ Châu Phi di cư tới Việt Nam sinh ra người Việt rồi từ Việt Nam, người Việt đi lên khai phá Hoa lục. Vài năm trước, những học giả Trung Quốc kiên định nhất cũng buộc phải chấp nhận sự thực này: Người Trung Quốc không phải do người Bắc Kinh (Homo peikinensis) sinh ra mà từ phương Nam lên. Đồng bằng miền Trung Hoàng Hà không còn là cội nguồn của văn minh Trung Hoa mà thay bằng “văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc!”Dù có “nhị thập tứ sử” thì tới nay lịch sử Trung Quốc buộc phải viết lại. Và như sự tất yếu của số phận, lịch sử Việt Nam cũng phải viết lại. Từ khảo cứu của mình, chúng tôi phát hiện, 15 vấn đề nêu trên là những vấn đề nền tảng của lịch sử Việt Nam trước đây bị hiểu lầm nay nhờ ánh sáng mới của khoa học đã được làm rõ.
 Do những vấn đề nền tảng trên chưa được giải quyết thấu đáo trong cuốn LSVN I nên tất yếu, cuốn sách này cần được viết lại. Điều này cũng có nghĩa là cuốn Lịch sử Việt Nam 15 tập của Viện Sử học cần được viết lại. Khi những vấn đề mang tính nền tảng nêu trên chưa được xác lập thì mọi cuốn sử viết trên cơ sở đó chỉ là lâu đài xây trên cát.
                                                           Sài Gòn, tháng 12. 2017
 
  1. Claude-Lévi-Strauss. Tristes tropiques, Paris Plon, 1955, tr.269 và 264-265 (dẫn theo Trần Quốc Vượng- Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam.)
  2. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCN. H, 1983          
 
AI LÀ CHỦ NHÂN CỦA KINH DỊCH?
Hàng nghìn năm, không chỉ phương Đông mà cả thế giới tin rằng, người Trung Quốc đã làm ra Kinh Dịch. Chữ vuông của người Trung Quốc, những bản Dịch sớm nhất được viết bằng chữ vuông là chứng cứ bất khả tranh biện xác nhận người Trung Quốc là chủ nhân của kinh Dịch. Một niềm tin như lẽ đương nhiên, như  Mặt trời mọc hàng ngày…  Nhưng vào những năm 1970 của thế kỷ XX, một học giả người Việt Nam, giáo sư Lương Kim Định tuyên bố: “Không chỉ chữ vuông mà Kinh Thi, Kinh Dịch cùng nhiều thành tựu văn hóa khác của phương Đông cũng là sản phẩm của người Việt.” Ngay lập tức, không phải nguời Trung Quốc mà từ cộng đồng Việt dậy lên làn sóng phản đối một ý tưởng điên rồ, báng bổ lương tri, làm xấu hổ dân tộc! Nhưng nửa thế kỷ đi qua, xuất hiện ngày càng nhiều thêm những người tin theo vị linh mục. Trong khi người Trung Quốc im lặng cười nửa miệng thì cuộc tranh cãi về chủ nhân Kinh Dịch giữa các học giả người Việt dường như không hồi kết.
Lịch sử, văn hóa là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người trong quá khứ. Muốn xác định một sản phẩm văn hóa của cộng đồng nào, trước hết cần xác định cộng đồng đó là ai, có gốc gác ra sao và trải một quá trình như thế nào để xuất hiện tại thời điểm nghiên cứu. Do vậy, về mặt nguyên tắc, muốn biết Kinh Dịch của người Hoa hay người Việt, cần phải phân định rõ người Hoa là ai? Người Việt là ai?
Bài viết này đưa ra một cách lý giải giản dị nhất, ngắn gọn nhất, xác đáng nhất cho thấy ai là chủ nhân kinh Dịch
Từ 2000 năm trước, cổ sử phương Đông cho rằng, dân tộc Hán phát tích ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, tạo dựng văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phương Nam. Từ lịch sử hình thành như vậy, những thành tựu lớn của văn minh phương Đông đều được quy công cho người Hán. Vào thời hiện đại, ý tưởng trên được củng cố bằng những khám phá của học giả phương Tây: “Người Hán từ phía Tây xâm nhập đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, chinh phục và đẩy lùi các sắc dân bản địa bán khai, xây dựng vương quốc vĩ đại với nền văn hóa rực rỡ.” Từ chiều hướng hình thành của con người và lịch sử như vậy, văn hóa Trung Quốc đồng nghĩa với văn minh phương Đông. Cố nhiên những thành tựu của văn hóa phương Đông đều do người Trung Quốc sáng tạo.
Nhưng sang thế kỷ XXI, sinh học phân tử đã lật đổ những tín điều tưởng như vĩnh cửu đó, bằng khám phá sự thật chưa từng biết.
            Khảo cổ học phát hiện tại trấn Bộc Dương tỉnh Hà Nam ngôi mộ số 45, có tuổi 6.500 năm. Khảo sát ngôi mộ cho thấy, tới lúc này, người Việt đã có quan niệm trời tròn, đất vuông; đã nắm vững thiên văn, địa lý, phong thủy và trưởng thành về Dịch lý. Kết hợp hiện trạng ngôi mộ với truyền thuyết, học giả Trung quốc cho rằng đó là mộ của Phục Hy, người làm ra kinh Dịch. Chúng tôi cho rằng đó là khám phá quan trọng, có độ khả tín cao, phù hợp với thực tế. Như vậy là, từ khoảng 6.500 năm trước, Dịch lý đã được hoàn chỉnh, dưới dạng cuốn kinh vô tự gồm tám quẻ đơn và 64 quẻ kép cùng với Hà đồ, Lạc thư. Dịch lý trở thành tài sản chung của người Việt. Tại mỗi cộng đồng xuất hiện những nhà thông tuệ dùng cuốn sách với những ký hiệu để suy ngẫm về vũ trụ, nhân sinh và thực hành khoa học dự báo. Do vào thời điểm này, trên địa bàn Đông Á chỉ có duy nhất người Việt nên hoàn toàn khẳng định Dịch lý là sản phẩm của người Việt.
Tới đây một câu hỏi cần được trả lời: Dịch lý được tạo ra như thế nào? Đó là câu hỏi khó, xuất hiện từ xa xưa mà chưa có lời đáp. Để trả lời câu hỏi này, chỉ có thể gom nhặt những dấu vết mờ ảo, vụn vặt còn lại trong ký ức cộng đồng. Ta biết, yếu tố đầu tiên và là nền tảng của Dịch lý là Âm và Dương. Nay Âm Dương quá phổ biến trong dân gian nhưng ai biết được lần đầu tiên xuất hiện khi nào? Khảo sát những hòn đá đẽo thô sơ của văn hóa Hòa Bình 20.000 năm trước, các học giả phát hiện, trên một số hòn có hai vệt song song được khắc chìm. Suy ngẫm nhiều mà không tìm được công dụng thực tế của chúng, các học giả xếp vào “vật tồn nghi”rồi đặt tên là “dấu Hòa Bình”. Gặp tại văn hóa Bắc Sơn nhiều hơn những hòn đá mài với hai vết khắc tương tự, các học giả gọi là “dấu Bắc Sơn,”như một chỉ dấu của nền văn hóa này. Tuy nhiên vẫn không ai hiểu ý nghĩa của cái “dấu” đó là gì! Rồi vào thập kỷ 1970, giáo sư Lương Kim Định đưa ra thuyết: hai vạch khắc chìm đó là biểu trưng của Âm-Dương, của quan niệm song trùng lưỡng hợp (dual unit) một mà hai, hai mà một, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Tới nay chưa ai đưa ra lý lẽ khẳng định hay bác bỏ thuyết này. Chúng tôi chấp nhận giả thuyết của Kim Định và cho rằng, muộn nhất, thời văn hóa Hòa Bình, khoảng 20.000 năm trước, người Việt đã hình thành quan niệm Âm Dương. Bằng chứng khác về xuất hiện của Dich lý là Thập can, Thập nhị chi và Bát quái. Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm quý rồi Tý, Sửu, Dần, Mão,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và Càn, Đoài, Cấn, Chấn, Tốn, Khôn, Ly, Đoài là những “vật liệu”ngôn từ cơ bản làm nên kinh Dịch. Thời gian dài, được cho là những từ do người Trung Quốc tạo ra để làm nên kinh Dịch. Nhưng những năm gần đây, nhiều tác giả đã chứng minh những từ đó là  thuần Việt. Một khi những “vật liệu” rất cơ bản làm nên Kinh Dịch là của người Việt thì đó là chỉ dấu cho rằng ít nhất người Việt là người đầu tiên khởi thảo kinh Dịch. Những bằng chứng trên cho thấy, từ xa xưa, bằng sự kiên trì và liên tục, người Việt đã sáng tạo ra kinh Dịch. Vào 6500 năm trước kinh Dịch hình thành. Việc phát hiện nhà nước phương Đông lớn và tiến bộ tại Lương Chử vùng Thái Hồ 5300 năm trước đã cho thấy thêm phạm vi hoạt động cũng như tầm mức văn hóa của người Việt, chủ nhân của Đông Á.
 Năm 2698 TCN một sự kiện lớn xảy ra, tạo bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phương Đông. Đó là việc họ Hiên Viên dẫn đầu liên minh các bộ lạc Mông Cổ đánh chiếm miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Tuy chiến thắng quân sự nhưng do nhân lực ít và văn hóa chưa phát triển, lại gặp sức kháng cự dai dẳng của người Việt khiến cho người Mông Cổ khôn khéo thực hiện chế độ cai trị mềm dẻo để thu phục người Việt. Do sống chung hòa thuận, hôn phối Mông- Việt xảy ra, lứa con lai Mông -Việt ra đời, tự nhận là Hoa Hạ. Cho đến nay không ít người lầm lẫn cho rằng Hoa Hạ là một dân tộc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong gia tộc Hoàng Đế, gen Mông Cổ chỉ tồn tại được ba đời là Hoàng Đế, Chuyên Húc và Thiếu Hạo. Đời thư tư Đế Khốc đã chuyển sang gen Việt. Sau Đế Khốc thì Đế Nghiêu càng Việt hơn. Tới Thuấn và Vũ, vì chế độ truyền hiền nên hoàn toàn là Việt. Do lịch sử như vậy nên Hoa Hạ chỉ là lớp con lai xuất hiện một thời gian ngắn ngủi rồi hòa tan trong cộng đồng Việt đông đảo. Nhờ chính trị tốt đẹp, người Việt chiếm đại đa số dân cư, đem hết tâm lực cống hiến cho vương triều. Thiên văn, địa lý, phong thủy được áp dụng. Dịch lý được người Việt đưa vào triều đình. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng Thư bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam Phần Thư” gồm có Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy. Khí phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông. Hình phần là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời Tam Hoàng, có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng; Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chần, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. (1) Điều này cho thấy, vào thời Hoàng Đế, kinh Dịch vẫn được nghiên cứu, phát triển. Tuy nhiên, những cuốn Dịch này vẫn là những cuốn sách không có chữ mà được ghi bằng những ký hiệu. Chỉ đến thời Chu, khi chữ viết trưởng thành, Chu công đã theo lời truyền từ xa xưa viết thành quái từ, hào từ. Đến lượt mình, Khổng Tử viết Thập dực tạo nên cuốn Chu dịch.
Phân tích trên cho thấy, từ xa xưa người Việt đã âm thầm khám phá Dịch lý, từ hai yếu tố Âm Dương đến Thiên can, Địa chi, Bát quái và làm ra sách Dịch vào 6500 năm trước. Khi Hiên Viên đưa người Mông Cổ vào chiếm miền Trung Hoàng Hà lập nhà nước Hoàng Đế thì cộng đồng Việt bị phân chia. Bộ phận nhỏ thuộc vương triều Hoàng Đế. Phần còn lại là các bộ tộc hay nhà nước độc lập của người Việt. Dịch lý tiếp tục được sử dụng và hoàn thiện trong cả hai cộng đồng Việt này. Do có nhà nước quân chủ mạnh, trong 200 năm (1500 – 1300 TCN), nhà Ân đã hoàn thiện Giáp cốt văn của người Việt thành chữ vuông. Sang thời Chu, cuốn “kinh vô tự”được văn bản hóa thành Chu Dịch. Do nhà nước Hoàng Đế tách biệt với cộng đồng Việt còn lại, tạo thành thực thể hành chính lâu dài dẫn tới sự hiểu lầm rằng người Hán là một đân tộc khác, từ phương Tây du nhập. Do vậy những thành tựu văn hóa phương Đông được lưu giữ trong nhà nước Trung Hoa, trong đó có kinh Dịch được cho là sản phẩm của người Trung Quốc.
Tuy nhiên, phân tích trên cho thấy, kinh Dịch là sản phẩm của người Việt, trong đó có công của người Việt sống trong nhà nước Trung Hoa đã văn bản hóa kinh Dịch thành Chu Dịch. Người Hán là một nhánh con cháu của người Việt, ra đời khoảng 7000 năm trước nên không thể làm ra kinh Dịch. Người Hoa Hạ xuất hiện muộn hơn, khoảng năm 2698 TCN nên càng không phải là chủ nhân kinh Dịch.
Trước đây do hiểu biết hạn chế về lịch sử hình thành dân cư phương Đông nên cho rằng người Hán làm ra kinh Dịch. Đó là sai lầm lớn của quá khứ, cần được nhận thức lại để “cái gì của Saesa trả lại cho Saesa.” Thời gian gần đây xuất hiện quan niệm “Người Hán ăn cắp kinh Dịch của người Việt.” Đấy lại là sai lầm khác. Thực tế lịch sử cho thấy, không phải ăn cắp của người Việt mà người Hán là bộ phận người Việt sống trong nhà nước Hoàng Đế đã kế thừa Dịch lý từ tổ tiên và góp công sức lớn tạo thành bản kinh như hiện nay.
Sài Gòn, 24.11.2019
 
