ĐỐI THOẠI SOI SÁNG LỊCH SỬ [ 6 ] * HÀ VĂN THÙY

T
uy nhiên, bất cứ ai đã dành thời gian ở Việt Nam trong 20 năm qua, hoặc đọc các bài đăng trực tuyến về lịch sử Việt Nam, có khả năng đã gặp phải những ý tưởng trên. Là một nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, tôi gặp những ý tưởng như thế này bắt đầu từ những năm 2000. Cho dù đó là những câu hỏi tại các buổi nói chuyện chuyên nghiệp, đến những cuộc trò chuyện ngẫu nhiên trong quán cà phê, tôi liên tục gặp phải những ý tưởng không phải là một phần của khóa đào tạo học thuật mà tôi đã nhận được, nhưng rõ ràng là một phần của kiến thức lịch sử phổ biến ở Việt Nam, và nó rất quan trọng đối với một số người Việt Nam, cả trong và ngoài nước. Các chủ đề của lịch sử thay thế này mà tôi gặp phải tập trung chủ yếu vào thời tiền sử và sự hình thành văn hóa truyền thống Việt Nam. Để đưa ra một số ví dụ, tôi đã nói rằng người Việt Nam đã tạo ra một loại chữ viết (hiện đã mất) trước khi văn học Trung Quốc được chấp nhận bởi các thành viên của giới thượng lưu khoảng 2.000 năm trước.
Tôi cũng được cho biết rằng người Việt Nam đã tạo ra Kinh Dịch (mà hầu hết các học giả trên thế giới sẽ coi là một trong những văn bản đầu tiên của Trung Quốc) và người Trung Quốc sau đó đã đánh cắp nó, tuyên bố đó là của họ. Thật vậy, qua thời gian tôi nghe người ta nói nhiều hơn những điều này, ví dụ như thông báo cho tôi, và như Hà Văn Thùy đã nói trước đó, rằng người Việt sống ở Hoa lục trước khi người Trung Quốc ra đời. Cuối cùng, tôi cũng được nói nhiều lần rằng trồng lúa đã được người Việt phát minh ra, và điều này đã được chứng minh bởi một học giả phương Tây trong một cuốn sách tên là Eden in the East .
Càng nghe mọi người bình luận như vậy, tôi càng tò mò muốn biết những ý tưởng này đến từ đâu. Do đó, tôi bắt đầu tìm kiếm, và cuối cùng nhận ra rằng ý tưởng này lần đầu tiên được một nhà triết học với tên Lương Kim Định, người rất tích cực ở Nam Việt Nam vào những năm 1960 và đầu những năm 1970 đề cao. Các học giả từ miền Nam Việt Nam không được chính phủ Cộng sản Việt Nam hoan nghênh khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, và Lương Kim Định cũng không ngoại lệ. Ông di cư sang Mỹ và sách của ông bị cấm. Làm thế nào sau đó, tôi tự hỏi, có thể là những ý tưởng của ông đã được biết đến và đang lưu hành ở Việt Nam thế kỷ 21? Và làm thế nào mà một hội nghị chuyên đề chính thức được tổ chức, tại Văn Miếu ở trung tâm Hà Nội, vào năm 2012 để thảo luận về ý tưởng của ông? Những câu hỏi như vậy dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này.
Tuy nhiên, cuối cùng, chúng ta có thể nói rằng có một chủ đề chung liên kết các ý tưởng của Lương Kim Định, Hà Văn Thùy và nhiều người khác, và đó là một ý nghĩa mà các lực lượng như Tây phương hóa, và bây giờ toàn cầu hóa, là mối đe dọa hiện hữu đối với Xã hội Việt Nam, và một triết lý và văn hóa Việt Nam mới cần được tạo ra để chống lại mối đe dọa đó. Hơn nữa, ở mức độ này hay mức độ khác, các cá nhân được thảo luận trong bài viết này cũng đều cho rằng một chính quyền Cộng sản, hoặc những trí thức công chức hiện tại, không có khả năng làm điều này. Chẳng hạn, Lương Kim Định đã tìm kiếm vào những năm 1960 để tạo ra một triết lý cho miền Nam Việt Nam sẽ chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đó cũng sẽ là một phương án thay thế cho chủ nghĩa Cộng sản.
Cung Đình Thanh, một nhân vật quan trọng trong việc phát triển các ý tưởng được xem xét trong bài viết này mà chúng ta sẽ gặp trong phần tiếp theo, tin vào những năm 1990 từ quan điểm thuận lợi của mình ở Úc rằng sự cai trị của Cộng sản sẽ sớm chấm dứt ở Việt Nam và rằng đất nước sẽ cần một nền văn hóa mới cho một thời đại mới, nhưng là một nền văn hóa vẫn còn ăn sâu vào một cái gì đó thuộc về bản sắc Việt Nam có thể nhận dạng. Lúc đó chính phủ Việt Nam coi toàn cầu hóa là mối đe dọa và đang tìm cách chống lại tác động tiêu cực đã lường trước mà hội nhập Việt Nam vào thế giới sẽ mang lại cho văn hóa Việt Nam và xã hội bằng cách thúc đẩy các khía cạnh khác nhau của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy bên dưới, Hà Văn Thùy đã viết vào năm 2005 rằng mặc dù chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết để "bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc," nhưng những nghị quyết này, theo ông, đã không có hiệu quả. Do đó, nhu cầu, ông cũng lập luận, để những người khác chịu trách nhiệm sáng tạo một nền văn hóa mới, có thể chống chọi được cuộc xâm lăng văn hóa của ảnh hưởng toàn cầu (Hà 2005).
Do đó, các cá nhân được thảo luận trong bài viết này đều quan tâm đến khả năng văn hóa và xã hội Việt Nam tồn tại khi tiếp xúc với các nền văn hóa nước ngoài. Hơn nữa, tất cả họ đều cảm thấy rằng bước đầu tiên để tăng cường văn hóa và xã hội Việt Nam bằng cách đưa ra một quan điểm mới về các giai đoạn sớm nhất của lịch sử. Bài viết này có ý nghĩa như một nỗ lực ban đầu để vạch ra ý tưởng của nhóm các cá nhân này liên quan đến quá khứ đó, hay những gì chủ yếu là tiền sử Việt Nam.
Những ý tưởng lịch sử mà họ đã phát triển đóng vai trò là bối cảnh mà từ đó họ thảo luận về những ý tưởng có thể phục vụ như một nền văn hóa và triết lý mới cho người Việt Nam. Lương Kim Định đã phát triển một số lý thuyết triết học, chẳng hạn như Việt Nho và An Vi dựa trên niềm tin rằng ý tưởng trong các tác phẩm như Kinh Dich được phát triển đầu tiên bởi tổ tiên của người Việt. Để thiết lập quan điểm này, Lương Kim Định đã phát triển một phiên bản tiền sử độc nhất vô nhị cho rằng tổ tiên của người Việt là những cư dân đầu tiên của lục địa châu Á và họ đã tạo ra nền tảng của những gì mọi người ngày nay sẽ gọi là truyền thống Trung Quốc của Văn hóa Đông Á. Trong 30 năm qua, người Việt Nam ở hải ngoại và ở trong nước đã phát triển câu chuyện tiền sử đó hơn nữa bằng cách kết hợp ý tưởng từ khảo cổ học và khoa học di truyền. Họ đã có thể làm điều này bởi vì Internet đã cung cấp cả thông tin và sự giao tiếp thuận lợi giữa người Việt ở hải ngoại và trong nước, những người trước đây bị cô lập với nhau.
Bài tiểu luận này sẽ theo dõi sự phát triển những ý tưởng giữa các thành viên của các xã hội khác nhau. Trong khi những ý tưởng tạo nên câu chuyện thay thế này của tiền sử người Việt đã đi từ miền Nam Việt Nam, đến cộng đồng người di cư, và bây giờ trở lại vào ý thức của người Việt thông qua Internet và thông qua nỗ lực của cả Việt kiều và người Việt trong nước, những cá nhân góp phần phát triển những ý tưởng lịch sử này phần lớn thuộc về khu vực lân cận của cuộc sống học tập ở Việt Nam, hoặc chắc chắn ở ngoài rìa của nghề sử học. Thật vậy, phân loại tương tự được áp dụng cho Lương Kim Định khi ông hoạt động ở miền Nam Việt Nam (Tạ 2008). Đồng thời, các cá nhân đã thảo luận trong bài viết này, đặc biệt là những người viết vào những năm 1990 và 2000, cũng rất quan trọng đối với việc hình thành các học giả tại trung tâm của đời sống học thuật chính thức tại Việt Nam. Điều này có thể được nhìn thấy trong một vài cách. Đầu tiên, một số tác giả tương phản với những gì được cho là đã viết bởi học giả quốc tế với những gì các học giả chính thống ở Việt Nam đã viết, và về cơ bản là chế giễu các học giả ở Việt Nam vì thiếu cập nhật. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong các cuộc thảo luận tiếp theo, có những vấn đề nghiêm trọng về cách các tác giả này hiểu và sử dụng tư liệu quốc tế. Thứ hai, họ có một yếu tố quan trọng của tri thức quốc gia hiện đại ở Việt Nam, phê phán cách tiếp cận trung tâm được cho là của Trung Quốc của các học giả thời thuộc địa - và cũng chỉ trích các học giả chính thống ở Việt Nam vì đã không đi quá xa khỏi mô hình đó bằng cách không nhận ra người Việt đóng góp cho nguồn gốc của nền văn minh Đông Á. Tuy nhiên, như chúng ta cũng sẽ thấy dưới đây, trong khi lập luận rằng tổ tiên của người Việt Nam là những người sáng lập các khía cạnh khác nhau của nền văn minh Đông Á thực sự vượt xa quan điểm thời thuộc địa khi thấy Việt Nam là một Tiểu Trung Quốc, thì bằng chứng cho lập luận này là vô cùng có vấn đề. Như vậy, trong khi "lịch sử thay thế" này, không dựa trên bằng chứng đáng tin, nó lại có cơ sở vững chắc trong các động lực xã hội đương đại và nó có thể phát triển một phần nhờ những động lực đó. Trong khi một số tác giả được thảo luận trong bài viết này chỉ trích công khai các nhà sử học "quốc doanh", lại không có phản hồi từ các nhà sử học đó. Đó có thể là trường hợp học giả chính thống không thấy cần phải trả lời các nhà sử học tay ngang, nhưng thực tế là các tác giả được thảo luận trong bài viết này đang hoạt động trên Internet so với các nhà sử học chính quy không có nghĩa là những ý tưởng mới về tiền sử Việt Nam không thể tồn tại và giữ vai trò ngày càng trung tâm trong đời sống Việt Nam hiện nay. Như vậy, tôi đề cập đến câu chuyện về tiền sử người Việt mà các tác giả này đã tạo ra như lịch sử "bên lề" của Nhật Bản để biểu thị rằng nó đã xuất hiện bên ngoài thế giới của các nhà sử học chính thống. Tuy nhiên, thực tế là những ý tưởng này hiện đang được thảo luận ở những địa điểm trung tâm như Đền thờ văn học, chỉ ra trung tâm của "sử học bên lề" này trong cuộc sống của một số người Việt ngày nay.
Trong bài báo này, chúng tôi sẽ theo dõi hành trình mà những ý tưởng tạo nên lịch sử lề trái này đã thực hiện. Đó là một câu chuyện về cách các ý tưởng từ những "tay ngang" của nghề sử đã dần dần chiếm vị trí trung tâm trong một số phân khúc của xã hội Việt Nam ngày nay. Chúng tôi bắt đầu với những bài viết của Lương Kim Định.
LƯƠNG KIM ĐỊNH
Sinh năm 1914 tại tỉnh Nam Định ở miền bắc Việt Nam, Kim Định, như ông thường được nhắc đến, đã trở thành một linh mục Công giáo và sau đó vào cuối những năm 1940 hành trình đến Pháp, nơi ông đã dành thập kỷ tiếp theo để lấy bằng về triết học và Hán học. Kim Định sau đó trở về Việt Nam làm việc ở nhiều trường đại học miền Nam vào những năm 1960 và đầu những năm 1970 trước khi di chuyển đến Mỹ vào cuối cuộc chiến. Trong thời gian Kim Định làm việc ở miền Nam Việt Nam, ông đã xuất bản rộng rãi (Lương Kim Định n.d.).
Các tác phẩm mà Kim Định viết đúng ra không phải là lịch sử nhưng chúng chứa rất nhiều thông tin lịch sử và Kim Định đã tìm cách giáo dục độc giả của mình về quá khứ. Những gì ông cố gắng phổ biến là một triết lý mới. Viết vào những năm 1960 và đầu những năm 1970, Kim Định sợ rằng chủ nghĩa duy vật của phương Tây và chủ nghĩa Mác của Bắc Việt Nam có thể áp đảo cả xã hội miền Nam Việt Nam nếu một triết lý phù hợp cho đất nước không được phát triển. Khi tạo ra một triết lý mới, Kim Định đã cố gắng tìm cách nắm lấy logic phương Tây trong khi vẫn duy trì các khía cạnh của văn hóa truyền thống. Để đơn giản hóa một lập luận phức tạp được phát triển qua một loạt các ấn phẩm, Kim Định đã làm điều này trước tiên bằng cách lập luận rằng văn hóa Đông Á có chứa những ý tưởng khoa học, hợp lý. Ông lưu ý, ví dụ, như những ý tưởng có thể được tìm thấy trong Kinh Dịch, một trong những văn bản lâu đời nhất ở Đông Á và là một tác phẩm nền tảng cho triết học phương Đông.
Ý tưởng này mà người ta có thể tìm thấy logic trong Kinh Dịch đã được thúc đẩy lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 20 bởi trí thức cải cách Trung Quốc và nhà giáo dục Hồ Thích và sau đó được nhiều trí thức ở Đông Á khuyến khích. Tuy nhiên, Kim Định đã mang đến một diễn giải mới cho cuộc thảo luận này bằng cách lập luận rằng Kinh Dịch đã được tạo ra bởi tổ tiên của người Việt nam. Để đưa ra quan điểm này, Kim Định đã sử dụng các khái niệm một cách sáng tạo từ lĩnh vực nhân học cấu trúc mới để cho rằng các văn bản đầu tiên của Việt Nam đã tiết lộ một cấu trúc ý nghĩa sao chép các khái niệm trong Kinh Dịch (Lương 1973). Không đưa ra bằng chứng, ông cũng lập luận rằng đó là vì tổ tiên của người Việt Nam đã tạo ra Kinh Dịch khi họ là cư dân đầu tiên của lục địa châu Á và sau đó, người du mục Trung Quốc đã đánh đuổi dân nông nghiệp Việt Nam cho đến khi cuối cùng họ đến được đồng bằng sông Hồng. Trong quá trình đó, người Trung Quốc đã chiếm đoạt Kinh Dịch và tuyên bố nó là của riêng họ và là một phần của truyền thống của Nho giáo (Lương 1970: 51-63).
Trong khi Kim Định sử dụng sáng tạo các ý tưởng từ nhân học cấu trúc để đưa ra những lập luận như vậy, ông cũng đã phát triển một khái niệm về lịch sử của riêng mình được gọi là huyền sử. Các ghi chép bằng văn bản đầu tiên của người Việt về thời cổ đại đã không được ghi lại cho đến thế kỷ 15 sau Công nguyên và chứa thông tin mà các học giả cận đại coi là vô lý và các học giả thực dân Pháp cũng coi đó là huyền thoại. Tuy nhiên, đối với Kim Định, những tài khoản này đại diện cho một loại lịch sử mơ hồ, kết hợp cả thơ mộng cường điệu với tài liệu lịch sử thực tế mà các sử gia có thể giải thích ý nghĩa  (Lương 1970: 26 -36). Những ý tưởng của Kim Định, đã truyền cảm hứng cho một số người Việt Nam, nhưng chúng rất khó để ghi lại, đặc biệt là lập luận của ông rằng tổ tiên của người Việt Nam là những người đầu tiên sống ở lục địa châu Á, rằng họ là các nhà nông nghiệp trước người Hán, rằng họ đã tạo ra Kinh Dịch, và họ bị đẩy về phía nam đến đồng bằng sông Hồng bằng cuộc xâm lược của người Hán.