Tài liệu tham khảo:
   1. Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương - Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông. Nha tuyên uý Phật giáo. Sài Gòn 1971, trang 421)
 
DỊCH LÝ TRONG NGÔI MỘ CỔ
            Tháng Năm 1987, các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện khu mộ cổ tại dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương tỉnh Hà Nam. Khu mộ có 45 ngôi. Ngôi số 45 được khảo sát đặc biệt. Định tuổi bằng C14, ngôi mộ có niên đại khoảng 6500 năm (6460+/- 135), thuộc trung kỳ văn hóa Ngưỡng Thiều. Đầu mộ quay về hướng nam, chân phía bắc, phía đông là một con rồng ghép bằng vỏ sò, có móng vuốt, sống động như thật; phía tây của nó giống như một con hổ bằng vỏ sò, đầu lặng lẽ, uy nghi; phần bụng con hổ ghép bằng vỏ sò có hình giống hoa mai.
Ngôi mộ số 45 có ba người tuẫn táng ở ba hướng Đông, Tây, Bắc, được chôn theo một độ xiên nhất định. Kiểm tra các bộ xương cho thấy những người tuẫn táng trong độ tuổi từ 12 tới 16, đầu của họ có dấu vết đâm, chứng tỏ là những cái chết không tự nhiên. Dưới chân mộ chủ có hình tam giác và hai ống xương chày trẻ em lấy từ ngôi mộ số 31.
Sau khi phát hiện báu vật, Trung Quốc đã xây nhà bảo tàng lớn để trưng bày khu mộ này.
  
 Mộ số 45   
 
Ông Từ Thiều Sam, nhà phong thủy từng nghiên cứu ngôi mộ đưa ra nhận định sau:
“1. Mộ Bộc Dương số 45 có hình thanh long bạch hổ và 28 địa điểm đồ hình tương ứng với đồ hình thanh long, bạch hổ, (cho thấy) thanh long, bạch hổ đồ của mộ Bộc Dương số 45 là tứ tượng đồ. Theo hình dạng và kích thước của thanh long, bạch hổ trong mộ Bộc Dương 45 thấy bảy con số phù hợp vị trí có thể được xác định 28 địa điểm đã được thiết lập tại thời điểm chôn cất.
2. Xa nhất về phương nam theo hướng tý ngọ (Bắc Nam) của mộ 45 là mộ số 31. Chủ nhân mộ số 31 ở phía cực nam là một đồng nữ, là thần Hạ chí. Ba nạn nhân hiến tế trong mộ 45 thì một là biểu tượng của thần Xuân phân (phía Đông, đồng nam), thần Thu phân (phía Tây, đồng nữ) và thần Đông chí (Bắc, đồng nam). Tại đây chu kỳ mùa được hoàn tất.
Người xưa đã có một niềm tin văn hóa rất đầy đủ: Đông, Xuân là dương, được biểu thị bằng đồng nam; Hạ, Thu là âm được biểu thị bởi đồng nữ.
  3.Thứ ba, trong phần bụng con hổ bằng vỏ sò ở ngôi mộ số 45, có một loạt các vỏ sò nằm rải rác. Đống này nằm trong bụng của con hổ bằng vỏ sò, đồ hình ngọn lửa trong bụng con hổ chỉ nhằm để khẳng định lẫn nhau. Trong đồ án của ngôi mộ 45 với mô hình đồ án đối chiếu, chúng phản ánh chính xác cùng một nội dung, hình ảnh là một "bản đồ sao" (tinh đồ). Trong bụng hổ là mặt trời hình hoa mai, theo thông lệ là ngày Xuân phân. 
                               Sơ đồ ngôi mộ số 45
Khái quát, ngôi mộ được sắp xếp theo tượng sao lúc hoàng hôn ngày Xuân phân.  
4. Đo bằng con số ngôi mộ có sẵn  BP'P =  B'P'P = 24 ° 00 '. Thứ hai, những vỏ sò trong bụng con hổ có hình hoa mai là mặt trời, theo tiền lệ đó là quỹ đạo của sao vào ngày Xuân phân.
 Sơ đồ phân tích mộ 45  
 
      Mộ 45: thanh long bạch hổ đồ và 28 điểm  tương ứng
 
5. Đêm quan sát sao Bắc Dẩu, ngày dựng tiêu. Dưới chân chủ nhân ngôi mộ số 45 có hình tam giác nhỏ và hai xương chày trẻ em. Xương chày như cán của chòm Bắc Đẩu. Bắc Đẩu được người xưa dùng trong chiêm tinh học. Đêm quan sát Bắc Đẩu, ngày dựng tiêu đo bóng. Phương pháp cắm tiêu đo hình cổ nhất là người xưa thông qua bóng trên cơ thể người thay đổi phương hướng mà dần dần học được cách thiết kế, đó là “tiêu.” Do cơ thể con người, cọc tiêu và thời gian có mối quan hệ đặc biệt, vì vậy người xưa gọi là “thời gian đo đùi”, ý nghĩa của chân đùi con người. Bắc Đẩu đồ trong ngôi mộ Bộc Dương 45, chân, tiêu và thời gian liên kết lại, phản ánh người xưa thông qua dựng tiêu đo bóng và quan trắc Bắc Đẩu để xác định thời điểm. 
6. Để xương chày như cán của chòm sao Bắc Đẩu, xác định bốn tượng kiến lập trên quan sát tại Bắc Đẩu.
7. Tôn thờ vật tổ của Trung Quốc tồn tại trong 6500 năm trước. Từ tính toán vị trí tứ tượng đồ tinh, người xưa tiến hành tối thiểu 100.000 quan sát chiêm tinh trước khi bắt đầu ghi chép.
8. Đây là lần đầu tiên ở Trung Quốc phát hiện bố cục âm trạch phong thủy, quyết định phương hướng phát triển của phong thủy sau này.
9. Ngôi mộ số 45 đầu hình bán nguyệt, chân mộ vuông chứng tỏ  quan niệm trời tròn đất vuông đã hình thành.
10. Theo 28 địa điểm và chia ra bốn thần cho thấy 6500 năm trước đã nắm được sự vận hành của năm và sáng tạo các hệ thống thiên văn can chi.”
Ý kiến của chúng tôi:
Trước hết phải khẳng định, chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều 6500 năm trước là người Việt. 40.000 năm cách nay, người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa, đã để lại những di chỉ: Động Người Tiên, với mảnh gốm đầu tiên trên thế giới 20.000 tuổi cùng hạt lúa trồng sớm nhất 12.400 năm. Tiếp đó là văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ 7000 năm trước. Người Việt mang giống kê, giống lúa lên lưu vực Hoàng Hà. Tại vĩ độ 35, do khí hậu quá khô, cây lúa không sống được nên cây kê trở thành cây lương thực chủ yếu. Khoảng 7000 năm trước, tại trung du Hoàng Hà, người Việt tiếp xúc với người sống trên đồng cỏ bờ phía Bắc (sau này Đồng Cỏ được nói trại thành Mồng Cỏ rồi Mông Cổ), sinh ra chủng người mới Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam do người mẹ Việt sinh ra, sống trong dân cư văn hóa Việt, nói tiếng Việt nên là người Việt. Như vậy là, một chủng người Việt mới ra đời. Với thời gian, số lượng người Mongoloid phương Nam tăng lên, trở thành chủ nhân văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều, bao gồm các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc…
Mộ Bộc Dương số 45 với 6500 tuổi, được tạo lập gần 2000 năm trước khi Hoàng Đế ra đời (khoảng 2698 TCN) nên hoàn toàn là của người Lạc Việt. Đây là là cột mốc có ý nghĩa đặc biệt, cho thấy 6500 năm trước người Việt đã có:
1.Kiến thức thiên văn học trưởng thành. Đã hình thành quan niệm trời tròn đất vuông, khám phá sao Bắc Đẩu cùng Nhị thập bát tú trên bầu trời.
2.Đã sáng tạo can, chi, lịch pháp với những ngày tiết trong năm.
3.Từ ngôi mộ, có thể thấy các vị trí: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài được xác định. Điều này chứng tỏ Bát Quái đã được xác lập
4.Đã trưởng thành về thuật phong thủy và áp dụng trong mai táng.
5.Từ những tri thức trên chứng tỏ rằng người Việt lúc này đã nắm được dịch lý. Đây là bằng chứng vững chắc khẳng định Dịch là sáng tạo của tộc Việt. Thời điểm của mộ Bộc Dương cũng trùng với thời gian xuất hiện của tổ người Việt là Phục Hy (năm 4480 TCN), là người được cho là có công “họa quái”- tức làm ra Địch. Phải chăng điều này cho thấy sự gắn bó giữa huyền thoại và thực tế?
                      22. 7. 2014
 