Đây cũng là những vấn đề mà người ở Việt Nam dường như không nghĩ nhiều sau năm 1975 vì sách Kim Định bị cấm cùng với nhiều tác phẩm khác đã được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông tiếp tục xuất bản ở Hoa Kỳ cho đến khi qua đời vào năm 1997, và người Việt Nam ở hải ngoại tiếp tục quen thuộc với tài khoản lịch sử ban đầu của ông. Do đó, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi nó đến từ nơi định cư mà một phiên bản cập nhật, và khoa học hơn, của phiên bản Kim Định về lịch sử ban đầu đã xuất hiện vào đầu thế kỷ 21. Người đề xuất phiên bản khoa học hơn của mô hình Kim Định này là một người Việt nhập cư vào Úc tên là Cung Đình Thanh.
CUNG ĐÌNH THANH
Được sinh ra ở tỉnh Thái Bình miền Bắc Việt Nam vào năm 1937. Ông phải di cư vào Nam Việt Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève, như tên của ông xuất hiện trong một danh sách các sinh viên lấy bằng tú tài năm 1956 tại Sài Gòn (Công báo Việt Nam Cộng Hòa 1957) .2 Sau đó, ông đã nhận được bằng cấp về luật cũng như bằng cấp về quản trị và lãnh đạo từ Đại học Connecticut. Khi trở về Nam Việt Nam, Cung Đình Thanh trở thành luật sư của Tòa án Kháng cáo và cũng giảng dạy tại Viện Hành chính Quốc gia. Sau đó, ông chuyển sang theo đuổi giáo dục và văn hóa, phục vụ như một tổng giám đốc của một số trường học, chỉnh sửa tạp chí Phát triển văn hóa và tham gia vào các tổ chức văn hóa khác nhau. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, Cung Đình Thanh đã ngừng tham gia vào tất cả các hoạt động này.
Năm 1989, ông di cư sang Úc và từ nhà mới ở New South Wales, ông dần dần hoạt động trở lại. Ông đã thành lập một tổ chức mang tên Cơ quan phát triển quốc tế Việt Nam, được dành riêng để thúc đẩy sự phát triển văn hóa Việt Nam. Con đường chính để thực hiện điều này là thông qua ấn phẩm in và trực tuyến của một tạp chí tên là Tư tưởng mà Cung Đình Thanh xuất bản từ năm 1999 cho đến khi ông qua đời năm 2006 (Ai, người ở Việt Nam 1974; Cung Đình Thanh n.d.). Trên số đầu tiên của Tư tưởng có một bức thư ngỏ của Cung Đình Thanh tên là Chim gọi đàn. Cung Đình Thanh bắt đầu bài tiểu luận này bằng cách lưu ý rằng ông rất vui khi thấy ý tưởng được thể hiện trong các hình thức truyền thông khác nhau vào thời điểm đó, rằng văn hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc lật đổ độc đoán và trong việc giải phóng các ý tưởng để mọi người có thể đóng góp tối đa của họ để phát triển quê hương. Không rõ trong số báo đó chính xác Cung Đình Thanh đã đề cập đến điều gì, nhưng khi việc sử dụng Internet ngày càng lan rộng trong những năm 1990, chắc chắn có nhiều thông tin liên lạc hơn, ít nhất là giữa những người Việt ở nước ngoài, và khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Việt Nam mở cửa ra thế giới bên ngoài, một trong những chủ đề được thảo luận rõ ràng là khả năng cai trị Cộng sản ở Việt Nam có thể chấm dứt.
 Cung Đình Thanh tuyên bố trong bài tiểu luận này rằng một ngày như vậy không còn xa, nhưng điều này đặt ra một vấn đề lớn khi xã hội Việt Nam thiếu một sự thay thế rõ ràng cho hệ tư tưởng Mácxít. Trong bài Chim gọi đàn, Cung Đình Thanh kêu gọi những linh hồn có cùng chí hướng phát triển những ý tưởng có thể làm nền tảng cho một xã hội mới của Việt Nam, một xã hội có thể phát triển mạnh trong thế giới toàn cầu hóa. Để làm được điều này, Cung Đình Thanh đã đề xuất rằng một lịch sử tư tưởng Việt Nam cần được viết ra, và ông đã trình bày một phác thảo của một cuốn sách như vậy trong bài tiểu luận này. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng sẽ cần có thời gian để tạo ra một tác phẩm như vậy và ông kêu gọi độc giả của mình hỗ trợ bằng cách chia sẻ ý tưởng và tri thức của họ (Cung 1999a) .3
Đàn chim đã nghe tiếng gọi, vì vấn đề thứ hai của Tư tưởng chứa đựng sự đóng góp của người đọc dưới dạng bản dịch tiếng Việt của một bài báo mà nhà nhân chủng học người Mỹ, trong Hội Địa lý Quốc gia năm 1971 (Solheim 1999), tiêu đề "Ánh sáng mới trên một miền quên lãng." Chủ đề chính của bài viết này đã được tóm tắt ngắn gọn trong một chú thích cho một trong những bức ảnh đi kèm trong đó nêu rõ rằng, tác giả, được ca ngợi là ‘Mr. Đông Nam Á’, bởi những người tiền sử, trong những trang này, lý thuyết cách mạng của ông mà người Đông Nam Á có thể là người đầu tiên làm đồ gốm, mài và đánh bóng các dụng cụ bằng đá, trồng lúa, và đúc đồng (Solheim 1971: 331). Điều này, tuy nhiên, hóa ra không đúng. Công trình khảo cổ sau đó đã chứng minh rằng cuộc cách mạng lý thuyết mà Solheim đề xuất là không chính xác, và vào cuối những năm 1970 các nhà khảo cổ và  tiền sử phương Tây nhận ra điều này.
Tuy nhiên, thực tế là một học giả quốc tế đã đưa ra những tuyên bố khoa học, chỉ ra rằng nông nghiệp có thể đã xuất hiện lần đầu tiên ở Đông Nam Á rất quan trọng đối với Cung Đình Thanh. Cũng quan trọng với Cung Đình Thanh, như chúng ta sẽ thấy trong cuộc thảo luận sau đây, việc Solheim sử dụng một thuật ngữ được kết nối với Việt Nam để gắn nhãn những gì ông đề xuất là bằng chứng của các xã hội thời kỳ đầu ở Đông Nam Á, đó là Hoabinhian. Thực chất những gì Cung Đình Thanh đã làm là kết nối các tuyên bố khác nhau mà Solheim đã đưa ra để tuyên bố rằng người dân Việt Nam là những người đầu tiên trồng lúa. Để hiểu làm thế nào ông ấy làm điều này, trước tiên chúng ta cần đạt được một sự hiểu biết về chính xác những gì một số nhà khảo cổ học đã phát hiện vào những năm 1960 và chính xác những gì Solheim đã nói về những phát hiện của họ. Solheim tuyên bố trong Hội Địa lý Quốc gia rằng Đông Nam Á có thể là nơi thực vật được thuần hóa lần đầu tiên trước đó đã được đề xuất vào năm 1952 bởi nhà địa lý người Mỹ Carl O. Sauer trong sách Nguồn gốc và phân tán nông nghiệp của ông.
Sauer đã đưa ra đề xuất này dựa trên suy đoán chứ không phải bằng chứng khảo cổ học. Ví dụ, ông tuyên bố rằng: Tôi đã đề xuất Đông Nam là cái nôi của nông nghiệp sớm nhất châu Á. Nó đáp ứng các yêu cầu về đa dạng vật lý và hữu cơ cao, khí hậu ôn hòa với gió mùa, tạo ra mưa lớn và thời kỳ khô hạn, với nhiều vùng nước thuận tiện cho đánh cá, vị trí tại trung tâm của Thế giới cũ để liên lạc bằng nước hoặc bằng đường bộ. Không những vậy, diện tích cũng có vị trí tương đương hoặc được trang bị tốt như nhau cho sự phát triển của văn hóa nuôi cá (Sauer 1952: 24 -25). Nói cách khác, Sauer lần đầu tiên đưa ra một mô hình khái niệm cho bối cảnh môi trường nơi ông tin rằng nông nghiệp nên đã xuất hiện ban đầu, và sau đó ông tìm kiếm một nơi trên hành tinh phù hợp với mô hình đó và tìm thấy Đông Nam Á. Ông không thực sự tìm thấy bằng chứng khảo cổ học ủng hộ ý kiến của mình.
Tuy nhiên, vào thập niên 1960, hai học sinh của Solheim, Chester Gorman và Donn Bayard, ban đầu nghi ngờ rằng họ có thể đã tìm thấy bằng chứng khảo cổ như vậy ở Thái Lan khi họ điều tra hai địa điểm khảo cổ: Non Nok Tha ở phía Đông Bắc Thái Lan và hang Ma ở phía Tây Bắc Thái Lan. Tại Non Nok Tha, Bayard đã báo cáo rằng người ta đã tìm thấy hạt gạo mà anh ta tin rằng phải có ít nhất 3.500 BCE (Bayord 1970: 135). Trong khi đó, tại Hang Ma Gorman tìm thấy phần còn lại của cây họ đậu mà ông tuyên bố có thể đã được thuần hóa chứ không phải được thu thập, và có niên đại khoảng 7.000 BCE (Gorman 1969: 672). Trong bản báo cáo về cuộc khai quật của mình, Gorman gọi địa điểm Hang Ma là thuộc về Hoabinhian. Thuật ngữ này, từ Hoabinhian, đến từ Hòa Bình, tên của một tỉnh ở miền bắc Việt Nam, nơi những năm 1920, nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện ra bằng chứng về sự cư trú sớm của con người. Đặc điểm quan trọng nhất của địa điểm khảo cổ này là phần còn lại của các công cụ bằng đá (Colani 1927). Sau đó, vào năm 1932, một cuộc họp những nhà tiền sử đã được tổ chức tại Hà Nội, nơi thuật ngữ Hoabinhian chỉ được dùng để chỉ những khu định cư đầu tiên của con người được phân biệt bằng cách sử dụng các dụng cụ bằng đá đẽo trên toàn hòn đá (Matthews 1966: 86). Một đặc điểm xác định khác của địa điểm Hòa Bình là không có bằng chứng về nông nghiệp, và do đó, thuật ngữ Hoabinhian sau đó được sử dụng để chỉ các địa điểm Mesolithic. Thời kỳ Mesolithic là giai đoạn trung gian giữa thời đại Cổ sinh và Đá mới và kéo dài từ khoảng 15.000 đến 5.000 BCE, thời điểm mọi người vẫn tham gia săn bắn và hái lượm hơn là nông nghiệp.
Cây họ đậu mà Gorman tìm thấy ở Hang Ma, một địa điểm cổ điển khác của Hoabinhian, cùng với các mẫu lúa mà Bayard tìm thấy ở Non Nok Tha, đã dẫn Solheim đưa ra một số giả thuyết táo bạo. Trong bài viết của mình trên National Geographic năm 1971, Solheim đã nói rằng ông đã đồng ý với Sauer rằng việc thuần hóa thực vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một thuật ngữ Sauer chưa sử dụng), ở đâu đó ở Đông Nam Á, và anh ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng điều này đã bắt đầu sớm nhất là vào năm 15.000 trước Công nguyên (Solheim 1971: 339). Solheim tuyên bố thêm rằng thay vì đó là trường hợp thành tựu công nghệ đã di chuyển về phía nam vào Đông Nam Á trong quá khứ, như được nhiều người tin, thì sự thật có thể là điều ngược lại. Trích dẫn: "Việc tái thiết truyền thống của tiền sử Đông Nam Á đã có sự di cư từ phía bắc mang lại sự phát triển quan trọng về công nghệ cho Đông Nam Á. Thay vào đó, tôi đề nghị rằng nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới đầu tiên (nghĩa là thời kỳ đồ đá muộn) của Bắc Trung Quốc, được gọi là Yangshao, phát triển từ một nền văn hóa nhóm Hoabinhian di chuyển về phía bắc từ phía bắc Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ sáu hoặc thứ bảy trước Công nguyên (Solheim 1971: 339).
Cuối cùng, một năm sau, vào năm 1972, Solheim đã xuất bản một bài báo trên tạp chí Khoa học Mỹ có tên là Cách mạng nông nghiệp sớm hơn, trong đó ông tuyên bố rằng “Cuộc cách mạng nông nghiệp, được cho là có đầu tiên xảy ra khoảng 10.000 năm trước đây trong xã hội thời kỳ đồ đá mới nổi của Trung Đông, dường như đã đạt được một cách độc lập hàng ngàn dặm ở Đông Nam Á (Solheim 1972: 34).
HÒA BÌNH
Trong khi đây là những tuyên bố thú vị, một lần nữa, cuối cùng họ đã chứng minh là sai. Như nhà khảo cổ học Miriam Stark đã ghi nhận (2014) trong một bài tiểu luận về Solheim, các cuộc điều tra dựa trên lĩnh vực tiếp theo, các phân tích của các sinh viên của ông và các cộng sự thân cận đã không ủng hộ rằng Đông Nam Á có nông nghiệp hoặc thuần hóa thực vật sớm nhất. Thật vậy, vào cuối những năm 1970, các học giả khác nhau đã xác định rằng các mẫu lúa mà Gorman và Bayard tìm thấy là lúa hoang, chứ không phải là lúa trồng, (Yen 1980; 1982). Ngày nay, sự đồng thuận về mặt học thuật giữa những người tiền sử trái ngược với những gì Solheim đề xuất, khi các chuyên gia cho rằng các công nghệ như trồng lúa và luyện kim đều di chuyển xuống phía Nam vào Đông Nam Á (Castillo 2011; Higham et al. 2015).
Trong khi Solheim đưa ra một số dự đoán táo bạo không thành hiện thực, thì những tuyên bố của ông từ đầu những năm 1970 đã gây ấn tượng rõ ràng với Cung Đình Thanh khi ông xuất bản một bài báo vào năm 1999 trong số thứ tư của Tư tưởng, nơi ông đã sử dụng thông tin về những phát hiện ban đầu của Gorman và những phát biểu sau đó của Solheim Lần để tranh luận về sự tồn tại của trồng lúa tại một địa điểm ở Hòa Bình tỉnh có tên là hang Xóm Trại. Không trích dẫn nơi anh lấy thông tin của mình, Cung Đình Thanh tuyên bố trong bài viết này rằng có những hạt gạo được tìm thấy tại hang  Xóm Trại, giống như những mẫu lúa mà Gorman đã tìm thấy ở Hang Ma và Gorman đã đề xuất ban đầu cho thấy bằng chứng về việc thuần hóa (một đề xuất, như chúng ta đã thấy, đã bị mất uy tín vào cuối những năm 1970). Cung Đình Thanh nói rằng những gạo này các mẫu từ hang có niên đại khoảng 3.500 BCE. Sau đó, ông ngụ ý rằng có một truyền thống trồng lúa lâu đời hơn tại các địa điểm Hoabinhian bằng cách trích dẫn bài báo của Solheim, trên Hội Địa lý Quốc gia. Điều đó, tôi đồng ý với [Carl O.] Sauer rằng việc thuần hóa thực vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một lần nữa, một thuật ngữ mà Sauer không sử dụng), ở đâu đó ở Đông Nam Á. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu điều này đã bắt đầu sớm nhất là 15.000 BC (Cung 1999b; Solheim 1971: 339).