Tài liệu tham khảo:
徐韶杉:从阴宅风水看仰韶天文
 
DỊCH LÝ TRONG SÁCH CỔ CỦA
ĐỒNG BÀO THỦY TỈNH QUÝ CHÂU
    Một trong những thắc mắc của người nghiên cứu Dịch lý là, nếu nói người Lạc Việt làm ra  Dịch, vậy thì có bộ phận nào của người Lạc Việt ghi được điều này bằng văn tự? Chúng ta đã không tìm được dẫn chứng loại này trên đất Việt bởi lẽ, ngoài quẻ Lôi thủy giải trên đồ gốm thì văn tự trên đất nước ta xuất hiện muộn, lại là chữ Hán nên không thể lấy làm bằng chứng. Tuy một số sắc tộc anh em như Thái, Mường, Chăm… có chữ cổ của mình nhưng đến nay chưa thấy công bố nghiên cứu nào về chủ đề này. Vì vậy không có cơ sở để biện bác.
     Rất may là ở vùng người Choang thuộc tỉnh Quý Châu tồn tại bộ tộc Thủy. Xưa kia tổ tiên người Thủy là người Lạc Việt, chủ nhân của toàn bộ Trung Hoa. Nhưng tới thời Hán, người Thủy đã lui vào rừng sâu sinh sống, dần dần biến thành bộ tộc thiểu số, với khoảng 340.000 người. Người Thủy nói tiếng Thủy và may mắn giữ được sách Thủy (Thủy thư) viết bằng chữ Thủy (Thủy tự). Đó là loại mật thư, truyền lại từ xa xưa, được gọi là  “văn tự hóa thạch sống,” một tài liệu vô cùng quý giá chứa đựng tinh hoa của một nền văn hóa cổ xưa, trong đó có nói về Dịch lý.
Chúng tôi xin giới thiệu bản dịch bài Thủy thư*
     “ Thủy thư là chữ viết và ngôn ngữ của tộc Thủy, được gọi là “Lặc Tuy,” do tiên nhân của Thủy thư truyền đời này sang đời khác, hình dạng giống Giáp cốt, Kim văn, chủ yếu dùng để ghi lại quan niệm của tộc Thủy về thiên văn, địa lý, tôn giáo, dân tục, luân lý, triết học cùng thông tin về văn hóa.
      Nghiên cứu khảo cổ mới nhất cho thấy, chữ viết của tộc Thủy và phù hiệu trên gốm đời nhà Hạ ở di chỉ Yển Sư Nhị Lý Đầu, tỉnh Hà Nam có sự tương thông. Các vị tiên sinh của Thủy thư đã đọc được tận nghĩa của sách khiến cho giới khảo cổ học nể trọng. Tháng 3 năm 2002, Thủy thư được đưa vào “Danh mục chữ khắc ván quý của Trung Quốc.”
        Thủy thư còn được gọi là “Quỷ thư”, ‘Phản thư”, thứ nhất là do kết cấu, tuy có sự phỏng theo Hán tự nhưng lại viết ngược, viết đảo, hay cải biến phép viết tự hình của chữ Hán. Chữ của Thủy thư không giống chữ Hán về hình dạng còn cách viết thì tương phản, nay rất ít người đọc được. Hiện nay, trên thế giới, Thủy thư và Hán tự là loại văn tự duy nhất không bính âm. 
 Thủy thư
Có nhiều ý kiến khác nhau về số chữ của Thủy thư. Cuốn “Thủy tộc gian sử” xuất bản năm 1986 nói có 400 chữ. Sách “Trung quốc Thủy tộc văn hóa nghiên cứu” nói khoảng 500 chữ. Các chuyên gia khảo cứu nói có hơn 2000 chữ, phát hiện chữ dị thể chủ yếu tập trung tại 12 Địa chi, Xuân, Hạ, Thu, Đông, Thiên can, cửu tinh cùng chữ đơn, biệt lệ. Trước mắt phát hiện “Dần, Mão” cùng hơn 30 chữ dị thể. Đối với chữ dị thể trong văn tự cổ của tộc Thủy, có ý kiến cho rằng mỗi chữ có ít nhất một biến thể, tổng số chữ Thủy khoảng 1600 chữ.
    Giới học thuật Trung Quốc cho là có khả năng Giáp cốt văn, Kim văn có “quan hệ nhân duyên” với Thủy tự, trong đó “Giáp cốt văn là cha”. Tiến sĩ Vương Ý Vinh phát hiện Giáp cốt văn vào năm 1898, tới nay mới 105 năm. Thời Minh phát hiện hai tấm bia văn tự Thủy tộc. Trong thời đại Hoàng Trị đều phát hiện Thủy thư mộc khắc bản. Như vậy, không có nghĩa là chỉ sau khi Giáp cốt văn được phát hiện mới tìm thấy Thủy thư. Giới khảo cổ vất vả hơn 40 năm khảo sát 24 phù hiệu trên đồ gốm nhà Hạ, sau đó cơ quan hữu quan tỉnh Hà Nam xem xét báo cáo về Thủy thư của Quý Châu và so sánh các ván khắc, tìm thấy có hơn mười biểu tượng phù hiệu tương ứng. Họ cho rằng: “Chữ cổ Thủy tộc và văn hóa phù hiệu còn lại của nhà Hạ có một mối tương quan.” 
Thủy thư
Thủy thư ghi chép lại, phần lớn là các ngày tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy, phương vị, cát hung, triệu tượng đuổi quỷ xua tà do vu sư thi hành công cụ của pháp sư. Do người Thủy tộc rất tin quỷ thần, nên Thủy thư được dùng rất rộng. Thủy thư có công năng đặc biệt, thúc đẩy người Thủy sùng bái quỷ thần. Tại nơi tụ cư của Thủy tộc, người đọc được và biết sử dụng Thủy thư (tất cả là nam giới) được người dân tôn trọng, gọi là “thầy quỷ” (quỷ sư). Trong dân gian, họ có địa vị rất cao, được mọi người sùng bái. Thủy thư cùng với “quỷ sư” được tổ truyền, là bảo vật trân quý, chỉ truyền nam không truyền nữ. Tuyệt đối không truyền cho người ngoài. Thủy thư là cuốn sách giáo khoa, quỷ sư là giáo sư. Quỷ sư và Thủy thư kết hợp là thuộc hệ tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy của Thủy tộc. Mối liên kết của thế giới quỷ thần, là nhân tố vật chất được truyền thừa của văn hóa vu thuật và duy trì lâu dài một thế giới thần bí.
   Ngoài nội dung tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy, Thủy thư còn chứa rất nhiều thông tin về các thiên tượng, tư liệu lịch pháp cùng văn tự cổ, là di sản văn hóa lịch sử vô giá của Thủy tộc. Một số trong đó là lý thuyết hiện nay như Cửu tinh, Nhị thập bát tú, Bát quái cửu cung, Thiên can địa chi, nhật nguyệt ngũ tinh, Âm Dương ngũ hành, Lục thập giáp tử, tứ thời ngũ phương. Quy chế thất nguyên lịch được đề cập trong Chính nguyệt kiến Tuất của Thủy lịch, cho thấy tổ tiên Thủy tộc đã kết tinh trí tuệ và nghệ thuật cao, bao hàm triết học của khoa học luân lý và biện chứng duy vật sử quan. Trong văn hóa Trung Quốc nó được xem là những trang xán lạn nhất.
   Kết cấu của văn tự cổ Thủy tộc đại loại có ba loại hình: thứ nhất là chữ tượng hình, giống như Giáp cốt và Kim văn; thứ nhì là chữ phỏng theo Hán ngữ, tức là cách viết ngược, viết đảo hay cải biến chữ Hán; ba là văn tự tôn giáo, tức các phù hiệu biểu thị mật mã của tôn giáo Thủy tộc cổ truyền. Sách được viết theo hình thức từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, không có dấu chấm câu.
   Văn tự Thủy tộc có ba hình thức lưu truyền chủ yếu: khẩu truyền, viết trên giấy, thêu, viết lên da, khắc trên ván gỗ, viết trên gốm rồi nung v.v…Thủy thư chủ yếu dựa vào viết tay, truyền khẩu lưu truyền tới nay, vì vậy được các chuyên gia học giả thế giới khen ngợi là văn tự tượng hình “hóa thạch sống.” Do là kết cấu tượng hình, chủ yếu chúng mô tả hoa, chim, trùng, cá và những thứ khác trong thế giới tự nhiên, cũng như một số totems như con rồng và bằng văn bản cùng các miêu tả vẫn giữ được nền văn minh cổ xưa của nó.”
          Bản văn trên cho thấy, Thủy tự, Thủy thư là di sản vô cùng quý giá của người Lạc Việt. Tuy nhiên trong một bài viết, vấn đề chưa được các học giả Trung Quốc nghiên cứu một cách căn để. Trong khi đó, học giả người Việt dường như chưa quan tâm đến sự kiện quan trọng này. Dựa theo văn bản trên, chúng tôi xin lạm bàn đôi điều.
         Trước hết, ta thấy rằng, tác giả của bài viết đại diện cho tính chính thống Hán tộc nên có xu hướng kéo cả người Thủy lẫn chữ Thủy vào trong vòng ảnh hưởng của Hán tộc: tất cả đều có xuất xứ từ Trung Nguyên. Người Thủy là một nhánh của Hạ tộc di cư xuống. Trong chữ Thủy có tới 10 ký hiệu xuất hiện trên gốm nhà Hạ! Tuy nhiên, đó là cách ngụy biện do lý giải ngược. Nay ta biết rằng, nhà Hạ là hậu duệ của người Lạc Việt từ Nam Dương Tử đi lên. Còn ký hiệu trên gốm nhà Hạ chưa phải ký tự. Trong khi đó, tại Cảm Tang Quảng Tây cách đó không xa, phù tự là loại chữ dùng cho cúng tế, bói toán được khắc trên đá từ 6000 đến 4000 năm trước! Như vậy có thể là, chữ tượng hình do người Lạc Việt sáng tạo mà duy nhất người Thủy giữ được cùng với sách Thủy. Các chuyên gia không cho biết chữ Thủy xuất hiện từ bao giờ. Nhưng dựa vào lịch sử chữ viết Lạc Việt, ta có thể đoán rằng, đó là do một dòng chảy liên tục từ chữ Cám Tang cho tới chữ Thủy. Có nghĩa là, chữ Thủy có lịch sử 4000 - 6000 năm. Nói rằng, trong chữ Thủy có một số chữ Hán cũng có thể có cơ sở. Đó là do tiên nhân người Thủy đã mượn chữ Hán làm phong phú hơn cho chữ viết của mình.
        Tuy nhiên, chữ Thủy có đặc trưng riêng. Thế nào là cách viết ngược, viết đảo hay cải biến chữ Hán?  Chi tiết này cho thấy chữ Thủy có gốc từ chữ tượng hình Lạc Việt. Trong khi người Trung Quốc thời Tần, Hán cải biến chữ của người Việt để viết theo cách nói Mông Cổ thì người Thủy vẫn giữ cách viết Lạc Việt truyền thống. Do vậy khi nhìn bản văn chữ Thủy, người Hán cho là viết ngược hay viết đảo với chữ Hán, tức là viết theo cú pháp Việt: chính trước phụ sau mà không phải như chữ Hán viết theo kiểu phụ trước chính sau. Người Việt nói thịt gà, trong khi người Hán nói gà thịt! Điều này là thêm khẳng định thủy Thư là của người Lạc Việt.
       Bài viết trên cho ta thông tin giá trị: từ xa xưa, chậm nhất là 4000 năm trước, người Thủy đã biết tới Cửu tinh, Nhị thập bát tú, Bát quái cửu cung, Thiên can địa chi, Nhật nguyệt ngũ tinh, Âm Dương ngũ hành, Lục thập giáp tử, tứ thời ngũ phương. Quy chế thất nguyên lịch được đề cập trong Chính nguyệt kiến Tuất của Thủy lịch. Điều này là bằng chứng hùng hồn nói rằng, tên 12 con giáp cho các con giống của hàng Can cũng như 10 số đếm của hàng Chi là do người Việt đặt. Và trùm lên tất cả, ta thấy sự phổ biến của Dịch lý trong sách Thủy. Đó cũng là một bằng chứng cho thấy người Lạc Việt là chủ nhân của Dịch lý.
Tài liệu tham khảo:
*Dịch từ http://baike.baidu.com/view/95537.htm         
 
VIỆT NHO LÀ ĐỈNH CAO CỦA MINH TRIẾT PHƯƠNG ĐÔNG
Hơn 2000 năm Nho giáo trở thành một thứ quyển văn hóa bao trùm cuộc sống của người Việt. Dù muốn dù không thì văn hóa Nho giáo hòa quyện vào mọi ngõ ngách tinh thần của từng người dân. Nhưng do những hạn chế của lịch sử và tri thức, hầu hết người Việt, kể cả những người được hay tự coi là trí thức cũng chưa có mấy ai thực sự hiểu biết về Nho giáo. Phần nhiều chỉ đọc một vài cuốn sách rồi theo kiểu “bắc nồi chõ nghe hơi”đưa ra những lời phê phán hoàn toàn cảm tính, phủ định giá trị của Nho giáo. Thái độ phi trí thức như vậy cần được phê phán ngõ hầu xây dựng quan niệm chính xác về cội nguồn văn hóa dân tộc.
CỘI NGUỒN CỦA NHO GIÁO
Thế giới có câu thành ngữ: văn hóa Trung Hoa là văn hóa phương Đông. Do vậy, muốn hiểu văn hóa phương Đông cần phải hiểu văn hóa Trung Hoa. Muốn hiểu được căn cơ văn hóa Trung Hoa, cần phải biết người Trung Hoa là ai, gốc gác từ đâu và có quá trình hình thành như thế nào?
Cho đến cuối thế kỷ XX, quan niệm phổ biến cho rằng, người Hán từ Tây Bắc xâm nhập Nam Hoàng Hà, sáng tạo văn minh Hoa Hạ. Sau đó đem văn minh Hoa Hạ xuống khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Tuy nhiên, sang thế kỷ XXI, di truyền học đã khám phá sự thật ngược lại. 70.000 năm trước, người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra người Việt cổ trong đó người Lạc Việt (Indonesian) chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu cải thiện, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục mà bộ xương người đàn ông ở hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm 40.000 năm tuổi là nhân chứng...
Khoảng 20.000 năm trước, người Việt sáng tạo công cụ đá mới Hòa Bình, đưa lên Động Người Tiên tỉnh Giang Tây và làm ra công cụ gốm đầu tiên. 12.400 năm trước, thuần hóa thành công cây lúa nước Oryza sativa. Từ đây, người Lạc Việt mang công cụ đá mới, giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó đi lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực sông Dương Tử và Hoàng Hà. Qua thời gian, người Việt đã làm nên những văn hóa khảo cổ nổi tiếng: Giả Hồ Hà Nam 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ Chiết Giang 7000 năm trước… Tại miền Trung Hoàng Hà, thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước, xảy ra sự kiện quan trọng: người Lạc Việt Indonesian tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Thế hệ con lai này dần thay thế người Indonesian trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, được nhân chủng học gọi là người Việt hiện đại. Trong ngôi mộ 6500 tuổi tại dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương, tỉnh Hà Nam thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều đã xuất hiện quan niệm trời tròn, đất vuông, hình thanh long bạch hổ, nhị thập bát tú… thấm nhuần tinh thần Dịch lý.
 5.300 năm trước, tại Lương Chử Chiết Giang, nhà nước Xích Quỷ của người Lạc Việt ra đời, là nhà nước sớm và tiến bộ nhất ở phương Đông. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu văn hóa Lương Chử, học giả Trung Quốc khám phá nền văn hóa vật thể rực rỡ với những lưỡi cày bằng xương cho thấy nông nghiệp đã ở giai đoạn cày đất, nhiều công cụ đá mới tinh xảo, đồ gốm có độ nung cao, kiểu dáng đẹp, đa dạng. Đặc biệt là sưu tập đồ ngọc trang sức và ngọc thờ cúng với số lượng lớn nhất thế giới, được chế tác với kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao.
Năm 2698 TCN xảy ra sự cố đặc biệt, tạo khúc quanh trong lịch sử phương Đông. Đó là việc người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) do họ Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm đất của người Lạc Việt ở Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Chiến thắng quân sự nhưng do nhân số ít và văn hóa kém phát triển, lại gặp sự kháng cự mãnh liệt của dân Việt nên Hoàng Đế thực thi chính sách cai trị tương đối ôn hòa, dần dần thu phục được dân Việt. Trong quá trình chung sống, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra lớp con lai, được gọi là Hoa Hạ. Người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Nhưng do người Mông Cổ ít mà người Việt quá đông nên sau vài thế hệ, người Hoa Hạ hòa tan trong cộng đồng Việt, cả về máu huyết lẫn văn hóa. Có thể nhận ra điều này ở phả tộc của Hoàng Đế. Ba vua đầu: Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc là người Mông Cổ. Nhưng đời thứ tư Đế Khốc đã thành người Việt không chỉ với tước Đế đứng trước tên gọi mà nước da cũng chuyển sang màu đen của dân sắc tộc Lê bản địa. Vợ ông, bà Khương Nguyên, là người con gái thuộc thị tộc Thái (Thai thị nữ) cho nên các con ông là Nghiêu, Tiết, Tắc càng Việt hơn. Nghiêu làm vua rồi truyền ngôi cho Thuấn là người Việt. Thuấn truyền ngôi cho Vũ cũng là người Việt. Nhà Thương thành lập thì Thành Thang là hậu duệ của ông Tiết nên cũng là người Việt với nước da đen. Thay nhà Thương, con cháu ông Tắc cũng là người Việt lập nhà Chu…
Xâm chiếm đất đai, lập quốc, xưng vương là chuyện bình thường trong lịch sử. Nhưng sự kiện người Mông Cổ vào Nam Hoàng Hà năm 2698 TCN có ý nghĩa đặc biệt. Không như việc người Arian xâm lăng Ấn Độ sau đó hơn nửa thiên niên kỷ đã tàn sát người bản địa Dravidian, bắt họ làm nô lệ hoặc tàn bạo xua đuổi họ xuống phía Nam, gây đau khổ và mâu thuẫn dân tộc sâu sắc; người Mông Cổ nhìn chung ứng xử tương đối hòa dịu với người Việt. Nhờ vậy, trong vương triều Hoàng Đế mâu thuẫn sắc tộc không quá căng thẳng, phần nhiều dân Việt an phận làm ăn trong hòa bình. Khi lớp người Hoa Hạ cầm quyền thì do gần gũi về huyết thống và văn hóa, chính sách cai trị cởi mở hơn. Nhờ vậy, chính quyền động viên được dân Việt đem hết tài năng cống hiến cho đất nước. Ta biết rằng, là hậu duệ người Lạc Việt đi lên khai phá Hoa lục nên người Việt trong vương triều Hoàng Đế có bề dày văn hóa cũng như những kinh nghiệm sản xuất và đời sống. Khi được động viên, họ đóng góp rất lớn cho vương triều.
Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề vô cùng quan trọng cần được làm rõ. Đó là việc người Mông Cổ vốn là dân du mục trên đồng cỏ nên là những chiến binh quả cảm, quyết đoán, bạo liệt. Họ có thói quen tư duy phân tích, biết phân biệt nhanh những yếu tố khác nhau của môi trường. Những phẩm chất ấy một khi thấm nhuần văn hóa nhân bản, thái hòa của dân cư nông nghiệp, tiếp thu thói quen tư duy tổng hợp của cha mẹ Việt, họ trở nên những người lãnh đạo giỏi giang, mang phẩm chất ưu tú của hai dòng máu và hai nền văn hóa Mông-Việt. Nhờ vậy, cuộc sống đã hun đúc được những lãnh tụ có phẩm chất thánh nhân như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ. Những con người làm nên thời Hoàng kim trong lịch sử phương Đông. Có thể nói chắc rằng, nếu không có cuộc xâm lăng của Hiên Viên mà cứ duy trì phương thức sống nông nghiệp truyền thống thì phương Đông sẽ tiến triển rất chậm, sự nhảy vọt ngoạn mục sẽ không xảy ra, sẽ không thể có thời Hoàng kim rực rỡ như từng thấy.
Phân tích trên cho thấy, về thực chất các vương triều từ Đế Khốc về sau cho đến Nghiêu, Thuấn, Vũ… thuộc về người Việt cùng với văn hóa Việt. Danh xưng Hoa Hạ chỉ là biểu tượng để nhận lĩnh cái vinh quang của Hoàng Đế. Nhưng nhìn vào lịch sử mở đầu của Trung Hoa, ta thấy, thời Nghiêu-Thuấn không có thành tựu nào xuất sắc ngoài chữ Nhân trong trị nước, là cái phẩm hạnh vốn có của người Lạc Việt. Công trạng lớn nhất của vua Vũ là trị thủy Hoàng Hà, thực chất cũng chỉ là công việc quen thuộc của dân nông nghiệp, tuy quy mô to lớn hơn. Chỉ đến nửa sau nhà Thương, vào năm 1.300 TCN, khi vua Bàn Canh đánh chiếm đất An Dương của người Dương Việt, phát hiện ra Giáp cốt văn rồi dùng sức mạnh của chính quyền quân chủ phát triển chữ viết, đã đẩy lịch sử lên bước tiến ngoạn mục. Văn tự Giáp cốt vốn được người Việt tạo ra từ 9000 năm trước tại văn hóa Giả Hồ. Nhưng sau 4.000 năm, tại Lương Chử, Cảm Tang vẫn chỉ được dùng hạn chế trong bùa chú, bói toán, thờ cúng. Với nhà Ân, không tới 200 năm, Giáp cốt văn trưởng thành vượt bậc, đủ khả năng ghi chép những sự kiện thuộc địa dư, hành chính, nhân sự và từ đây lần đầu tiên phương Đông có sử.
Tiếp thu Giáp cốt văn từ triều Thương, nhà Chu cải tiến viết bằng sơn trên thẻ tre, trên lụa. Là vương triều kéo dài suốt 800 năm, từng được ca ngợi là chúa thánh, tôi hiền, các vua Chu rất chú trọng tới văn hiến, đã sai sử quan ghi chép hầu như mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều truyền thuyết từ thời khai thiên lập địa được ghi lại. Vua tôi các nước chư hầu dâng thiên tử những truyện xưa tích cũ cùng những câu ca trong dân gian. Tất cả đều được lưu trong thư viện. Không chỉ truyền thuyết về Bàn Cổ, Toại Nhân, Phục Hy-Nữ Oa, Thần Nông mà Dịch lý, vốn là cuốn kinh vô tự với Bát quái cùng 64 quẻ là những vạch liền, vạch đứt lần đầu tiên được ghi chép… Chính là văn tự được giải phóng, tạo phép thần khiến nhà Chu trở thành thời kỳ rực rỡ nhất của văn minh phương Đông.
Tuy nhiên, sự rực rỡ của hai nhà Thương Chu cũng có mặt trái. Nó khiến cho thế giới hơn 2000 năm nay lầm tưởng rằng đấy là toàn bộ lịch sử đã diễn ra trên Hoa lục mà không biết rằng bên cạnh cái gọi là thế giới Trung Hoa, còn nền văn minh vĩ đại của cộng đồng người Việt bị quên lãng. Mà chính đây mới là cội nguồn thực sự của văn minh phương Đông. Những khám phá gần đây cho thấy, sau khi một phần đất đai ở Nam Hoàng Hà bị xâm chiếm, lập nhà nước Hoàng Đế, là cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài của các quốc gia và bộ tộc Lạc Việt chống lại sự lấn chiếm của các vương triều Hoa Hạ. Vào cuối thời Thương, do tài năng và đức độ, các vua nhà Chu đã tập hợp được nhiều tiểu quốc và bộ tộc Việt cùng tham gia đánh vua Trụ, sau này thành khối chư hầu khổng lồ của nhà Chu. Chính người Lạc Việt từ các tiểu quốc vô danh này góp phần cốt lõi làm nên văn hóa Trung Hoa. Muốn có cái nhìn chính xác về văn minh phương Đông thì đó là sự thật sau: nếu văn hóa phương Đông là một cây đại thụ thì phần gốc rễ mọc trên đất Việt Nam, còn cành nhánh tốt tươi cùng hoa thơm trái ngọt nảy nở trên đất Trung Hoa.
Trong lịch sử nhân loại có thời kỳ đặc biệt, được gọi là Thời kỳ Trục (Pháp: période axiale; Anh: axial – với nghĩa là trục xoay hay bản lề) xuất hiện vào khoảng hai thế kỷ V và VI TCN. Đó là thời kỳ từ Đông sang Tây nảy sinh những con người khổng lồ như Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Socrates, Plato, Aristoteles… làm bùng phát những hoạt động tinh thần, sáng tạo một nền văn hóa kỳ vĩ, đỉnh cao chói lọi của văn minh nhân loại. Nhưng nguyên nhân nào làm nảy sinh ra hiện tượng dị thường này hầu như chưa được khảo cứu. Một khi chưa biết nguyên nhân thì việc đánh giá sự kiện chưa thể trọn vẹn. Ở đây chúng ta thử bắt đầu công việc khó khăn này.