Nếu lúa được trồng ở Đông Nam Á vào năm 15.000 trước Công nguyên, thì điều đó sẽ sớm hơn nhiều so với bằng chứng cho việc trồng lúa ở Trung Quốc, và Cung Đình Thanh cố gắng chứng minh rằng đây là một kỹ thuật thực sự lan truyền từ thế giới Hoabinhian về phía bắc. Khi đưa ra quan điểm này, Cung Đình Thanh đã trích dẫn các nghiên cứu về việc trồng lúa ở Trung Quốc xuất bản vào những năm 1970 và đầu những năm 1980, như một chương sách năm 1983 về nguồn gốc của việc trồng ngũ cốc và cây họ đậu ở Trung Quốc của Zhang Deci (ChangTe-Tzu). Một nhà khoa học nông nghiệp và môi trường tại Viện nghiên cứu Lúa ở Philippines, Zhang đã làm việc với giả định rằng chi (Orzya) mà loài lúa hiện tại phát triển có nguồn gốc ở khu vực ngày nay là Nam Á, một lý thuyết đã bị thách thức bởi các nhà khoa học di truyền bây giờ cho rằng Orzya đã tiến hóa ở nhiều địa điểm từ một tổ tiên hoang dã chung (Kovach et al. 2007). Trong chương sách năm 1983, cũng như trong một bài viết trước đó vào năm 1976, Zhang đã thảo luận về các tuyến đường khác nhau bằng cách mà ông tranh luận hai loài phụ  của Orzya, Orzya sativa Japonica và Orzya sativa Indica, lan sang Trung Quốc. Trong trường hợp của Orzya sativa Indica, Zhang nói rằng họ hàng hoang dã của loài phụ này ... có thể đã được mang đến từ Đông Dương và phân tán dọc theo bờ biển cho đến Hồ Bắc (Chang 1983: 72).
Sau đó, ông tuyên bố rằng, quá trình thuần hóa thực sự có lẽ lần đầu tiên diễn ra ở Trung Quốc (Chang 1983: 73, xem thêm Chang 1976a: 143 -145). Đây là một ý tưởng mà Zhang đã bày tỏ trước đó, nêu trong một bài báo năm 1976 rằng, các kỹ thuật văn hóa như vũng nước và cấy ghép được phát triển đầu tiên ở miền bắc và miền trung Trung Quốc và sau đó được truyền đến Đông Nam Á. 1976b: 425). Đó cũng là một ý tưởng được chấp nhận rộng rãi vào những năm 1990 và được trình bày ngay cả trong các tạp chí nổi tiếng như Khoa học (Normile 1997: 309). Do đó, Zhang Deci lập luận rằng các giống lúa hoang lan sang Trung Quốc, chứ không phải việc trồng lúa nước bắt đầu từ bên ngoài, rồi lan sang Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm sau này chính xác là những gì Cung Đình Thanh tuyên bố dựa trên cách đọc (sai) của ông về  Zhang. Cung Đình Thanh thực hiện điều này bằng cách đầu tiên làm việc với Zhang, nhưng ông đã bỏ qua điểm quan trọng mà Zhang đã viết về sự lây lan của lúa hoang thay vì trồng lúa nước. Khi làm như vậy, Cung Đình Thanh biến đổi lập luận của Zhang rằng lúa hoang lan ra phía bắc từ Đông Dương về phía lưu vực sông Dương Tử thành một lập luận rằng tập quán canh tác lúa nước lan rộng trên cùng một khu vực. Trong quá trình đó, Cung Đình Thanh cũng trích dẫn sai Zhang và thêm thắt thông tin lịch sử mới lạ. Để trích dẫn, Cung Đình Thanh nói rằng Zhang Deci đã khẳng định rằng loại gạo này (Orzya sativa Indica) đã được mang (đến Trung Quốc) từ Indonesia (sic, Zhang nói 'Đông Dương') và nó được phát triển dọc theo bờ biển từ Hà Bắc (sic, Zhang đã đề cập đến 'Hồ Bắc') đến khu vực phía nam sông Yangzi quanh Thượng Hải, đi qua tuyến đường quan trọng của tỉnh Chiết Giang, nơi mà sau này, trong thời Chiến Quốc, là nơi Vương quốc Yue (Việt) dưới thời vua Việt Câu Tiễn tọa lạc. Cung Đình Thanh tiếp tục nói rằng, như đã trình bày ở trên, một trong những trung tâm lúa nước đầu tiên [trồng trọt] được nhân loại biết đến là Hòa Bình, hiện ở Việt Nam. Do đó, trồng lúa nước đã có mặt ở vùng này 10.000 năm trước (Cung 1999b).
Kết luận mà Cung Đình Thanh đạt được không dựa trên bằng chứng. Vào thời điểm ông viết bài báo của mình vào năm 1999, những suy đoán của Gorman và Solheim về việc thuần hóa cây trồng sớm ở Đông Nam Á từ lâu đã bị mất uy tín và Cung Đình Thanh chỉ đơn giản là đã hiểu sai sự thật rằng Zhang Deci đã nói về sự lây lan của lúa hoang ở phía bắc trong quá khứ thay vì lúa nước thuần hóa. Thay vào đó, những gì Cung Đình Thanh làm trong bài viết này là tập hợp một lập luận dựa trên mối liên hệ giữa một số tên và tuyên bố xuất hiện trong các tác phẩm mà ông đã trích dẫn, đúng hơn bằng chứng học thuật thực tế. Cụ thể hơn, điều quan trọng đối với Cung Đình Thanh là Gorman đã tìm thấy hạt gạo tại Hang Thần, Solheim nói rằng thực vật trong vùng có thể đã được thuần hóa từ 15.000 BCE, cả Gorman và Solheim đều sử dụng thuật ngữ Hoabinhian và Zhang Deci đã nêu rằng một cách mà gạo lan sang Trung Quốc là về phía bắc dọc theo bờ biển từ Đông Dương. Điều không quan trọng đối với Cung Đình Thanh là hạt gạo mà Gorman tìm thấy hóa ra là hoang dã chứ không phải thuần hóa, giả thuyết của Solheim không bao giờ được chứng minh là đúng, rằng Gorman và Solheim đã sử dụng thuật ngữ Hoabinhian để chỉ các địa điểm ở Thái Lan, ở tỉnh Hòa Bình Việt Nam và Zhang Deci đã nói đến sự lan rộng về phía bắc của lúa hoang mà không phải lúa nước. Nói cách khác, bằng cách tập trung vào một số từ nhất định và báo cáo, Cung Đình Thanh đã tạo ra một lập luận rằng lúa đã được trồng ở Hòa Bình từ 10.000 năm trước và sau đó đã lan ra phía bắc đến đồng bằng sông Dương Tử.
Điều quan trọng ở đây là cách Cung Đình Thanh biến đổi thuật ngữ Hoabinhian, một thuật ngữ được các học giả quốc tế sử dụng theo nghĩa chung, thành một cách giới thiệu cụ thể hơn, thành Hòa Bình Việt Nam. Như đã đề cập ở trên, Hoabinhian là một thuật ngữ được quốc tế chấp nhận đề cập đến các vật liệu còn sót lại của những người săn bắn thời Mesolithic, những người đã sử dụng các dụng cụ bằng đá và sống ở một khu vực địa lý kéo dài từ tỉnh Vân Nam, ngày nay là Trung 0Qu0ốc đến đảo Sumatra của Indonesia. Hơn nữa, thực tế là một số vật liệu nhất định được dán nhãn là Hoinhinh chỉ là bởi vì những mẫu vật đầu tiên của các công cụ bằng đá làm nổi bật văn hóa khảo cổ này đã được tìm thấy ở tỉnh Hòa Bình Việt Nam. Đến nay, các nhà khảo cổ học quốc tế chưa bao giờ xác định được một trung tâm của con người hay một nơi sinh ra của người văn hóa Hoabinhian. Cung Đình Thanh, tuy nhiên, thấy rõ Hòa Bình ở Việt Nam là trung tâm của mọi thứ Hoabinhian mà các học giả quốc tế đề cập bất kể nơi nào ở Đông Nam Á mà họ đang đề cập đến. Làm như vậy, Cung Đình Thanh không chỉ tin rằng lúa nước đã có mặt ở Hòa Bình 10.000 năm trước, nhưng điều đó có nghĩa là Hòa Bình có thể là một trong ba cái nôi trồng trọt trên thế giới , cùng với Nam Mỹ và Trung Đông, với Nam Mỹ cung cấp cho thế giới sắn, Trung Đông, lúa mì và Hòa Bình, lúa nước (Cung 1999b). Quan điểm Hòa Bình như một trung tâm văn minh là một trong những học giả được thảo luận dưới đây đã duy trì tương tự.
Do đó Cung Đình Thanh đã xem Hòa Bình không chỉ là trung tâm của thế giới Hoabinhian cổ đại, mà còn là nơi sinh của nghề trồng lúa nước. Sau khi thành lập công việc này, thông qua việc đọc sáng tạo các tác phẩm của các học giả quốc tế, Cung Đình Thanh tìm cách giải thích những yếu tố lịch sử nào sẽ cho phép kiến thức về canh tác lúa nước lan rộng từ Hòa Bình đến những nơi xa như đồng bằng sông Dương Tử . Làm điều này trong một bài viết khác ở số thứ ba của Tư tưởng, trong đó ông tìm cách kết nối việc thuần hóa thực vật ở Hòa Bình và một cuộc di cư về phía bắc của những người ở xa khu vực đó với một mực nước biển dâng cao trong quá khứ. Cụ thể, ông lập luận rằng có một xu hướng chung giữa loài người là di chuyển về vùng đất thấp và hướng ra biển. Do đó, sớm nhất là 30.000 năm trước, ông lập luận, người Việt cổ đã sống ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Tuy nhiên, sau đó, mực nước biển bắt đầu tăng từ 20.000 đến 17.000 năm trước vào cuối kỷ Băng hà cuối cùng. Điều này, Cung Đình Thanh lập luận, thúc đẩy Việt cổ xưa trở lại chân đồi và núi, nơi họ buộc phải bắt đầu tham gia vào việc trồng cây. Ông nói rằng điều này dẫn đến sự xuất hiện của văn hóa Hòa Bình. Cung Đình Thanh cũng lập luận rằng mực nước biển dâng cao buộc người dân 8.000 năm trước Công nguyên phải di cư xa hơn nữa, và đây là nguyên nhân dẫn đến việc trồng lúa nước đến các nơi ở Thái Lan và đồng bằng sông Dương Tử (Cung 1999c).
TRI THỨC QUỐC TẾ
Cung Đình Thanh phụ thuộc vào tri thức của các học giả không phải là người Việt Nam, chỉ ra một khía cạnh quan trọng của không chỉ các tác phẩm của ông mà cả các học giả Việt Nam khác về cùng chủ đề này - sự phụ thuộc vào ý tưởng về sự vượt trội của tri thức quốc tế. Đây là một điểm xuất hiện rõ ràng trong một bài báo được xuất bản trực tuyến năm 2001 về cùng chủ đề nông nghiệp ở Hòa Bình của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh, một bác sĩ y khoa ở Canada.
Sinh ra ở tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh có bằng y khoa ở Paris năm 1965. Cô dạy một thời gian tại Đại học Moncton ở New Brunswick, Canada, nhưng sau đó trở về Nam Việt Nam, nơi cuối cùng cô thành lập phòng khám bệnh. Cô vẫn ở đó sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Một ghi chú tiểu sử ngắn gọn trên Internet nói rằng cô ấy sau đó đã bị giam cầm ba năm vì chống lại chế độ tham . Cuối cùng, vào năm 1988, Nguyễn Thị Thanh đã di cư đến Canada, nơi cô đã nhận bằng sáng chế cho một phương pháp mà cô đã phát triển để điều trị ung thư và nhiễm virus bằng thuốc diệt nấm (Vơ 2002). Năm 2001 Nguyễn Thị Thanh đã xuất bản một bài báo có tên là Việt Nam, Trung tâm lâu đời nhất về nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá trên thế giới trên một trang web của Cơ quan Thông tấn Công giáo Việt Nam, khi đó được đặt tại Huntington Beach, California.
Trong cuộc thảo luận trước đây, Nguyễn Thị Thanh theo mô hình mà Lương Kim Định đặt ra hàng thập kỷ trước, khi tưởng tượng rằng tổ tiên của người Việt Nam ban đầu cư ngụ trong khu vực ngày nay là Trung Quốc và rằng người Hán  sau đó di cư vào, đã đưa tổ tiên của người Việt Nam về phía nam và chiếm đoạt kiến ​​thức về nông nghiệp của họ. Trong tranh luận rằng tổ tiên của người Việt đã biết cách trồng cây, Nguyễn Thị Thanh, cũng như Cung Đình Thanh, chuyển sang các tác phẩm của Wilhelm Solheim, và trích dẫn một câu trích dẫn dài từ một bài báo năm 1967 trên tờ Khoa học, nơi Solheim cũng đã nói về những gì các học giả có thể đưa ra để kết luận vào một ngày nào đó tương lai. Để trích dẫn, Solheim đã viết rằng: "Tôi nghĩ hoàn toàn có thể khi chúng tôi phục hồi thêm dữ liệu từ Đông Nam Á, chúng tôi sẽ thấy rằng việc thuần hóa cây trồng đầu tiên ở thế giới đã đạt được bởi các dân tộc Hoabinhian vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên ... rằng miền Bắc và miền Trung Đông Nam Á có nền văn hóa tiến bộ trong đó đá mài và đánh bóng đá đầu tiên ở châu Á, nếu không phải là thế giới, đã phát triển và làm gốm. Không chỉ thuần hóa thực vật đầu tiên, như đề xuất của Sauer, cung cấp ý tưởng về nông nghiệp cho phương Tây (và sau đó là một số cây trồng ở Ấn Độ và châu Phi) mà Đông Nam Á lục địa tiếp tục là khu vực tiến bộ ở Viễn Đông cho đến khi Trung Quốc đã thay thế viêc này trong nửa đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên (Solheim 1967: 889).
Ngoài nghiên cứu của Sauer, Solheim còn đề cập đến công việc của các học giả khác trong bài báo trên tờ Khoa học mà ông tuyên bố đã chỉ ra tầm quan trọng của Đông Nam Á là một nguồn tiềm năng mở đầu của nông nghiệp thế giới. Tuy nhiên, khi làm như vậy, Solheim nhấn mạnh những điểm phù hợp với lập luận của ông và bỏ qua thông tin không phù hợp. Chẳng hạn, ông tuyên bố rằng nhà thực vật học Xô Viết Nikolai Ivanovich Vavilov, dường như là nguồn chính thể hiện sự nguyên thủy của Đông Nam Á trong nguồn gốc của nhiều loài thực vật canh tác (Solheim 1967: 898). Trong khi đúng là Vavilov lập luận rằng một số cây trồng đã được thuần hóa ở Đông Nam Á, và liệt kê một số ví dụ từ đảo Đông Nam Á chứ không phải từ đất liền, ông cho rằng Trung Quốc là trung tâm nông nghiệp sớm nhất và lớn nhất thế giới và nguồn gốc của các loại cây trồng canh tác (Vavilov1951: 21, 283030).
Ông cũng lưu ý rằng Trung Quốc được Ấn Độ theo sau về số lượng loài được thuần hóa, nhưng Ấn Độ đặc biệt quan trọng bởi vì đây chắc chắn là nơi sinh ra của lúa gạo (Vavilov 1951: 29). Solheim cũng đề cập đến trong bài viết này công trình của Kwang-chih Chang (Zhang Guangzhi), một nhà khảo cổ học cho rằng bằng chứng về việc đốt rừng trên Đài Loan khoảng 11.000 năm trước có lẽ là vì mục đích nông nghiệp chặt và đốt, và người dân thời đó có thể đã trồng củ và quả. Chang cũng xác định một loại đồ gốm từ thời kỳ đó mà ông gọi là Đồ gốm văn thừng vì nó được đánh dấu bằng văn thừng (Chang 1972: 63). Solheim liên quan đồ gốm này với một loại đồ gốm văn thừng khác được tìm thấy ở một số địa điểm của Hoabinhian và nói rằng, liên kết với đồ gốm này và các công cụ bằng đá - công cụ vảy đơn lẻ điển hình của Hoabinhian sẽ đóng vai trò là một số lượng lớn vỏ sò và xương động vật. Sau đó, ông đưa ra kết luận rằng, vì vậy chúng tôi có một cuộc săn lùng-thu thập văn hóa với các công cụ tốt để làm việc trong đất, một tình huống đầy hứa hẹn cho việc thuần hóa cây cho củ (Solheim 1967: 898)
Trong khi tình hình tại các địa điểm Hoabinhian thực sự có thể đã hứa hẹn cho việc thuần hóa cây củ, Solheim cũng như các học giả nào khác không thực sự cung cấp bằng chứng về nông nghiệp Hoabinhian. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thanh tuyên bố rằng Sauer, Solheim, Chang và Vavilov đều công nhận rằng Đông Nam Á, với Việt Nam dẫn đầu, có một nền văn hóa tiền sử phát triển từ rất sớm, và đó là sự phát triển, nhanh chóng, sáng tạo và sôi động như vậy như không có ai từng được chứng kiến ​​ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. (Nguyễn 2001). Sau đó, bà tuyên bố cụ thể hơn về Hòa Bình rằng: Dựa trên khảo cổ học, mọi bí mật của thời tiền sử đã được tiết lộ. Và thế giới đã công nhận Việt Nam, tượng trưng cho văn hóa Hòa Bình, một cái tên đã được quốc tế hóa (Encyclopédie d hèArchéologie) và đã được thế giới xác nhận, là nơi có ngành nông nghiệp lúa nước và công cụ đá sớm nhất trên thế giới (Nguyễn 2001). Nói cách khác, đối với các học giả quốc tế, Nguyễn Thị Thành là trọng tài tối hậu của sự thật, và về cơ bản, cô tìm cách làm cho người Việt Nam xấu hổ không nhận ra những gì mà các học giả quốc tế đã nhận ra từ lâu.
Vấn đề ở đây, tất nhiên, là vào thời điểm Nguyễn Thị Thanh viết bài báo của mình, các học giả quốc tế từ lâu đã xác định rằng những phỏng đoán của Solheim và những người khác trong những năm 1950 và 1960 là không đúng. Do đó có một mâu thuẫn trong đồng thời chỉ ra chuyên môn của các học giả quốc tế và bỏ qua chuyên môn (cập nhật) của các học giả quốc tế. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó rõ ràng được chấp nhận đối với Nguyễn Thị Thành và những người khác vì mong muốn của họ để miêu tả một quá khứ huy hoàng cho người Việt Nam.
DI TRUYỀN HỌC
Trong tạp chí Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Cung Đình Thanh và một đồng nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp, đã giới thiệu cho độc giả một chủ đề mới thú vị - những hiểu biết mà khoa học di truyền đưa ra để nghiên cứu về sự tiến hóa và di cư của con người. Vào thời điểm đó, Nguyễn Đức Hiệp đang làm việc như một nhà khoa học khí quyển ở New South Wales, Úc. Sinh ra tại Việt Nam, Nguyễn Đức Hiệp đã đến Úc vào năm 1974 để học và nhận bằng tiến sĩ kỹ thuật từ Đại học Tây Úc năm 1978 và một tiến sĩ khác về kỹ thuật điện của Đại học Sydney năm 1985 (Nguyễn 2016; Nguyễn Đức Hiệp n.d.). Trong số Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Nguyễn Đức Hiệp lưu ý rằng có những khám phá nhất định có thể thay đổi đáng kể sự hiểu biết của chúng ta về quá khứ, chẳng hạn như khi vào thế kỷ 19, nhà phương Đông James Princep đã giải mã các sắc lệnh ban đầu được viết vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên bởi hoàng đế Ashoka, qua đó đưa ra một chương chưa từng được biết đến trong lịch sử Ấn Độ. Cái này, Nguyễn Đức Hiệp lập luận, đó chính xác là những gì khoa học di truyền hiện đang làm cho lịch sử di cư đầu tiên của con người (Nguyễn 2000).
Trong bài viết của mình, Nguyễn Đức Hiệp đã giới thiệu ngắn gọn với độc giả về công trình của L. Luca Cavalli-Sforza, một nhà khoa học di truyền tại Đại học Stanford, người đã xuất bản một cuốn sách và nhiều bài báo khác nhau vào những năm 1990 tiết lộ những gì khoa học di truyền có thể cho chúng ta biết về sự tiến hóa của loài người  (Cavalli-Sforza 1997, 1998; Cavalli-Sforza et al. 1994). Trong những năm 1990, có hai lý thuyết chính liên quan đến sự tiến hóa của loài người. Một lập luận rằng Homo Erectus đã di cư ra khỏi châu Phi khoảng một triệu năm trước và sau đó tiến hóa thành Homo sapiens ở các địa điểm khác nhau. Sự hỗ trợ chính cho lý thuyết này đến từ lĩnh vực khảo cổ học. Tuy nhiên, trong suốt thập niên 1990, lý thuyết này đã mất đi tính thuyết phục khi các học giả như Cavalli-Sforza chứng minh rằng khoa học di truyền cho thấy  những người bên ngoài lục địa châu Phi ngày nay đều là hậu duệ của một loài Homo sapiens di cư. ra khỏi châu Phi vào khoảng 70.000 năm trước.
Bằng chứng di truyền này ủng hộ lý thuyết chính khác về di cư của con người, lập luận rằng Homo sapiens đã tiến hóa ở châu Phi trước và sau đó di cư sang phần còn lại của thế giới, nơi cuối cùng họ đã thay thế con cháu của Homo erectus di cư sớm hơn. Trong khi thông tin di truyền này thuyết phục được nhiều người, có những học giả ở Trung Quốc tiếp tục cho rằng con người hiện đại đã tiến hóa độc lập ở Trung Quốc. Đáp lại yêu cầu đó, một nhóm các nhà khoa học di truyền do J. Y. Chu dẫn đầu đã kiểm tra giả thuyết này bằng cách kiểm tra bằng chứng DNA từ một số dân cư, chủ yếu là thiểu số ở Trung Quốc, Chu và đồng nghiệp của ông đặc biệt thú vị trong việc xem liệu có sự phân biệt giữa các dân tộc ở miền bắc và miền nam Trung Quốc không, và liệu thông tin này có thể chiếu sáng các mô hình di cư cổ đại. Kết quả nghiên cứu của họ đã được công bố vào năm 1998 (Chu và cộng sự) và Nguyễn Đức Hiệp đã dành phần lớn bài báo của mình để thảo luận về nghiên cứu này. Chu và các đồng nghiệp đã kết luận rằng dân số người Đông Á phải chịu sự đóng góp di truyền từ nhiều nguồn: Đông Nam Á, Altaic từ Đông Bắc Á và Trung Á hoặc Châu Âu. Tuy nhiên, họ không thể xác định được những đóng góp từ mỗi nguồn. Bộ dữ liệu chủ yếu đến từ các nhóm dân tộc thiểu số và do đó không đại diện đầy đủ cho toàn bộ dân cư Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã nhận ra sự khác biệt giữa dân cư miền bắc và miền nam Trung Quốc, và lập luận rằng dân miền nam Đông Á có thể có nguồn gốc từ dân ở Đông Nam Á di cư từ châu Phi, có thể qua Trung Á và dân cư  miền Bắc chịu ảnh hưởng di truyền mạnh mẽ từ các quần thể Altaic từ phía bắc.
Trong khi Chu và các đồng nghiệp của ông không thể xác định liệu dân số Altaic có di cư vào hoặc có nguồn gốc trong khu vực, khi kiểm tra bằng chứng di truyền của họ cùng với thông tin từ các nghiên cứu khác nhau về đặc điểm sọ và răng của dân cư trong khu vực, họ kết luận rằng có khả năng là tổ tiên của dân số nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ một dân số Đông Á có nguồn gốc từ Đông Nam Á, mặc dù dân số nói tiếng Altaic hiện tại không thể phủ nhận với những người đi sau đến từ Trung Á và Châu Âu (Chu et al. 1998: 11767).
LỊCH SỬ KHOA HỌC MỚI
Khi trình bày thông tin này, Nguyễn Đức Hiệp đã đưa ra nhận xét rằng thực tế là Hòa Bình là một trong những địa điểm khảo cổ lâu đời nhất ở Đông Nam Á, rằng do đó có bằng chứng thực sự và một nền tảng [để hỗ trợ cho ý tưởng rằng] người Hòa Bình di cư lên phía bắc và là tổ tiên của người dân Đông Á. (2000). Sau khi đưa ra quan điểm này, Nguyễn Đức Hiệp đã trích dẫn một số bài báo mà Cung Đình Thanh đã xuất bản trong các số trước đây của Tư tưởng đã lập luận về điểm này. Trong khi đó, trong cùng một vấn đề về Tư tưởng, Cung Đình Thanh đã đưa thông tin di truyền mới này vào bản phác thảo lịch sử ban đầu của mình trong một bài báo có tựa đề dựa trên những tiến bộ trong di truyền học (DNA), Có lẽ đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định nguồn gốc của Con người Việt Nam?" (Cung 2000). Trong bài viết này, Cung Đình Thanh chỉ ra rằng các nghiên cứu trước đây về nguồn gốc của người Việt Nam đã dựa vào các văn bản hoặc bộ xương. Trong thời kỳ thuộc địa, có những học giả người Pháp đã giải thích các văn bản cổ của Trung Quốc để cho rằng người Việt Nam đã di cư về phía nam vào đồng bằng sông Hồng từ các khu vực ở Trung Quốc, và có những học giả Việt Nam người đã theo cách giải thích này. Trong thời kỳ thuộc địa, cũng có những nhà khảo cổ người Pháp đầu tiên đã tìm cách xác định chủng tộc của những cư dân đầu tiên trong khu vực dựa trên các cuộc kiểm tra các hộp sọ đã được khai quật tại các địa điểm khảo cổ. Đây là một thực tế mà các học giả Việt Nam tiếp tục tham gia vào những năm 1980, và trong khi các học giả khác nhau đưa ra các lý thuyết khác nhau, tất cả đều xoay quanh ý tưởng rằng người Việt Nam là sản phẩm của một mức độ pha trộn giữa các chủng tộc diễn ra trong khu vực thời cổ đại, như giữa người Indonesian từ các đảo Đông Nam Á và người Mongoloid từ phía Bắc. Cung Đình Thanh thừa nhận rằng từ lâu ông đã cố gắng tìm hiểu quá khứ thông qua các cách tiếp cận này nhưng khoa học di truyền hiện chứng minh rằng cả hai quan điểm đó đều không chính xác, vì cả hai đều cho rằng có một số người miền Bắc ảnh hưởng đến người Việt, trong khi bằng chứng di truyền  chỉ ra điều ngược lại, rằng những người từ Đông Nam Á di cư về phía Bắc. Hơn nữa, Cung Đình Thanh nói rằng những người di cư về phía Bắc là thành viên của văn hóa Hòa Bình và rằng họ có thể đã di cư về phía Bắc chủ yếu từ chính khu vực Hòa Bình ở miền bắc Việt Nam, và họ chắc chắn đã đóng góp cho việc tạo ra đất nước Trung Quốc (Cung 2000).
Vào thời điểm Cung Đình Thanh viết bài này, các nhà khoa học di truyền chưa xác định được chính xác khi nào một cuộc di cư về phía bắc của các dân tộc vào Đông Á đã diễn ra. Trong một bài báo từ cuối năm 1999, một nhóm các nhà khoa học di truyền, bao gồm J. Y. Chu, đã lập luận đơn giản rằng, sự xâm nhập đầu tiên của người hiện đại vào khu vực phía nam của Đông Á là 60.000 năm trước, tiếp theo là di cư về phía bắc trùng với các sông băng rút trong khu vực đó (Bing và cộng sự 1999: 1723). Tuy nhiên, các nghiên cứu tiếp theo đã đưa ra vấn đề hẹn hò với di cư phương bắc. Vào năm 2005, chẳng hạn, một nhóm các học giả di truyền đã đặt sự di cư về phía bắc của những người đầu tiên vào Đông Á vào khoảng 25.000.-30.000 năm trước, tức là trước thời kỳ Hoabinhian và rất lâu trước khi thuần hóa thực vật (Hong et al. 2008). Trong khi đó, vào năm 2008, một nghiên cứu khác đã xác định một cuộc di cư sớm hơn về phía bắc của người sớm vào Đông Á bắt đầu từ khoảng 60.000 năm trước (Hong et al. 2008). Phát hiện này có vẻ phù hợp với kết quả của một nghiên cứu từ năm 2011 đã kết luận rằng Đông Nam Á có hai khu vực phân tán chính, thứ hai dẫn đến dân tộc Đông Á (Reich et al. 2011).
Bức tranh hiện đang nổi lên là của những người đầu tiên đến Đông Nam Á trong hai lần phân tán và hai cuộc di cư về phía bắc vào Đông Á. Những sự kiện này đã xảy ra trước khi có bằng chứng về văn hóa Hoabinhian, và rất lâu trước khi có bất kỳ bằng chứng nào về việc thuần hóa thực vật hoặc nông nghiệp ở Đông Nam Á. Cuối cùng, hai cuộc di cư về phía bắc rất sớm này đã được theo sau bởi một phong trào về phía nam của những người mà ngày nay chúng ta gọi là  Hán Trung Quốc trong hai hoặc nhiều thiên niên kỷ từ các khu vực ngày nay là miền bắc Trung Quốc đến các khu vực ở phía nam của Sông Dương Tử (Wen et al. 2004). Do đó, có hai sai sót rất cơ bản trong lập luận của Cung Đình Thanh. Đầu tiên là trong khi Solheim đưa ra giả thuyết rằng việc thuần hóa thực vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian, ở đâu đó thuộc Đông Nam Á, điều này đã không được chứng minh là đúng và điều không đúng đã rõ ràng vào thời điểm mà Cung Đình Thanh viết.
Lỗ hổng thứ hai là bằng chứng di truyền cho người dân Đông Á chứng minh rằng người di cư vào Đông Á từ lâu trước khi có bằng chứng về văn hóa Hoabinhian và rất lâu trước khi có bằng chứng về việc thuần hóa cây trồng và nông nghiệp ở Đông Nam Á, và do đó, những người di cư này không thể đến từ thế giới văn hóa Hoabinhian, như Cung Đình Thanh tưởng tượng nó. Điểm thứ hai này có thể chưa rõ ràng vào thời điểm Cung Đình Thanh viết, nhưng bây giờ, và như chúng ta sẽ thấy bên dưới, ý tưởng của Cung Đình Thanh dù sao hiện đang được quảng bá bởi một tác giả tại Việt Nam. Điều đó nói rằng, Cung Đình Thanh đã hình dung rõ ràng rằng ông đang trong quá trình tạo ra một lịch sử mới và khoa học hơn của người Việt Nam, và ông tuyên bố rằng Chúng tôi cảm thấy rằng đã đến lúc chúng ta phải đề xuất lại các lý thuyết về nguồn gốc của người Việt Nam để phù hợp với những tiến bộ của khoa học  hiện tại (Cung 2000).
ĐỊA ĐÀNG Ở PHƯƠNG ĐÔNG
Không lâu trước khi Cung Đình Thanh bắt đầu xuất bản các tác phẩm của mình vè tiền sử Việt, Stephen Oppenheimer, một bác sĩ nhi khoa người Anh có nhiều năm kinh nghiệm làm việc ở Đông Nam Á, đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề Địa đàng ử phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm (1998), trùng lặp với những gì Cung Đình Thanh sẽ viết. Trong tác phẩm này, Oppenheimer lập luận rằng Đông Nam Á, chứ không phải Trung Đông hay Trung Quốc, là cái nôi sớm nhất của nền văn minh. Ở đó, ông lập luận rằng cuộc cách mạng đá mới lần đầu tiên diễn ra và chính từ đó, kiến ​​thức về nông nghiệp lan rộng đến các khu vực khác trên thế giới. Cuối cùng, Oppenheimer lập luận rằng bằng chứng cho việc này.
Cái nôi của nền văn minh Đông Nam Á đã biến mất phần lớn khi lãnh thổ nơi nền văn minh này được cho là xuất hiện, thềm lục địa Sunda, bị nhấn chìm vào cuối kỷ băng hà cuối cùng. Tuy nhiên, Oppenheimer chỉ ra nhiều dấu vết bằng chứng từ nhiều ngành khác nhau, từ khảo cổ học
và ngôn ngữ học cho đến địa chất và thần thoại mà ông lập luận ủng hộ trường hợp của ông.