Ta biết tới Claude-Lévi-Strauss tác giả cuốn Nhiệt đới buồn với những lời tuyệt vời minh triết: “Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua” và “Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào Thời đại Đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng vạn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…” Đó là sự khám phá chung cho nhân loại. Bởi lẽ, cho tới cuối Thời kỳ Đá mới, cả phương Tây lẫn phương Đông đều đã đạt tới sự phát triển cao nhất không chỉ về văn hóa vật chất mà còn cả về văn hóa tinh thần. Văn hóa đã tích tụ hàng nghìn năm, từ Thời kỳ Đồ đá sang Thời đại kim khí để rồi bùng phát vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, tạo nên Thời kỳ Trục.
Ta cũng biết rằng, thiên tử nhà Chu từng gom những câu ca của dân dã từ nơi thôn cùng xóm vắng về kinh đô để từ đó đánh giá thuần phong mỹ tục của từng nước và cũng từ đó thưởng phạt các vua chư hầu. Những dân ca ấy được lưu giữ trong tàng thư của triều đình, là tư liệu quý để sau này Khổng Tử biên tập kinh Thi… Chính là văn hóa Lạc Viêt tích lũy đến hai triều Ân, Chu tạo tiền đề sinh ra một Lão Tử, một Khổng Tử…, làm nên Thời Trục của phương Đông.
II.NỘI DUNG CỦA NHO GIÁO
Khổng Tử là cha đẻ của Nho giáo vì vậy ta phải đi sâu khảo cứu về ông. Khổng Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông vào cuối thời Xuân Thu. Như vậy gốc gác ông là người “Đông di” theo cách gọi của các vương triều Hoa Hạ. Điều này cũng có nghĩa, tổ tiên ông thuộc dân Lạc Việt từ Việt Nam đi lên Hoa lục hàng vạn năm trước. Sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên, nhà nước của Đế Lai tan rã, người Việt vùng phía Đông chia thành những nước nhỏ, tiếp tục chống lại các vương triều Hoa Hạ. Đến đầu thời  Chu, nước Lỗ là tiểu quốc độc lập liên kết cùng các nước Việt khác, phù giúp nhà Chu đánh bại vua Trụ, sau đó thành chư hầu của nhà Chu.
Năm 30 tuổi, Khổng Tử đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ. Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì ông đến quan sát và hỏi han cho tường tận. Từ đó, sự học của ông càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để mang lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông
Sau nhiều năm bôn ba khắp các chư hầu với ý nguyện thực thi Đạo của mình để cứu đời nhưng thất bại, năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông hiệu đính các cổ thư bị tản mác, nhiều chỗ không rõ ràng, dễ bị thất truyền hoặc khiến người đời sau nhầm lẫn. Do vậy, Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập thành sáu cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Mỗi cuốn lại nói về một vấn đề khác nhau, từ thi ca, nghi lễ, bói toán cho tới sử học. Việc Khổng Tử tự mình biên soạn sáu bộ sách đã thể hiện hiểu biết sâu rộng và tinh thần làm việc miệt mài của ông, có thể coi đây là một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tư Mã Thiên từng ca ngợi Khổng Tử: "Núi cao cúi phục, thiên nhiên cũng kính nể ngừng khoe sắc đẹp. Thiên hạ biết không đuổi kịp được ông nhưng luôn hướng theo ông! Từ bậc quân vương đến thường dân lúc đó đều ca ngợi ông. Tuy chỉ là người mặc áo vải nhưng ông đời đời được tôn vinh, những người học đều coi ông là thầy, có thể nói ông là bậc thánh hiền!”
Cùng đọc sách nhà Chu, trong khi Lão Tử như siêu triết gia, thu hút tinh hoa từ sách cổ để đúc thành 500 chữ của Đạo đức kinh, ý vừa cao siêu vừa sâu thẳm chỉ giành cho tầng lớp ưu tú thì Khổng Tử lại là nhà làm vuờn cần mẫn lựa từ trong sách những hạt giống tinh hoa rồi đem gieo trên cánh đồng văn chương. Chân thành, khiêm cung, thừa nhận “ngô thuật nhi bất tác” (ta chỉ là người chép lại) nhưng Khổng Tử tạo ra cả một thời đại văn hóa. Thử hỏi, nếu không có Khổng Tử làm cái việc ghi chép ấy, có nghĩa là không có Ngũ kinh, liệu văn hiến phương Đông còn gì? Không chỉ làm sách mà do công “giáo nhi bất quyện” (dạy không biết mệt) Khổng Tử để lại đội ngũ kẻ sỹ lớn không chỉ về trí tuệ mà cả nhân cách.
Nhớ lại câu nói của Khổng Tử khi bị vây ở đất Khuông: "Sau khi vua Văn Vương mất, tất cả mọi văn hóa, lễ nhạc đều không phải ở nơi ta cả ư ? Nếu trời muốn cho nền văn hóa này mất đi, thì sao khi vua Văn Vương chết, lại ủy thác cho ta nắm giữ nền văn hóa này làm gì? Còn nếu trời đã không muốn để mất nền văn hóa này, thì người Khuông kia làm gì được ta," ta thấy hơn ai hết, Khổng Tử ý thức được vai trò của mình.
Trong trước tác và cả trong giáo dục, Khổng Tử không chỉ nhuần thấm mà không mệt mỏi dạy dỗ cả bốn tầng minh triết tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Trong khi đẩy tới cùng việc dạy trị quốc, bình thiên hạ cho các bậc vua chúa, thì ông cũng nhiệt tâm dạy nhân nghĩa, lễ, trí tín, tu thân tề gia. Trong khi biên tập những sách mang lượng trí tuệ siêu việt như kinh Thư, kinh Dịch, Khổng Tử cũng là người san định rồi cho lưu truyền kinh Thi là những câu ca lượm nhặt từ hang cùng xóm vắng trong dân gian. “Bất độc thi vô dĩ ngôn”: Không đọc kinh Thi lấy gì mà nói, không chỉ là lời dạy con mà là lời dạy cho kẻ sỹ muôn đời phải tôn trọng, học hỏi lời ăn tiếng nói của người bình dân. Đó chính là thái độ minh triết vì nó gắn kết minh triết bình dân với minh triết bác học. Nhờ vậy, ở phương Đông, Minh triết trở thành một thứ quyển văn hóa tâm linh bao quanh cuộc sống con người.
Những phân tích ở trên có thể không ít người nhận ra, trong khi đó có một ý tưởng chỉ duy nhất thiên tài Kim Định thấy được. 50 năm trước, khi biết rằng, trước khi người Hán vào Trung Quốc thì người Việt từ lâu đã làm chủ Hoa lục và xây dựng ở đó nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ, học giả Kim Định cho rằng, thư tịch trong thư viện nhà Chu chứa kho tàng văn hóa cổ của người Việt. Khi san định kinh sách, có nghĩa là Khổng Tử phục hoạt nền văn hóa cổ Việt mà ông gọi là Việt Nho hay Nho nguyên thủy. Nếu không có Khổng Tử làm việc này, cái kho tàng văn hoa của tộc Việt sẽ tiêu trầm và một nền văn hóa lẫy lừng trong lịch sử sẽ biến mất. Nhưng sau đó, những lớp kế thừa Khổng Tử theo trào lưu của văn minh du mục Mông Cổ đã biến Khổng nho thành Hán nho, Tống, Đường, Minh, Thanh nho… xa dần đặc tính minh triết của Việt Nho. Những câu như “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” hay “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… và nhiều câu khác không phải của Khổng Tử mà do người sau thêm vào mà do thiếu tra cứu nên nhiều người đổ oan cho Khổng Tử.
Nửa thế kỷ trước, phát biểu của Kim Định là ý tưởng dị thường, không tin được nên không ít người cho ông là hoang tưởng, là theo tinh thần dân tộc cực đoan mà phản đối ông dữ dội. Nhưng nay, từ khám phá quá trình hình thành dân cư và lịch sử Trung Hoa, ta thấy Kim Định hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, do sự mù mờ của lịch sử, ta nghĩ rằng, người Hán là tộc người từ ngoài xâm nhập Nam Hoàng Hà, làm nên văn minh Hoa Hạ. Người dân thời Nghiêu, Thuấn, Vũ là dị tộc. Nhưng nay, ta hiểu rằng, dân cư Trung Quốc từ thời Hoàng Đế đã là người Việt. Không chỉ Nghiêu, Thuấn mà các triều đại Thương, Chu cũng là người Việt. Vì vậy, cái Nho học ban đầu của Khổng Tử chính là Việt Nho.
Một lần nữa, ta thấy câu nói của Levis-strauss ứng nghiệm. Đúng là đỉnh cao văn hóa đạt được vào Thời Đồ đá đã trầm tích qua thời gian rồi bùng phát vào giai đoạn Trục, đem lại thành tựu rực rỡ cho văn minh nhân loại. Như vậy ta thấy, khác với ở phương Tây, tầng lớp ưu tú cắt đứt với minh triết bình dân để trở thành những triết gia tư biện trên đỉnh Olimpia, xa rời cuộc sống thì Khổng Tử là cây cầu nối minh triết bình dân với minh triết bác học, tạo cho minh triết thành cây cổ thụ sâu gốc bền rễ… Trong những định nghĩa về Minh triết, có định nghĩa như sau: “Minh triết là sự khôn ngoan sáng suốt trầm tích trong chiều sâu nhất của văn hóa, tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng văn hóa dân tộc và đẫn đường cho dân tộc đi lên.” Nhìn vào chiều sâu của định nghĩa đó, ta thấy, Nho giáo nguyên Thủy hay Việt Nho chính là đỉnh cao của minh triết phương Đông.
III. KẾT LUẬN
Việt Nam là cái nôi của con người và văn hóa phương Đông. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ phương Đông. Chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Minh triết Việt nho thấm đẫm trong tâm hồn và xã hội Việt Nam, thể hiện bằng sự nhân ái, khoan dung, thương người như thể thương thân, là lòng yêu nước thương nòi, ở khí phách anh hùng quyết tâm bảo vệ đất nước… Tuy nhiên, do không hoàn thiện được chữ viết, chúng ta không thể sử dụng văn tự ghi chép lại thành tựu văn hóa do tổ tiên sáng tạo... Rất may là người anh em phương Bắc của chúng ta đã ghi lại được di huấn của tổ tiên trong kinh điển Nho giáo. Vì vậy, khi Nho giáo được truyền tới, người Việt không những không cảm thấy xa lạ mà ngược lại nhận ra sự thân quen gần gũi. Nhiều ý tưởng mới chỉ mơ hồ trong tâm khảm thì đã được đúc kết sáng rõ thành kinh điển. Bên cạnh đó là những sách chú giải của các tiên nho cùng những sử, truyện đem tới cho người Việt nguồn căm hứng và tri thức dồi dào. Phải khẳng định, Nho giáo nâng cao tầm trí tuệ của người Việt. Không chỉ vậy mà còn dạy cho cha ông chúng ta nghệ thuật ngôn từ. Nếu trước đây chỉ biết tới những câu vè hay những câu lục bát thì nay cho ông ta biết tới thơ Cổ phong, Đường luật rồi biết làm văn sách, nghị luận và tự viết ra cuốn sử của mình… Từ đó xây dựng được đội ngũ trí thức dân tộc đủ sức gánh trên vai gánh nặng giang sơn, làm nên một dân tộc văn hiến… Sự thực đó không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, việc coi mọi thứ của Nho giáo đều hoàn thiện, đều tốt đẹp lại là sự vô minh. Bởi lẽ, tuy kinh điển của thánh hiền không được thay đổi nhưng những nhà chú thích vì lẽ này lẽ khác đã giảng khác đi. Rồi trong những sử truyện, vì quyền lợi của mình, người viết đưa vào những quan niệm ngu trung, ngu hiếu của Hán nho, Tống nho cùng thái độ kỳ thị phụ nữ và các sắc dân thiểu số đã tác động tiêu cực đến trí thức Việt. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những tiêu cực đó để rồi phủ định toàn bộ nền Nho học hàng nghìn năm thì lại là sự vô minh tệ hại hơn. Vấn đề của chúng ta hôm nay là gạn lọc tìm lại tinh hoa Việt nho của tổ tiên để phục hưng dân tộc.
                 Sài Gòn, 21.11.2018
 
TỔ TIÊN NGƯỜI TRUNG QUỐC LÀ AI?
Năm 2001, một tổ công nhân tình cờ tìm thấy ở hang Điền Nguyên những mảnh xương động vật có vú hóa thạch. Do không có kinh nghiệm, họ đã làm xáo trộn địa tầng trước khi báo cho các nhà khảo cổ. Không ngờ rằng đó là cái mốc quan trọng của lịch sử phương Đông. Năm 2003 và 2004 di chỉ đã được một nhóm nghiên cứu từ Viện Cổ sinh vật học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc khai quật.
Hang Điền Nguyên (Tianyuandong) là hang động nhỏ có cửa mở ra phía tây bắc, cao 175 m so với mực nước biển, nằm trên một trại cây thuộc thành phố Chu Khẩu Điếm, quận Phản Sơn, Bắc Kinh, Trung Quốc, cách sáu km về phía Tây Nam của Chu Khẩu Điếm, một di chỉ khảo cổ quan trọng hàng đầu của thế giới. Ngày 22 tháng 10 năm 1926, nhà khảo cổ Thụy Điển Andersson đã công bố việc phát hiện ra hai chiếc răng của người đàn ông cổ từ Chu Khẩu Điếm. Điều này mang lại tiến bộ đột ngột cho các lý thuyết về nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Chủ nhân của hai chiếc răng được xếp vào giống mới và loài mới Sinanthropus pekinensis của Họ Người Hominidae, còn được gọi là "người Bắc Kinh" Homo erectus pekinensis. Toàn bộ trầm tích hang Chu Khẩu Điếm được chia thành 17 lớp từ trên xuống dưới. Tuổi tuyệt đối của lớp 13 là khoảng 730.000 năm. Lớp thứ 10, lớp thấp nhất mang xương người Bắc Kinh hóa thạch, có tuổi khoảng 500.000 năm; trong khi lớp 3, lớp ở trên mang xương người hóa thạch, là từ 230.000 đến 250.000 năm trước. Như vậy, người Bắc Kinh đã sống trong hang động này khoảng 260.000 năm. Trong hai năm 1933-1934, khai quật Hang Thượng (Upper Cave). Ba hộp sọ (số 101, 102 và 103) được phát hiện. Các nhà nhân chủng học cho rằng người Hang Thượng thuộc Homo sapiens muộn. Tuổi tuyệt đối họ khoảng 27.000 năm trước. Sọ 101 được coi là một Mongoloid nguyên thủy, sọ 102 là một Melanesian và sọ 103 là một Eskimo.
Chu Khẩu Điếm là phát hiện quan trọng hàng đầu của nhân loại. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có một di chỉ phong phú đến vậy dấu vết con người trong thời gian dài. Việc xuất hiện từ người Homo sapiens giai đoạn sớm 100.000 – 200.000 năm trước tới người Homo sapiens thời kỳ muộn cùng một nơi với người Bắc Kinh 600.000 năm tuổi dường như nói rằng, nơi đây là sự thu gọn của lịch sử nhân loại. Phát hiện Chu Khẩu Điếm là một chứng cứ mạnh mẽ ủng hộ Thuyết nhiều vùng về nguồn gốc con người (Multiregional hypothesis). Chính điều này dẫn tới quan niệm thống trị một thời: “Trung Hoa là dân tộc lâu đời bậc nhất trên thế giới. Người Trung Hoa từ người cổ Bắc Kinh tiến hóa thành.” Nhưng sang thế kỷ mới, khoa học cho thấy sự thực không phải như vậy.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007, bài báo “Một người hiện đại sớm từ hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm”(1) mô tả như sau:
“Trầm tích hang Điền Nguyên gồm bốn lớp, từ trên xuống dưới. Một số trong 34 thành phần của bộ xương người bị công nhân địa phương làm xáo trộn, nhưng phần còn lại được tìm thấy trong lớp III. Không có hiện vật bằng đá hoặc các di tích văn hóa khác được tìm thấy trong di chỉ cho đến nay. Có rất nhiều mảnh xương trong trầm tích hang động Điền Nguyên, nhưng hiện tại không thể biết liệu chúng có liên quan đến hành vi của con người hay không. Sáu mẫu động vật từ lớp III cung cấp tuổi trung bình dao động từ 39.500 đến 30.500 14C BP.”
Phải nói rằng, bài báo đã trình bày một nghiên cứu công phu, với phong cách khoa học đáng nể nhưng kết quả thu được không như kỳ vọng vì nó chỉ xác định được chủ nhân bộ xương là người hiện đại, khoảng 40-50 tuổi, sống khoảng 40.000 năm trước, không cho biết giới tính của bộ xương. Nó cũng không cho thấy người Điền Nguyên từ đâu tới, có quan hệ thế nào với những người cổ khác trong vùng?
Phải sáu năm sau, khi công nghệ di truyền vào cuộc, sự thật mới được sáng tỏ. Ngày 21 tháng 1 năm 2013 một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Nhân chủng học tiến hóa Max Planck ở Leipzig, Đức công bố bài viết “Họ hàng từ hang Điền Nguyên” (2) nhận định: “Phân tích DNA xương chân của cá nhân này cho thấy chủ nhân hang Điền Nguyên là người đàn ông sống 40.000 trước, có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng tỷ lệ gen Neanderthal và Denisovan trong con người hiện đại sớm này không cao hơn so với những người sống trong vùng này ngày nay.”
Người Điền Nguyên
 