Khi viết về Đông Nam Á, Oppenheimer tập trung chủ yếu vào thế giới đảo và nói rất ít về Việt Nam. Lý thuyết chi phối về lịch sử ban đầu của đảo Đông Nam Á là dân số người nói tiếng Austronesian bắt đầu di cư vào khu vực từ Đài Loan bắt đầu từ khoảng 5.000 năm trước. Luận văn này ra khỏi luận án Đài Loan tranh luận rằng  những người này di cư vào khu vực họ giới thiệu, trong số các thực hành khác, trồng lúa và sản xuất một số loại gốm (Bellwood 2004). Mặc dù đây là lý thuyết chính cho lịch sử ban đầu của khu vực, Solheim (1996) đã đưa ra một lời giải thích khác cho sự lan truyền của những người nói tiếng Austronesian, cho rằng họ đã nổi lên trong khu vực và lan ra khỏi khu vực của vùng mà ngày nay là Đông Indonesia vào thời điểm kết thúc kỷ băng hà cuối cùng trong suốt thời gian dài của kỷ băng hà cuối cùng. thiết lập mạng lưới giao dịch. Oppenheimer xây dựng trên lý thuyết Solheim, bằng cách lập luận rằng khởi đầu nông nghiệp xuất hiện ở Đông Nam Á và sau đó khi mọi người buộc phải di cư do mực nước biển dâng cao vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, họ không chỉ lan truyền và ngôn ngữ của họ, mà cả kiến ​​thức về nông nghiệp từ cái nôi của nền văn minh này. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy Oppenheimer xây dựng lập luận này là cực kỳ mỏng và có vấn đề. Ví dụ, đối với sự tồn tại của việc trồng lúa ở Đông Nam Á, Oppenheimer đã trích dẫn (1998: 68 -69) một báo cáo về một cuộc khai quật khảo cổ của một địa điểm hang động ở miền nam Thái Lan, trong đó đề cập đến việc hạt gạo gạo đã được tìm thấy ở một mức độ có niên đại khoảng 7.000 -9.000 năm trước. Báo cáo đó không cho biết liệu những hạt đó là từ gạo đã được thuần hóa hoặc hoang dã, nhưng Oppenheimer lưu ý rằng, nếu những ngày đó là đúng đối với gạo đã được thuần hóa, thì rõ ràng gạo được thuần hóa độc lập ở Đông Nam Á (Oppenheimer 1998: 83).
Xây dựng một lý thuyết dựa trên giả định là nguy hiểm, và trong trường hợp này, nó đã được chứng minh là thất bại, vì bằng chứng sớm nhất về gạo đã được thuần hóa ở Thái Lan hiện có từ 2.000 -1.500 trước Công nguyên, và đó là loại gạo mà các học giả tranh luận lần đầu tiên được thuần hóa trong khu vực thung lũng sông Dương Tử (Castillo 2011: 115 -116). Tuy nhiên, việc chỉ đề cập đến khả năng gạo có thể được thuần hóa lần đầu tiên ở Đông Nam Á là đủ để kích thích một số độc giả Việt Nam ở nước ngoài của cuốn sách Oppenheimer. Eden in the East dường như lần đầu tiên được giới thiệu với độc giả nói tiếng Việt vào năm 2000 trong một tạp chí ở California có tên Thế kỷ 21 (Ngô Thế Vinh), tuy nhiên tôi đã không thể tìm thấy bài đánh giá này.
Sau đó, vào tháng 8 năm 2001, một bài đánh giá đã được xuất bản trên tờ Tư tưởng và được tái bản vào tháng 12 năm Thế kỷ 21. Đánh giá này được viết bởi một nhà dịch tễ học tên là Nguyễn Văn Tuấn. Sinh ra ở tỉnh Kiên Giang  phía tây nam Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn đã rời khỏi đất nước này vào năm 1981 với tư cách là một người lái thuyền trên thuyền và cuối cùng ở Úc, nơi ông có bằng y khoa. Vào thời điểm ông viết bài phê bình về Eden in the East của Oppenheimer,  Nguyễn Văn Tuấn là phó giáo sư dịch tễ học tại Đại học bang Wright ở Hoa Kỳ ( Nguyễn Văn Tuấn leo n.d.). Khi xem xét Địa đàng ở phía Đông, Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh ở cuốn sách ba điểm chính. Những điều này cho thấy rằng trong kỷ Băng hà vừa qua, một khu vực rộng lớn ở Đông Nam Á hiện đang chìm dưới mực nước biển,
khoảng 9.000 - 10.000.000 năm trước, người dân ở khu vực này bắt đầu tham gia vào nông nghiệp và khi mực nước biển bắt đầu tăng lên khi kết thúc kỷ băng hà cuối cùng khoảng 8.000 năm trước, người dân từ khu vực này đã phân tán theo mọi hướng (Nguyễn 2001: 12 ). Hai điểm cuối này có tầm quan trọng đặc biệt đối với Nguyễn Văn Tuấn khi ông liên hệ chúng với lịch sử ban đầu của người Việt Nam. Một lần nữa, mặc dù Oppenheimer không tập trung vào lịch sử ban đầu của Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn lập luận rằng những phát hiện ở Địa đàng ở phương Đông có thể hỗ trợ cho một quan điểm mới về quá khứ của Việt Nam.
Để trích dẫn, ông nói rằng nhờ cuốn sách của Oppenheimer, chúng tôi có bằng chứng để tuyên bố rằng trước khi tiếp xúc với người Hán đến từ phía bắc (Trung Quốc), tổ tiên của chúng tôi đã tạo ra một nền văn minh khá tinh vi, nếu chúng ta không muốn nói là tinh vi nhất ở Đông Nam Á. . . Tổ tiên chúng ta đã phát triển và sử dụng công nghệ canh tác lúa trước người Hán, hoặc là những người dạy người Hán trồng lúa (không phải ngược lại). Và nó có thể tổ tiên của chúng ta là tổ tiên của người Hoa ngày nay. Đã đến lúc trả lại sự thật và vinh quang cho tổ tiên của chúng ta (Nguyễn 2001: 14). Cuốn sách của Oppenheimer, không ủng hộ những tuyên bố mà Nguyễn Văn Tuấn đưa ra ở đây, và có những độc giả Việt Nam  dễ dàng nhận ra cái đó. Một người làm như vậy là người đàn ông ở Rouen, Pháp tên là Nguyễn Quang Trọng (2002).
Trả lời chi tiết về bài phê bình của Nguyễn Văn Tuấn, được đăng trên một tạp chí trực tuyến có trụ sở tại California, Nguyễn Quang Trọng
thách thức Nguyễn Văn Tuấn trên từng điểm. Liên quan đến vấn đề phát triển nông nghiệp ở Đông Nam Á, Nguyễn Quang Trọng lưu ý rằng ngay cả bản thân Oppenheimer cũng không thực sự khẳng định điều này, vì anh biết rằng bằng chứng từ Thái Lan mà anh trích dẫn chưa được xác nhận. Hơn nữa, Nguyễn Quang Trọng cũng lưu ý rằng không có bằng chứng trực tiếp nào về nông nghiệp đã được tìm thấy ở các địa điểm Hoabinhian tại Việt Nam. Nguyễn Văn Tuấn tuyên bố rằng tổ tiên của chúng tôi đã phát triển nông nghiệp và đã dạy công nghệ cho người Hán vì thế không phải là một thực tế mà là một ví dụ, Nguyễn Quang Trọng lập luận, về ý thức tự tôn quá mức.
Một điểm quan trọng khác mà Nguyễn Quang Trọng đã đưa ra là thật sai lầm khi nghĩ về những người trong thời kỳ đầu này là một phần của các nhóm được xác định rõ ràng và không thay đổi. Thay vào đó, ông lập luận rằng ngay cả trong thời kỳ đầu này, có rất nhiều sự đan xen của các dân tộc.
Đây chính xác là những gì các nghiên cứu di truyền và khảo cổ gần đây đã tiết lộ. Trong khi luận án Đài Loan không bị lật tẩy, nó đã đạt được sự phức tạp hơn nhiều. Những gì các học giả bây giờ có thể thấy là đó không phải là trường hợp mà những người nói tiếng Austronesian đã mang toàn bộ gói sản phẩm làm sẵn ra thành công vào Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thay vào đó, một số công nghệ liên quan đến những người nói tiếng Austronesian có thể đã xuất hiện trong các lĩnh vực tương tác của người New Guinea và miền đông Indonesia (Anderson và O Connor 2008: 3). Hơn nữa, không phải tất cả các cuộc di cư hoặc liên lạc của người Austronesian đều liên quan đến nông nghiệp. Ví dụ, đồ gốm, một vật phẩm đã được sử dụng để ghi dấu vết di cư của người Austronesian, không nhất thiết phải liên quan đến nông nghiệp (Spriggs 2011: 523). Cuối cùng, khoa học di truyền đang chứng minh rằng thay vì tưởng tượng một làn sóng người di cư vượt qua một khu vực, người Austronesian được trộn lẫn với các quần thể còn tồn tại lâu đời và chiếm ưu thế về số lượng trong khu vực (Soares et al. 2008). Nói cách khác, các học giả vẫn đồng ý rằng có những cuộc di cư vào khu vực từ phía bắc đã mang lại kiến thức nông nghiệp, tuy nhiên những cuộc di cư đó là một phần của quá trình di cư và tương tác vô cùng phức tạp và đa dạng của con người.
Như vậy, Eden in the East đưa ra một số đề xuất là có vấn đề, và những ý tưởng mà cuốn sách đã truyền cảm hứng cho Nguyễn Văn Tuấn tuyên bố đơn giản là sai. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Tuấn không đơn độc khi xem cuốn sách này như một sự hỗ trợ mạnh mẽ cho một tầm nhìn nhất định về quá khứ mà anh muốn quảng bá. Năm 2005, một bản dịch tiếng Việt của cuốn sách Oppenheimer đã được xuất bản tại Việt Nam.
Bản dịch tiếng Việt này bao gồm phần giới thiệu của Nguyễn Văn Tuấn, nó đã bị khuất phục hơn nhiều so với phát ngôn trước đó của ông. Có lẽ Nguyễn Văn Tuấn đã nhận ra rằng ông đã phóng đại tầm quan trọng của cuốn sách, nhưng nếu làm như vậy, điều đó không thành vấn đề vì bản dịch này xuất hiện cùng với lúc người Việt ở Việt Nam đã bắt đầu viết về những vấn đề này. Những gì đã bắt đầu như một cuộc thảo luận giữa những người Việt Nam ở nước ngoài bây giờ đã thu hút sự chú ý của độc giả ở Việt Nam, cả trực tuyến và thông qua các phương tiện truyền thông in ấn.
HÀ VĂN THÙY
Trong khi có rất nhiều cá nhân ở Việt Nam bắt đầu thảo luận về vấn đề tiền sử, một nhà văn, một nhà báo trước đây đã đóng một vai trò hàng đầu, tên là Hà Văn Thùy. Sinh năm 1944 tại tỉnh Thái Bình, miền bắc Việt Nam, Hà Văn Thùy có bằng đại học về sinh học năm 1967 tại Hà Nội. Vào những năm 1980, Hà Văn Thùy làm việc với tư cách là một nhà báo ở tỉnh Kiên Giang ở phía tây nam Việt Nam. Vào cuối những năm 1980, ông đã tham gia vào một cuộc tranh chấp với chính quyền trong Hội Nhà báo, tổ chức mà tất cả các nhà báo phải là thành viên để làm việc, và cuối cùng đã bị trục xuất vào năm 1989 (từ Hà Hà Thùy ra n.d.). Tuy nhiên, chấm dứt sự nghiệp báo chí chính thống đã không dẫn đến sự kết thúc việc viết lách của Hà Văn Thùy. Ông tiếp tục xuất bản các bài viết về các chủ đề khác nhau, và năm 2005, ông chuyển sang chủ đề tiền sử. Vào năm đó, Hà Văn Thùy đã xuất bản một bài viết trên một trang web có tên Talawas được điều hành bởi một tác giả Việt Nam bất đồng chính kiến ​​có trụ sở tại Đức, Phạm Thị Hoài. Đầu những năm 2000, Talawas là diễn đàn ra mắt để thảo luận phê bình giữa các trí thức Việt Nam. Nhiều người đóng góp và độc giả là người Việt Nam sống ở nước ngoài, tuy nhiên họ đến từ một phổ rộng của dân số nước ngoài ngày càng đa dạng. Có những người đã rời đi vào cuối Chiến tranh Việt Nam, những người khác đã chạy trốn làm thuyền nhân vào cuối những năm 1970 và 1980, những người đã du hành đến Liên Xô và Đông Âu trong Chiến tranh Lạnh rồi ở lại và có những người Việt Nam đang du học. Cuối cùng, ngày càng nhiều trí thức từ Việt Nam đến đọc và tham gia Talawas khi việc sử dụng Internet được mở rộng ở trong nước và khi mọi người phát hiện ra để điều động xung quanh các nỗ lực của chính phủ chặn truy cập vào một số trang web. Hà Văn Thùy bắt đầu bài viết của mình bằng cách bày tỏ mối quan tâm tương tự như Cung Đình Thanh và Lương Kim Định, đó là nỗi e sợ cho sự tồn tại của văn hóa Việt Nam. Ông lưu ý rằng trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, người ta lo ngại rằng văn hóa Việt Nam sẽ bị xâm chiếm bởi các yếu tố từ các nền văn hóa nước ngoài và chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị về nhu cầu bảo tồn tinh hoa của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, Hà Văn Thùy lập luận rằng càng nhiều người nói về chủ đề này, các ý tưởng càng trở nên phức tạp đến mức bây giờ cần phải xác định rõ ràng chính xác người Việt Nam là ai và văn hóa Việt Nam là gì? Hà Văn Thùy thừa nhận rằng ông không phải là nhà sử học, nhưng là một người có ý thức trách nhiệm đối với văn hóa quốc gia , ông muốn chia sẻ ý tưởng của mình với độc giả (Hà 2005).
Trong bài viết của mình, Hà Văn Thùy nhắc lại phần lớn những gì Cung Đình Thanh, Nguyễn Đức Hiệp, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Thị Thanh đã viết, và ông cảm ơn các tác giả này và những người khác trong một ghi chú ở cuối bài viết của mình. Đồng thời, ông cũng cố gắng vượt xa công việc của các tác giả này và kết nối chặt chẽ hơn ý tưởng của họ với những ý tưởng mà Lương Kim Định đã đề xuất vào những năm 1960 và đầu những năm 1970, cũng như những ý tưởng về sự hình thành lịch sử của các chủng tộc mà một học giả người Việt tên là Nguyễn Đình Khoa đã đề xuất trong một cuốn sách năm 1983 mang tên Nhân chủng học của Đông Nam Á. Lĩnh vực nhân chủng học (nhân học) chỉ bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 1990 sau khi đất nước này mở cửa giao lưu học thuật với các nước phương Tây và Nhật Bản. Trước những năm 1990, kiến ​​thức nhân học được các học giả trình bày trong hai lĩnh vực: dân tộc học và chủng tộc học (nhân loại học). Các học giả trong các lĩnh vực này tập trung vào việc phân loại các nhóm người, có thể là về mặt dân tộc hoặc chủng tộc. Những nỗ lực này bắt đầu với công việc của các học giả Pháp trong thời kỳ thuộc địa nhưng nó cũng phù hợp với các tri thức mà các học giả Liên Xô tham gia. Nguyễn Đình Khoa xây dựng dựa trên công trình của các học giả người Pháp và Liên Xô, cũng như nghiên cứu nhân trắc học của riêng ông, để lập luận rằng ban đầu có hai đại chủng người ở Việt Nam: Austroloid và Mongoloid. Sự hòa huyết của họ đã tạo ra các nhóm chủng tộc là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, các chủng tộc mà  học giả Pháp đã đề xuất đầu tiên trong thời kỳ thuộc địa và đã áp dụng cho các hộp sọ được tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ sớm. Sau đó, trong thời đại đồ đồng, các yếu tố Austroloid đã rút đi và các yếu tố Mongoloid trở nên chiếm ưu thế, và đây là những gì chúng ta thấy trong dân số Việt Nam hiện nay (Nguyễn 1983: 106).
Hà Văn Thùy lấy những ý tưởng này và kết hợp chúng với những gì Lương Kim Định và Cung Đình Thanh và các đồng nghiệp của ông đã viết để tạo ra câu chuyện sau đây về tiền sử: Cư dân tiền sử ở Đông Nam Á bao gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid. Một nhóm Mongoloid di cư về phía bắc và trở thành người Mông Cổ phía Bắc. Tại một số thời điểm, người Việt cũng làm như vậy. Những người Việt này, theo Hà Văn Thùy, là người Indonesian, nghĩa là một chủng tộc được hình thành thông qua sự hòa trộn của Austroloid và Mongoloid. Họ cũng là những người sản xuất văn hóa Hoabinhian. Họ đã phát triển lục địa châu Á, nhưng sau đó khoảng 2.500 BCE người Hán bắt đầu đẩy Việt Nam về phía nam. Sự hòa trộn cũng diễn ra, và đó là lý do tại sao khi người Việt cuối cùng trở về nhà của họ ở Việt Nam, yếu tố Mongoloid trong máu của họ đã tăng lên, nhưng yếu tố Indonesian trong dân số người Hán di cư về phía nam sông Dương Tử cũng tăng lên, dẫn đến sự xuất hiện của chủng tộc Nam Mongoloid .
Qua lời kể này, Hà Văn Thùy tìm cách giải thích chính xác người Việt Nam là ai. Anh dành ít thời gian để thảo luận chính xác văn hóa Việt Nam là gì, nhưng thực chất anh đồng ý với Lương Kim Định rằng người ta nghĩ về văn hóa của người Trung Quốc, thực sự được tạo ra bởi tổ tiên người Việt Nam. Trong khi Lương Kim Định đã tìm cách chứng minh điều này thông qua việc sử dụng sáng tạo lý thuyết nhân học cấu trúc và thông qua khái niệm lịch sử mơ hồ của riêng ông, Hà Văn Thùy lưu ý rằng những phát hiện khoa học di truyền của J. Y. Chu và các đồng nghiệp đã chứng minh quan điểm mà Lương Kim Định tìm cách chứng minh: tổ tiên của người Việt sống ở Trung Quốc trước người Hán, và do đó, họ là những người đã tạo ra nền tảng văn hóa cho những gì sau này trở thành Trung Quốc.
Talawas năm 2005, Hà Văn Thùy đã tiếp tục viết về chủ đề này. Hơn thế nữa, bài viết của ông sớm bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, cả in và trên các trang web có trụ sở trong nước. Năm 2006, ông đã xuất bản tại Hà Nội một phiên bản mở rộng của bài báo Talawas của mình có tựa đề Tìm lại cội nguồn Văn hóa Việt. Tiếp theo là  Hành trình tìm lại cội nguồn: Nghiên cứu và đàm thoại năm 2008 và Tìm cội nguồn gốc qua di truyền học năm 2011. Năm 2014 Hà Văn Thùy đã xuất bản hai tác phẩm ở Mỹ thông qua Amazon, cả hai đều đề cập đến cùng một chủ đề ở một mức độ nào đó: Viết lại Lịch sử Trung Hoa (2014a), trong đó có phần giới thiệu của Nguyễn Đức Hiệp, và Tiến trinh lịch sử văn hóa Việt (2014b). Cuối cùng, vào năm 2016, nhà xuất bản của Hội Nhà văn, một cơ quan văn hóa chính thức, đã xuất bản Khám phá Lịch sử Trung Hoa  (2016a) và Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt (2016b). Ngoài những ấn phẩm này, Hà Văn Thùy đã viết rất nhiều trên Internet, lặp lại ý tưởng của mình tại hầu như mọi cơ hội và thách thức tất cả những ai đưa ra những quan điểm khác về quá khứ, từ cuối thời Phan Huy Lê (2017), nhà sử học hàng đầu ở Việt Nam, đến bản thân tôi (2015), bằng cách tham gia vào các cuộc trao đổi một mặt hoặc các cuộc thảo luận về vấn đề khác (cuộc tranh luận) mà anh đăng trực tuyến.
PHẦN KẾT LUẬN
Hà Văn Thùy là một nhân vật quan trọng trong đó ông tổng hợp các yếu tố từ những ý tưởng khác nhau đã phát triển liên quan đến tiền sử Việt Nam, từ những điều mà Lương Kim Định đã phát triển ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, cho tới những điều được thúc đẩy bởi Cung Đình Thanh và những người khác trong cộng đồng người di cư vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, của những học giả ở Việt Nam trong những năm 1980 và 1990. Hơn thế nữa, người ta cũng có thể thấy Hà Văn Thùy như một loại cầu Internet mà ông là một trong những cá nhân đầu tiên ở Việt Nam tham gia với những ý tưởng về tiền sử được phát triển và đăng tải trực tuyến bởi người Việt ở cộng đồng người di cư, và ông đã thực hiện trước tiên trong không gian ảo bên ngoài Việt Nam trước khi có thể chấp nhận thảo luận những ý tưởng như vậy ở Việt Nam. Tuy nhiên, đồng thời, Hà Văn Thùy là một nhân vật gây tranh cãi ở chỗ ông đang tích cực thúc đẩy các ý tưởng là mục đích của các học giả mà không giữ vị trí học giả hay liên kết. Hơn nữa, bất cứ điều gì xảy ra trong quá khứ khiến ông mất đi vị thế một nhà báo chính thức, tạo ra một cách nhìn tiêu cực trong mắt một số người.
Như vậy, tôi cho rằng việc kết hợp giữa sự mơ hồ của tình trạng Hà Văn Thùy và sự hiện diện trực tuyến phổ biến của ông với tư cách là người phát ngôn cho phiên bản tiền sử Việt Nam mới này, khiến nhiều người khó có thể thấy những gì đang xảy ra ngoài thế giới Hà Văn Thùy. Tuy nhiên, nhiều ý tưởng từ lịch sử ngoại vi này hiện đang được thưởng thức như một vị trí của trung tâm. Chẳng hạn, nếu người ta tìm hiểu về nền văn minh lúa nước, thì phiên bản tiếng Việt của Wikipedia hiện nay là quan điểm về quá khứ làm cho Việt Nam trở thành Trung tâm đầu tiên của việc trồng lúa mà nhóm các tác giả trong bài tiểu luận này đã quảng bá, với các tài liệu tham khảo từ Sauer, Solheim, Gorman và Oppenheimer, và liên kết đến các tác phẩm của Cung Đình Thanh và các đồng nghiệp của ông. Hơn nữa, nếu lướt qua trang web của Khoa Nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh, người ta sẽ thấy, bài phê bình khen ngợi của Nguyễn Văn Tuấn về Eden in the East của Oppenheimer được đăng trên trang Tư tưởng năm 2001 đã được đăng lại trên trang web của trường đại học này vào ngày 3 tháng 6. 2019 (Khoa Việt Nam học). Ngoài ra, những phát biểu ở đầu bài viết này mà Hà Văn Thùy đã viết về Lương Kim Định tại Văn Miếu năm 2012 đã được đăng ngay lên trang web của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Lý thuyết và Ứng dụng, tương tự thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Cuối cùng, trong khi các cuốn sách của Kim Kim Định vẫn bị cấm tại thời điểm diễn ra hội nghị năm 2012, thì hiện tại chúng đã được tái bản tại Việt Nam (Phạm 2017). Do đó, nhiều ý tưởng được thảo luận trong bài tiểu luận này, mặc dù có lẽ không quen thuộc với các học giả, rõ ràng rất quan trọng đối với nhiều người Việt Nam.
                                                Hà Văn Thùy (dịch)
Ghi chú
* Liam C. Kelley là Phó giáo sư nghiên cứu Đông Nam Á tại Viện các nghiên cứu châu Á tại Đại học Brunei Darussalam.
 
BÀN LẠI VỚI GIÁO SƯ LIAM KELLEY VỀ “SỬ HỌC BÊN LỀ”
Đúng như tác giả khẳng định, bài viết “sử học bên lề” thể hiện cách nhìn rất tích cực về một hiện tượng của sử học Việt Nam đương đại. Trong đó, một số cá nhân đưa ra quan điểm chưa từng có về thời tiền sử của người Việt. Là người nhiều năm nghiên cứu lịch sử Việt Nam và thường viết tiêu cực về sử Việt, chuyên luận của Liam Kelley chắc chắn sẽ nhận được quan tâm của học giả quốc tế và gây tiếng vang đối với người đọc Việt Nam. Tuy nhiên, bài viết của tác giả cũng thể hiện sự hiểu biết chưa thấu đáo về hiện tượng độc đáo này. Vì vậy xin bàn lại đôi điều.
Về Hoabinhian.
Đúng như tác giả nhắc lại, học giả quốc tế nhận định về Hoabinhian như sau: “Vào năm 1932, một cuộc họp của những nhà tiền sử được tổ chức tại Hà Nội, đề xuất thuật ngữ Hoabinhian được dùng để chỉ những khu định cư đầu tiên của con người được phân biệt bằng cách sử dụng các dụng cụ bằng đá đẽo trên toàn hòn cuội (Matthews 1966: 86). Một đặc điểm xác định khác của địa điểm Hòa Bình là không có bằng chứng về nông nghiệp, và do đó, thuật ngữ Hoabinhian sau đó được sử dụng để chỉ các địa điểm Mesolithic. Thời kỳ Mesolithic là giai đoạn trung gian giữa thời đại Cổ sinh và Đá mới và kéo dài từ khoảng 15.000 đến 5.000 BCE, thời điểm mọi người vẫn tham gia săn bắn và hái lượm hơn là nông nghiệp.” Điều này có nghĩa, hoabinhian chỉ là một “phức hệ kỹ thuật” sản sinh những hòn cuội được đẽo trên toàn chu vi, vào thời Mesolithic, phổ biến từ Nam Trung Quốc qua Đông Dương, Thái Lan đến các đảo Đông Nam Á.
Quan niệm như vậy là của 90 năm trước, khi khoa học chưa biết người Hòa Bình là ai, người Vân Nam là ai, người Indonesia là ai? Và cũng chưa hiểu vì sao những hòn cuội “giống như ở Hòa Bình” lại có mặt tại những nơi đó? Nhưng nay, sau gần thế kỷ, khoa học đã xác nhận, 70.000 năm trước, trong Kỷ Băng hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay 130 mét, Đông Nam Á là lục địa Sundaland rộng lớn. Người từ châu Phi theo con đường phương Nam di cư tới Việt Nam. Tại đây họ hỗn hòa với nhau sinh ra người Việt cổ. 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á. 40.000 năm trước đi lên chiếm lĩnh Hoa lục để rồi sau đó vượt eo Bering chinh phục châu Mỹ… Như vậy, chỉ có thể là, theo chân người di cư, công cụ đá từ Hòa Bình được đưa tới những nơi mà hôm nay ta tìm thấy. Một điều nữa cũng được khẳng định, các công cụ đó phải được phân tán trước khi nước biển dâng, có nghĩa là trước 15000 năm trước! Không chỉ vậy, năm 2012 khám phá khảo cổ cho thấy, đồ gốm đầu tiên ra đời ở Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây 20.000 năm trước và hạt lúa trồng đầu tiên cũng xuất hiện ở đó 12.400 năm trước. Tiên Nhân Động cách sông Dương Tử hơn 100 km về phía nam, thuộc vùng Đông Nam Á. Khảo cổ học và di truyền học cùng xác nhận, chủ nhân Tiên Nhân Động là người Lạc Việt, chủng Indonesian, là con cháu người Hòa Bình Việt Nam đi lên…(1)
Một câu hỏi nảy sinh: với những khám phá như vậy ở đầu thế kỷ XXI thì quan niệm của 90 năm trước còn phù hợp? Có sự thật là, trong khi sử gia Liam Kelly tầm chương trích cú dẫn ra một Hoabinhian “chết” trên sách vở thì những “sử gia bên lề” như Cung Đình Thanh, Nguyễn Thị Thanh… sinh ra trên đất Hòa Bình hiểu về một văn hóa Hòa Bình sống động. Đó là nơi phát tịch của dân cư châu Á, là nơi đầu tiên trên thế giới, người Việt làm ra công cụ đá mới, đồ gốm và thuần hóa lúa nước! Thời gian và sự thật chứng tỏ họ đã đúng! Và cũng rõ ràng, họ vượt qua tri thức của nhà sử học kinh viện.
Đâu là nơi trồng lúa đầu tiên?
Trong bài viết, bằng cách đưa ra những chứng cứ xác thực, Liam Kelley chứng minh rằng, Solheim đã xây dựng thuyết “Đông Nam Á là trung tâm nông nghiệp sớm nhất” dựa trên những tư liệu khảo cổ học sai lầm: “Thật vậy, vào cuối những năm 1970, các học giả khác nhau đã xác định rằng các mẫu lúa mà Gorman và Bayard tìm thấy là lúa hoang, chứ không phải là lúa trồng, (Yen 1980; 1982). Ngày nay, sự đồng thuận về mặt học thuật giữa những người tiền sử trái ngược với những gì Solheim đề xuất, khi các chuyên gia cho rằng các công nghệ như trồng lúa và luyện kim đều di chuyển xuống phía Nam vào Đông Nam Á (Castillo 2011; Higham et al. 2015).” Với học giới quốc tế và hầu hết người đọc, đó thực sự là đòn Knock out đối với Solheim! Tuy nhiên, buồn thay, việc làm của Phó giáo sư Đại học Brunei Darussalam lại hoàn toàn vô nghĩa! Cũng lại do sự thiếu cập nhật tài liệu. Những dẫn chứng khảo cổ mà ông đưa ra đều thuộc thập kỷ 1970s, nghĩa là của nửa thế kỷ trước! Ôi, 50 năm biết bao vật đổi sao dời! Khoa học của thế kỷ mới không chỉ khám phá cây lúa đầu tiên được người Việt thuần hóa từ 12.400 năm trước tại Tiên Nhân Động mà theo dấu vết cuộc hành trình vạn dặm, tìm thấy tại văn hóa Giả Hồ Nam Hoàng Hà 9000 năm trước, người Lạc Việt chế đồ gốm đen tinh xảo, trồng lúa, trồng kê, thưởng thức rượu vang làm bằng cách ngâm rượu gạo với táo gai dầm mật ong, nghe âm thanh du dương từ sáo chế bằng xương chim hạc rồi chiêm nghiệm chữ Mục, chữ Nhật, chữ Bát, chữ Hỏa… – những con chữ đầu tiên của nhân loại khắc trên yếm rùa… Buồn cho người chậm chân, tám năm trước, ngay sau khi khai quật Tiên Nhân Động được công bố, những “sử gia tay ngang” của sử học bên lề Việt Nam đã khẳng định, người Việt trồng lúa đầu tiên và Đông Nam Á là nôi của nông nghiệp!
Tuy vậy, tôi rất thông cảm với Liam Kelley bởi ông là sử gia, cái nghề buộc phải “ăn theo” khoa học khảo cổ. Không ít nhà khảo cổ còn tệ hơn ông, như Marc Oxenham của Đại học Quốc gia Úc chẳng hạn. Mới đây trong công bố khai quật di chỉ Cồn Cổ Ngựa vẫn tiếp tục sự ngộ nhận đáng tiếc từ 2005, cho rằng, 4000 năm trước, nông dân phía Bắc di cư xuống, trở thành người trồng lúa đầu tiên phía Nam Dương Tử! (2) Vị học giả gắn bó thâm niên với khảo cổ Việt Nam không hề biết rằng, 12.400 năm trước, dân Việt ở Nam Dương Tử thuần hóa thành công cây lúa rồi truyền bá khắp đồng bằng Dương Tử, Hoàng Hà. Người nông dân phía Bắc di cư xuống 4000 năm trước không phải người trồng lúa đầu tiên ở Nam Dương Tử mà là cháu chắt của tổ tiên sống ở Nam Dương Tử mang cây lúa lên Nam Hoàng Hà 9000 năm trước, khi chạy giặc trở về, khai phá những vùng đất còn hoang sơ để trồng lúa! (3)
Như vậy, thực tế cho thấy, dù dựa vào một số chứng cứ khảo cổ sai lầm nhưng trên tổng thể, thuyết của Solheim hoàn toàn chính xác. Do viễn kiến thiên tài mà C. Sauer rồi Solheim nhìn xa thấy rộng trong thời điểm trí tuệ nhân loại còn mù mờ. Công bằng phải nói rằng, công bố của Solheim cực kỳ quan trọng, nó là chỗ dựa tinh thần, là niềm hứng khởi đột phá để những con chim gọi đàn cùng nhau tìm về nguồn cội, làm nên đội ngũ mà hôm nay Liam Kelley gọi là sử học bên lề. Dân tộc Việt cảm ơn ông vì việc đó.
Về cuốn địa đàng ở phương Đông
Phải nói rằng, ban đầu cuốn sách của Oppenheimer tạo nơi chúng tôi ấn tượng sâu sắc. Cùng với tác giả, chúng tôi tin và tiếc nuối cho nền văn minh rực rỡ của Đông Nam Á bị đắm chìm. Nhưng rồi những khám phá mới của di truyền và khảo cổ học giúp chúng tôi nhận ra:
i. Người di cư châu Phi không có mặt trên các hòn đảo Đông Nam Á 70.000 năm trước. Dân cư của các đảo này chỉ từ Việt Nam tới cách nay 50.000 năm.
ii.Ngoài dụng cụ đá mới Hòa Bình từ Việt Nam đưa ra, trên các đảo này trước khi bị nước nhấn chìm 15.000 trước, chỉ có thể có cây kê và một số loại rau củ bán thuần hóa mà chưa phải nền nông nghiệp phát triển.
iii.Không có chuyện người từ Sundaland đi ra làm nên dân cư châu Á. Thay vào đó là người từ Việt Nam đi ra chiếm lĩnh thế giới. Chúng tôi đã trình bày điều này trong chuyên luận Ra khỏi Việt Nam chiếm lĩnh thế giới.(4)
Như vậy là, cuốn sách của Oppenheimer là nhiều khả năng là một sản phẩm hư cấu.
Thế nào là bằng chứng?
Điểm nổi cộm trong bài viết là Liam Kelley cho rằng “tiền sử mới của người Việt” thiếu bằng chứng:
 “Trong khi lập luận rằng tổ tiên của người Việt Nam là những người sáng lập các khía cạnh khác nhau của nền văn minh Đông Á thực sự vượt xa quan điểm thời thuộc địa khi thấy Việt Nam là một Tiểu Trung Quốc, thì bằng chứng cho lập luận này là vô cùng có vấn đề. Không dựa trên bằng chứng đáng tin.” “không phải là một phần của khóa đào tạo học thuật mà tôi đã nhận được,” “không có trong tài liệu của sử gia nhà nước Việt Nam.”“Hoặc các tác phẩm của nhà sử học người Mỹ Keith Taylor, người có ý tưởng đã chuyển đổi từ quan điểm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam sang cho rằng có quá ít bằng chứng để khẳng định chắc chắn về quá khứ xa xôi, trong đó không có tác phẩm nào được đưa ra rằng tổ tiên của người Việt đã chiếm lĩnh khu vực của Trung Quốc ngày nay và thiết lập nền tảng của những gì cho chúng ta một suy nghĩ như truyền thống văn hóa Đông Á”
“Đối với bất kỳ ai ở ngoài Việt Nam đã nghiên cứu lịch sử Việt Nam thông qua các kênh học thuật chính thống, các ý tưởng bày tỏ ở đây rằng tổ tiên của người Việt chiếm lĩnh khu vực ngày nay là Trung Quốc và thiết lập một nền tảng văn hóa mà giờ đây có thể là kim chỉ nam cho loài người, sẽ là không quen.”
Loại bằng chứng mà Liam Kelley đòi hỏi thuộc về thế kỷ XX, những tri thức sản sinh quan niệm “Việt Nam là một tiểu Trung Hoa” hay “người Việt Nam là do Homo erectus tiến hóa thành”… Tất cả những thứ đó đã bị thế kỷ XXI bỏ lại sau lưng. Như Carl Sagan từng nói: “Yêu sách phi thường đòi hỏi phải có bằng chứng phi thường.” Chính là nhờ kết nối và giải mã một cách tuyệt vời hàng tấn bằng chứng phi thường từ khảo cổ học, di truyền học xuất hiện trong hai thập kỷ đầu của kỷ nguyên mới, chúng tôi khám phá ra sự phi thường của tiền sử người Việt, đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên tiến của nhân loại, như đánh giá của Tiến sỹ Nguyễn Đức Hiệp trong lời giới thiệu cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa. Thật buồn là phó giáo sư Liam Kelley đã không hiểu điều đó?!
Về tiền sử người Việt
Hiện có ba quan niệm khác nhau về tiền sử người Việt:  1. Người từ Nam Trung Quốc bị dồn xuống đồng bằng sông Hồng thành người Việt. 2. Một dòng di cư từ châu Phi tới Bắc Đông Á làm nên người nông dân trồng lúa Trung Quốc. Sau đó người trồng lúa phía Bắc đi xuống hỗn hòa với dòng di cư phương Nam tới Việt Nam làm nên dân cư Việt Nam. 3. Người từ châu Phi di cư theo duy nhất con đường phương Nam đến Việt Nam rồi từ đây người Việt đi ra làm nên dân cư châu Á và nhân loại ngoài châu Phi. Điều này cho thấy, tiền sử người Việt là chuyện đang gây tranh cãi.
Thuyết thứ nhất phổ biến trong các cuốn chính sử phương Đông cho đến thế kỷ XX, xuất phát từ quan niệm Người đứng thẳng Bắc Kinh (Homo pekinensis) là tổ tiên của dân cư châu Á. Nhưng sang thế kỷ XXI, khám phá loài người Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi 200.000 năm trước nên thuyết này bị bác bỏ.
Thuyết thứ hai ra đời vào những năm đầu thế kỷ XXI, khi trung tâm di truyền lớn là Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ công bố: 45.000 năm trước, một dòng di cư từ châu Phi qua Trung Đông sang Trung Á. Từ đây người tiền sử xâm nhập Đông Á (5). Từ Con đường phương Bắc này ra đời quan niệm: người Trung Quốc phát minh nông nghiệp sau đó mang nông nghiệp xuống phía Nam, hòa huyêt với dân bản địa, làm nên dân cư Việt Nam.
Ngay từ năm 2005 khi bắt đầu hành trình tìm lại cội nguồn, tôi đã phải chọn lựa kỹ giữa các tài liệu có quan niệm khác nhau rồi khẳng định không có con đường phương Bắc đưa người vào Đông Á. Đây là sai lầm tai hại của Spencer Wells thuộc Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ. Các nghiên cứu di truyền học sau này cũng cho thấy chỉ duy nhất con đường phương Nam đưa người tới Đông Nam Á mà cụ thể là Việt Nam. (6) Tuy nhiên, một số tác giả do thiếu cập nhật tài liệu, vẫn theo thuyết con đường phương Bắc, dẫn tới sai lầm nghiêm trọng. Trong bài Phản biện kết luận về nguồn gốc người Việt của Dự án “1000 bộ gen người Việt Nam,” chúng tôi đã chỉ rõ sai lầm của quan niệm này.(7)
Chúng tôi, tác giả của sử học bên lề kiên trì quan điểm: Theo ven biển Ấn Độ Dương, người châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tại đây, hai đại chủng Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra người Việt cổ thuộc nhóm loại hình Australoid. 50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh tiểu lục địa Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu ấm hơn, người Việt đi lên khai phá Hoa lục. Ban đầu hoạt động săn bắn hái lượm, người Việt mang theo rìu đá nên gọi mình là người Việt. Sau khi thuần hóa lúa nước, người Việt mang cây kê, cây lúa, giống gà, giống chó lên xây dựng văn hóa nông nghiệp tại Giả Hồ Hà Nam 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ, Ngưỡng Thiều 7000 năm trước. Tại Giả Hồ, người Việt chế chữ viết tượng hình đầu tiên khắc trên mai rùa và xương thú. Tại khu mộ ở Dốc Tây Thủy, trấn Bộc Dương Hà Nam 6500 năm trước, nhiều khả năng là mộ Phục Hy, có bằng chứng cho thấy Kinh Dịch đã trưởng thành.
Chúng tôi cũng lần đầu tiên xác định, 7000 năm trước, tại văn hóa Ngưỡng Thiều miền Trung Hoàng Hà, người Việt cổ Australoid hòa huyết với người Mongoloid sống trên bờ Bắc, sinh ra chủng người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid), được gọi là người Việt hiện đại. Người Việt hiện đại tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu đánh vào Nam Hoàng Hà chiếm đất của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Chiến tranh liên miên dẫn tới cuộc di cư của người Việt chủng Mongoloid phương Nam xuống Nam Dương Tử và Đông Nam Á, chuyển hóa di truyền dân cư phía Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Đây là quá trình chuyển hóa di truyền lâu dài mà không phải cuộc xâm lăng thay thế dân cư. Những người Việt ở lại đồng bằng Hán Thủy, sau này được gọi là người Hán. Như vây, người Hán là cộng đồng do người Việt cổ sinh ra 7000 năm trước và ở lại lưu vực Hoàng Hà. Do lịch sử hình thành như vậy nên tiếng Việt là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa. Chữ giáp cốt do người Việt sáng tạo là chủ thể của chữ viết Trung Hoa. Người Việt là chủ thể làm nên văn hóa Trung Quốc. Đó là khẳng định của chủng tôi từ kết nối và giải mã những tài liệu khảo cổ học, di truyền học mới nhất, đáng tin cậy nhất của thế giới. Kết luận như vậy trên thực tế, vượt qua sự mò mẫm của học giả quốc tế.
Ngày 14 tháng 7 năm 2012, trong Lễ tưởng niệm 15 năm ngày mất triết gia Kim Định, tại Nhà Thái học, Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, tôi có nói: “Những ai nắm vững thuyết Việt Nho và An vi của Kim Định sẽ có ngày đàng hoàng bước tới dạy tại những đại học danh giá nhất thế giới.” Hôm nay cũng xin nói với phó giáo sư Liam Kelly rằng, là người gắn bó sâu với lịch sử Việt Nam, ở tuổi tri thiên mệnh, năng lực làm việc còn dồi dào. Nếu ông thấm nhuần ý tưởng Kim Định và nắm vững tiền sử người Việt theo khám phá của “sử học bên lề” Việt Nam, ông có khả năng trở thành học giả hàng đầu Đông phương học của học giới phương Tây.
Sài Gòn, Tháng Tư, 2020
 
Tài liệu tham khảo:
2.Marc Oxenham et al. Between foraging and farming: strategicresponses to the Holocene Thermal Maximum in Southeast Asia.
3. Hà Văn Thùy. Di chỉ Cồn Cổ Ngựa và vấn đề tiền sử ngừi Việt (Thảo luận với Tiến sỹ Marc Oxenham)
4. Hà Văn Thùy. Ra khỏi Việt Nam chiếm lĩnh thế giới.
5. Spencer Wells. The Journey of Man: A Genetic Odyssey.
6. Hà Văn Thùy. Người tiền sử rời châu Phi theo con đường nào?
7. Hà Văn Thùy. Phản biên kết luận về nguồn gốc người Việt của Dự án “1000 Bọ gen người Việt Nam.”
 
TRÌ HẠO ĐIỀN SẢN PHẨM CỦA MỘT NỀN GIÁO DỤC THẤT BẠI
 
Ngày 15.4.2009, tạp chí Các vấn đề chiến lược của Ấn Độ công bố bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc tại Hội nghị các tướng lĩnh bàn về chiến lược chiến tranh tương lai, tổ chức năm 2005, nhan đề:  SỬ DỤNG VŨ KHÍ SINH HỌC, QUÉT SẠCH NƯỚC MỸ.
      Bài nói gây chấn động lương tri loài người. Rất nhiều người đã lên án tác giả. Trong lĩnh vực khoa học nhân văn, tôi xin trình bày những ý kiến sau:
Tướng Trì Hạo Điền nói:
 “Như mọi người đều biết, theo quan điểm truyền bá của các học giả phương Tây, toàn thể loài người trên Trái Đất có nguồn gốc chung từ một người mẹ duy nhất ở Châu Phi. Như vậy, không một chủng tộc nào có thể tự nhận mình là chủng tộc siêu đẳng nhất. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu của đại đa số các học giả Trung Quốc, người Trung Quốc khác với các chủng tộc khác trên thế giới. Chúng ta không có nguồn gốc từ Châu Phi. Trái lại, chúng ta có nguồn gốc độc lập trên đất Trung Quốc. Nguời Bắc Kinh ở Chu Khẩu Điếm mà tất cả chúng ta đều bắt nguồn từ đó đại diện cho một giai đoạn tiến hoá của tổ tiên chúng ta.
Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa
Trước đây, chúng ta thường nói rằng nền văn minh Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Nhưng hiện nay, rất nhiều chuyên gia nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khảo cổ học, văn hóa sắc tộc, và văn hoá khu vực đã đi tới một sự thống nhất rằng các phát hiện mới như nền văn hoá Hongshan ở vùng Đông Bắc, nền văn hoá Liangzu ở tỉnh Chiết Giang, các phế tích Jinsha ở tỉnh Tứ Xuyên, và khu di tích văn hoá đế chế Yongzhou ở tỉnh Hồ Nam tất cả đều cho thấy bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh tiền Trung Quốc, và chúng khẳng định rằng riêng lịch sử canh tác lúa đã có từ 8.000-10.000 năm truớc đây. Điều này bác bỏ quan niệm về lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc…
Bởi vậy, chúng ta có thể xác định rằng chúng ta là sản phẩm của nền văn hoá có nguồn gốc từ cách đây hơn 1 triệu năm, nền văn minh và tiến bộ với lịch sử hơn 10.000 năm, một dân tộc có 5.000 năm lịch sử, và một thực tế Trung Quốc với lịch sử hơn 2.000 năm. Đó là dân tộc Trung Quốc tự gọi mình như vậy. Là dòng dõi của Viêm và Hoàng, dân tộc Trung Quốc mà chúng ta tự hào thuộc về dân tộc đó. Nước Đức Hitle đã từng kiêu hãnh tự coi mình là chủng tộc siêu đẳng nhất trên Trái đất, nhưng thực tế là dân tộc chúng ta còn siêu việt hơn người Đức rất nhiều.”
Trước hết cần xác định, phát biểu của ông tướng họ Trì có phù hợp với khoa học không? Ở đây cần trả lời hai câu hỏi:
1. Người Trung Quốc có phải là hậu duệ của Người vượn Bắc Kinh không?
Tài liệu khảo cổ học thế giới ghi rằng, năm 1920, kỹ sư mỏ người Thụy Điển Anderson phát hiện cốt sọ người sống 7000 năm trước ở di chỉ Ngưỡng Thiều phía nam Hoàng Hà. Do hình thái sọ rất giống người Trung Quốc hiện đại nên giới khoa học nhận định, người Ngưỡng Thiều là tổ tiên của người Trung Quốc. Sau đó, vị kỹ sư này còn khai quật di chỉ Chu Khẩu Điếm ở phía Bắc Bắc Kinh, khám phá cốt sọ hoá thạch 600.000 năm của người Đứng thẳng Homo erectus, được đặt tên là Người vượn Bắc Kinh Homo pekinensis. Cũng tại đây còn tìm thấy cốt sọ của người hiện đại Homo sapiens 27.000 năm tuổi. Do trong cùng một vùng địa lý, khám phá được người Đứng thẳng, người hiện đại sớm và người hiện đại muộn nên giới khoa học đồng thuận cho rằng, con người đã từ Người vượn Bắc Kinh chuyển hóa thành người hiện đại sớm rồi người hiện đại muộn. Từ đây, thuyết đa vùng của tổ tiên con người (Multigegional hypothesis) được củng cố: từ Người vượn Bắc Kinh tiến hóa thành người Mongoloid, chủ nhân của châu Á. Trong khi đó, ở châu Âu, Người đứng thẳng Neanderthal tiến hóa thành tổ tiên người châu Âu.
Tuy nhiên, vào thập niên 1970, các khai quật khảo cổ cho thấy, 250.000 năm trước, Người  đứng thẳng tuyệt diệt trên đất liền châu Á. Vết tích cuối cùng của họ được tìm thấy khoảng 200.000 năm trước tại Ngandong Indonesia. Từ đó dẫn tới hoài nghi: do vắng mặt ở châu Á từ rất lâu trước nên không thể có chuyện người vượn Bắc Kinh chuyển hóa thành người hiện đại. Vào những năm cuối thế kỷ XX, di truyền học khám phá: trong bộ gen người châu Âu hiện đại chỉ có từ 1 đến 2% gen của người Neanderthal, là kết quả của sự giao phối chéo khi hai loài sống chung với nhau khoảng 30.000 năm trước. Điều này khẳng định, Người đứng thẳng chỉ là họ hàng xa mà không phải là tổ tiên của loài chúng ta. Với phát hiện vững chắc này của di truyền học, thuyết đa vùng của nguồn gốc loài người bị bác bỏ. Thuyết ra khỏi châu Phi (Out of Africa ) được thừa nhận: người hiện đại Homo sapiens xuất hiện tại châu Phi 200.000 năm trước.
Do không có chuyện Người đứng thẳng chuyển hóa thành người hiện đại nên cũng không có chuyện người vượn Bắc Kinh hóa thành người Trung Quốc. Phát biểu của ông Trì Hạo Điền đưa tới hai hệ quả:
- Một là sai về mặt khoa học.
- Thứ hai, nếu đúng thì người Trung Quốc là hậu duệ của Người vượn, một loài ở bậc tiến hóa thấp hơn loài chúng ta. Cố nhiên, về sinh học, người Trung Quốc thuộc loại thấp kém chứ không hề siêu việt! Tự nhận là hậu duệ của một loài thấp kém nhưng lại vỗ ngực cho là mình ưu việt là việc làm ngu xuẩn hết phần thiên hạ!
2. Tổ tiên người Trung Quốc là ai?
Năm 2001 người ta phát hiện tại hang Điền Nguyên thành phố Chu Khẩu Điếm những mảnh xương ống chân của con người sống khoảng 40.000 năm trước nhưng không biết đó là ai? Năm 2013 nhờ di truyền học vào cuộc đã khám phá, đó là người đàn ông khoảng 40 tuổi, là tổ tiên các dân tộc Đông Á: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và cũng là thủy tổ của người bản địa châu Mỹ.
Khi nghiên cứu sâu hơn, khoa học phát hiện, người đàn ông này là người Việt cổ thuộc chủng Australoid đã từ Việt Nam đi lên Nam Hoàng Hà 40.000 năm trước. Từ đó người Việt cổ chiếm lĩnh Hoa lục và làm nên các nền văn hóa rực rỡ như Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây là nơi sáng tạo công cụ gốm đầu tiên của nhân loại 20.000 năm và thuần hóa lúa nước 12.400 năm trước; Giả Hồ 9000 năm trước, Hà Mẫu Độ 7000, Ngưỡng Thiều 7000 năm trước. 7000 năm trước, tại Ngưỡng Thiều, người Việt cổ chủng Australoid tiếp xúc, hòa huyết với người Mongoloid ở phía bờ Bắc (cũng từ Việt Nam đi lên 40.000 năm trước), sinh ra chủng người Nam Mongoloid (South mongoloid), được nhân học gọi là người Việt hiện đại, chủ nhân văm hóa Ngưỡng Thiều và Long Sơn. Trong quá trình lịch sử, nhất là sau cuộc xâm lăng của Hiên Viên vào Nam Hoàng Hà năm 2698 TCN, người Việt hiện đại di tản về phương Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa người Việt cổ sang chủng Mongoloid phương Nam, làm nên dân cư Nam Trung Quốc, Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay.
Người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam ở lại Nam Hoàng Hà, một phần làm dân cư vương triều Hoàng Đế, một phần thành dân cư nhà nước Dương Việt, Đông Di… sau là người nước Sở. Khi Lưu Bang lập quốc, được gọi là người Hán. Do cùng chủng tộc Mongoloid phương Nam nên khi nhà Hán mở rộng lãnh thổ, dân cư những vùng mới chiếm đều trở thành người Hán. Như vậy, về mặt sinh học, người Hán chính là người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam do hậu duệ của người Việt sinh ra 7000 năm trước ở lưu vực Hoàng Hà. Còn người Việt Nam, được sinh ra từ tổ tiên 70.000 năm trước nên có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất trong dân cư châu Á. Như vậy, về mặt nòi giống, theo cách nói của ông tướng họ Trì, người Việt Nam phải “ưu việt” hơn người Trung Quốc!
3. Một nền giáo dục thất bại.
Khổng Tử, được người Trung Quốc tôn là vạn thế sư biểu có nói: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Lễ là sự đối xử nhân ái với con người, tôn trọng, yêu thương con người. Nền giáo dục tạo nên những kẻ vô nhân tính như Trì Hạo Điền là nền giáo dục thất bại về LỄ, điều lớn nhất trong phẩm cách con người. Nhưng về VĂN trong ý nghĩa tri thức, cho thấy họ Trì cũng là kẻ dốt nát, thiếu kiến thức sơ đẳng về khoa học nên lầm lẫn lung tung, cũng là sản phẩm của nền giáo dục thất bại. Trong khi từ chối nguồn gốc châu Phi của cộng đồng nhân loại thì lại nhận (vơ) Người vượn làm tổ tiên! Trái ngược với họ Trì, tuy là trưởng lão của dân cư châu Á nhưng người Việt Nam không bao giờ tự nhận là ưu việt về nòi giống. Cho đến nay, người Việt Nam vẫn giữ được phẩm tính mà Khổng Tử từng ngợi ca “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo” là lấy sự khoan dung mà dạy dỗ, không thù ghét kẻ vô đạo. Không phải nòi giống, chính phẩm tính nhân văn làm nên sự ưu việt của người Việt Nam.
                                               Sài Gòn Xuân Canh Tý.
 
THƯ NGỎ GỬI GIÁO SƯ LƯƠNG ĐÌNH VỌNG
Đọc bài Trung Quốc nghiên cứu lịch sử phục vụ mưu đồ chính trị *trên trang Nghiên cứu quốc tế, phê bình cuốn sách “Phương quốc Lạc Việt nghiên cứu”của Giáo sư Lương Đình Vọng, chúng tôi muốn thưa đôi điều cùng giáo sư.
Thưa Giáo sư,
Chúng tôi là người Lạc Việt, sinh ở Việt Nam. Như vậy, chúng ta cùng dòng tộc, cùng một bọc, là đồng bào. Được biết ông là sử gia tên tuổi, xin được hỏi: người Lạc Việt là ai, có nguồn gốc thế nào?
Có thể ông sẽ giở cổ thư và trưng ra những dòng mà ông được dạy từ tấm bé:“Tại thời Hạ, Thương, trong quần thể dân tộc Hoa Hạ bao hàm tổ tiên Thủy tộc”.“Nhưng sớm nhất là thời kỳ Thương Ân đã có văn tự của tộc Thủy. Kể từ đó, như một kết quả của hai hoạt động đại di cư quốc gia, khiến ngôn ngữ văn hóa của Thủy tộc xuất hiện, do phân hóa từ một nguồn chung, sau đó hấp thụ hội nhập dần dần của hiện tượng này”.(1)
Nhưng đó là sự dối trá tệ hại của sử gia Đại Hán. Hôm nay, chúng tôi xin thưa với ông sự thực về tộc Lạc Việt, không phải lấy từ Sử ký, Hán thư mà do đọc cuốn thiên thư DNA được tạo hóa ghi trong máu huyết dòng tộc chúng ta.
70.000 năm trước, trong Kỷ Băng hà, hai đại chủng người Khôn ngoan Australoid và Mongoloid từ châu Phi di cư đến Việt Nam. Trên đất Việt, người tiền sử hòa huyết sinh ra bốn chủng người Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng mang mã di truyền Australoid. Trong đó người Indonesian là đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ, sau này được gọi là Lạc Việt. 40.000 năm cách nay, do khí hậu ấm lên, người Việt Nam đi lên Quảng Đông rồi từ đây lan tỏa ra chiếm lĩnh Hoa lục. Đất Quảng Đông trở thành nơi phát tích của người Trung Quốc.
Đấy là bức tranh chung của dân cư Đông Á. Còn người Lạc Việt thì sao? Trên Bản đồ phân bố dân cư Trung Quốc, bốn dòng người từ Việt Nam đi lên chiếm 93%, trong đó người Lạc Việt được biểu thị bằng Haplogroup O, chiếm 60% dân số Trung Quốc. (2) 
Từ 22.000 năm trước, tại Hòa Bình, người Lạc Việt sáng tạo công cụ đá mới. Tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây, 20.000 năm trước, tổ tiên chúng ta chế tác đồ gốm và 12.400 năm cách nay thuần hóa cây lúa nước sớm nhất trên thế giới. 9000 năm trước, tại Giả Hồ, người Việt sáng tạo những ký tự đầu tiên khắc trên yếm rùa, sau này là chữ trên xẻng đá Cảm Tang… Khoảng 7000 năm trước, trên bờ Nam Hoàng Hà, người Lạc Việt sáng tạo văn hóa trồng lúa, trồng kê Ngưỡng Thiều. Tại đây tổ tiên ta gặp gỡ người du mục Mông Cổ bên bờ Bắc để trao đổi hàng hóa. Việc hôn nhân luyến ái diễn ra, lớp con lai Mông-Việt ra đời, được gọi là người Việt hiện đại, mang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Người Việt hiện đại tăng số lượng, dần thay thế người Australoid, thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà, sáng tạo văn hóa Long Sơn, xây dựng hai trung tâm văn hóa rực rỡ Thái Sơn và Trong Nguồn (đồng bằng Hán Thủy), sau này là cộng đồng người Hán. 
Bản đồ phân bố các nhóm người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục (O: Indonesian, C: Melaanesian, N: Mongoloid và D: Negritoid) 
(Chuan-Chao Wang, Hui Li. Inferring human history in East Asia from Y chromosomes,
Trong sách của mình ông viết: “Người Lạc Việt từng giương buồm đi đến tận châu Mỹ và là chủ lực khai phá ‘con đường tơ lụa trên biển’ đi về phía tây. Trạm dừng đầu tiên của họ là đông bắc đảo Sumatra (Indonesia). Trạm thứ 2 ở gần Bago (Myanmar). Trạm thứ 3 ở ven sông Ayeyarwady (Myanmar). Trạm thứ 4 và 5 tại Ấn Độ, Malacca, Sri Lanka. Con đường này kéo dài tới Tanzania ở châu Phi.”
Điều này hoàn toàn đúng. Không chỉ có vậy. Khoảng 7500 năm trước, trong đại hồng thủy, người Lạc Việt tổ tiên chúng ta từng mang giống vật nuôi, cây trồng và tư tưởng về nông nghiệp tới Cận Đông và Madagasca, gây mầm cho văn minh nông nghiệp ở phương Tây. (3) Còn sự thật này có lẽ ông chưa bao giờ ngờ tới: Do người Việt là tổ tiên của người Trung Hoa nên tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói Trung Hoa, chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa và văn hóa Việt là chủ thể làm nên văn hóa Trung Hoa. Người Trung Hoa là lứa con sinh sau đẻ muộn của người Lạc Việt khoảng 7000 năm trước!
Điều ông viết: “Ngay từ thời Thương-Chu (khoảng năm 1300 TCN)… tuân theo lệnh của các vương triều trung ương, ‘Phương quốc’ này đã khai phá và quản lý vùng Lĩnh Nam và Nam Hải” thì không phải là sự thật.
Sử cũ không hề nhắc đến Phương Quốc Lạc Việt mà chỉ nói thoáng qua về Việt Thường thị. Cuốn sách sớm nhất nhắc tới Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”
Tuy Việt Thường không phải là Phương quốc nhưng tư liệu trên cũng cho thấy, liên hệ của người Lạc Việt với nhà Chu rất hạn chế, khiến hoàng đế nhà Chu, là người trọng danh dự và sự thật đã nói: “Chính lệnh không tới thì không coi người ta là bề tôi của mình!” Sau lần cống chim trĩ, sử không nhắc gì tới Việt Thường hay quốc gia nào của người Lạc Việt nữa. Do vậy, hoàn toàn không có chuyện “triều đình trung ương quản lý” một quốc gia của người lạc Việt!
Có điều chắc chắn rằng, tổ tiên chúng ta cùng là dân của nhà nước có kinh đô Lương Chử, được tổ Thần Nông thành lập 5300 năm trước. Khảo cổ khám phá, người Lương Chử là người Lạc Việt, là Vũ nhân hay Vũ dân, thờ vật tổ kép chim và thú. Từ đó ta biết, tổ tiên chúng ta là Hồng Bàng thị và chúng ta thuộc nòi giống Tiên Rồng.
Khi 50 vạn quân Tần xuống Lĩnh Nam, người Lạc Việt trong đó có dân Quảng Tây tổ tiên ông chiến đấu kiên cường, giết tướng Đồ Thư góp phần làm nhà Tần sụp đổ. Nhưng rồi khi những đội quân Hán tàn bạo tràn tới, giang sơn bị chiếm đoạt, người Lạc Việt bị biến thành nô lệ. Năm 39, khi Vua Bà phất cờ khởi nghĩa thì 60 thành trì trên đất Lĩnh Nam hưởng ứng, đập tan ách đô hộ của nhà Hán. Đến nay, khắp Giang Nam còn hàng trăm nơi thờ Vua Bà.
Trong khi Việt Nam bị chiếm đóng thì tổ tiên của ông do không chịu làm tôi mọi cho ngoại bang, đã lui vào sống trong rừng núi. Thế là bi kịch xảy ra: từ cộng đồng đa số làm chủ giang sơn gấm vóc rộng lớn thì bất hạnh thay, đất nước chúng tôi thành thuộc địa, tổ tiên chúng tôi bị biến thành nô lệ. Còn tổ tiên của ông trở thành di, mọi, phải trốn vào rừng sâu, trở thành sắc dân thiểu số… Tuy có như vậy thì gần 2000 năm dưới các triều đại quân chủ, người Lạc Việt trên đất Trung Hoa vẫn giữ được văn hóa cùng tiếng nói của mình. Nhưng chỉ từ khi cộng sản nắm quyền, bằng chính sách đồng hóa khắc nghiệt, tiếng Lạc Việt bị cấm, thế hệ các ông cùng con cháu buộc phải nói quan thoại. Ông có biết rằng, do quan thoại nghèo nàn nên dân Việt ở Nam Dương Tử dần bỏ mất khoảng 30% tiếng nói quý giá của tổ tiên Lạc Việt? Với thời gian, các ông đã thành người Hán, nhưng là Hán hạng hai dưới sự giám sát của những quan chức từ phương Bắc xuống. Họ dùng các ông nhưng không tin vì dòng máu lạc Việt vẫn chảy trong huyết quản các ông… Trong khi đó, bằng sự quật cường của dòng máu Lạc Việt, Việt Nam chúng tôi đã tự giải phóng, giữ được mảnh đất hương hỏa cuối cùng cho nòi giống.
Thưa ông Vương, phẩm chất đầu tiên của con người là trung thực. Là người viết sử, trung thực càng phải đặt lên hàng đầu. Trong cuốn sách của ông, việc một “Phương quốc Lạc Việt” từ 1300 năm TCN chịu sự “quản lý của vương triều trung ương” là sự dối trá tệ hại, là sự xúc phạm đối với tổ tiên Lạc Việt, những người từ xa xưa phải bỏ vào sống trong rừng để “bất cộng đái thiên” với kẻ thù. Nay là người Trung Quốc, viết điều gì là quyền của ông. Là người Lạc Việt nên chúng tôi rất trân trọng văn hóa Lạc Việt. Cuối năm 2011, khi đồng bào Lạc Việt Quảng Tây khám phá ra