Trong thế kỷ XX, khảo cổ học Đông Nam Á phát hiện di cốt xưa nhất của người hiện đại tại Hang Niah, Indonesia khoảng 39.000 năm trước. Trên đất Việt Nam tìm được di cốt người sớm nhất tại Sơn Vi khoảng 32.000 năm tuổi. Đây được coi là bằng chứng đầu tiên về tổ tiên người Việt. Nhưng từ thập kỷ 1970, nhờ tìm được bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm nên nảy sinh hy vọng, người hiện đại nhiều khả năng có mặt trên đất nước ta sớm hơn nữa.
Sang đầu thế kỷ XXI, nhiều nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á đưa ra nhận định: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Sau khi gặp gỡ hòa huyết và tăng nhân số, 40.000 năm cách nay, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Nếu điều này đúng thì suốt 40.000 năm sống trên đất Việt (từ 70.000 đến 30.000 năm trước) ngoài những công cụ đá, tổ tiên ta không để lại chút vết tích nào của xương thịt! Một việc không khỏi khiến chúng ta băn khoăn.
Tài liệu di truyền học cho rằng, 40.000 năm trước người từ Việt Nam đi lên hoa lục. Nhưng suốt thế kỷ XX chỉ tìm thấy trên đất Trung Quốc sọ người hiện đại 27.000 năm tuổi tại Chu Khẩu Điếm. Sang thế kỷ XXI mới phát hiện tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây di cốt người 25.000 năm. Như vậy, vấn đề thời điểm người Việt Nam đi lên Hoa lục vẫn còn là câu hỏi. Trong khảo cứu của mình, tôi đặc biệt quan tâm tới điều này vì nó có ý nghĩa lớn trong lịch sử phương Đông.
Việc xuất hiện di cốt người đàn ông 40.000 năm trước ở Chu Khẩu Điếm cho thấy, khu vực này có điều gì đó đặc biệt nên đã thu hút nhiều lớp người tới cư trú và sinh sống lâu dài. Do đặc điểm của khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng, nơi đây đã bảo tồn được di cốt xưa nhất của dòng người từ Việt Nam lên. Các báo cáo khoa học chưa cho biết người Điền Nguyên từ đâu tới. Nhưng từ khảo cứu của mình, tôi khẳng định là từ Việt Nam lên. Có thể nói gọn về quá trình con người hình thành ở đây như sau: 600.000 năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus có mặt. Cho tới 250.000 năm trước không hiểu vì sao họ rời khỏi đây cũng như toàn châu Á, để lại khoảng hơn 200.000 năm châu lục vắng bóng người. Trong ý nghĩa nào đó, xương Điền Nguyên được coi là di cốt người hiện đại xuất hiện sớm nhất ở phương Đông. Tuy nhiên sự thực không phải như vậy. Thập kỷ 1970 phát hiện bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây và sọ người Australoid ở Hồ Mungo châu Úc, cùng 68.000 năm tuổi. Năm 2009 tìm được tại hang Tampaling Bắc Lào cốt sọ người hiện đại 63.000 năm trước. Điều này phù hợp với những khám phá di truyền học cho rằng người hiện đại từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước. Nhưng do sự tàn phá của thời gian và môi trường, phần lớn di cốt người cổ chỉ có thể giữ được tới 30.000 năm trước. Sọ Lào và xương người Lưu Giang là hai đại diện hiếm hoi của dòng người tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tới nay xương người hang Điền Nguyên là dấu vết xưa nhất của tổ tiên người Trung Quốc được tìm thấy. Nhà nhân học Trung Quốc Ngô Tân Trí (吴新智) nói: “Trung Quốc từ 20.000 năm trước cho tới nay, không có bằng chứng nào cho thấy con người có những hoạt động di cư lớn. Vì vậy, cần phải nói rằng ông là tổ tiên của chúng tôi.” (3)
Khúc xương chân người Điền Nguyên kể với ta câu chuyện thú vị:

i. Với 40.000 năm tuổi và “có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay,” mảnh xương Điền Nguyên là di vật vô giá của Tổ tiên dân cư Đông Á và người Mỹ bản địa. Điều này phù hợp với nhận định của di truyền học cho rằng: người từ Việt Nam đi lên Trung Quốc và làm nên dân cư Đông Á. Đồng thời cũng xác nhận cuộc hành trình của người Việt cổ từ Hoa lục lên Siberia rồi vượt eo Bering sang chinh phục châu Mỹ 30.000 năm trước, trở thành cư dân bản địa châu Mỹ.

Aucun commentaire: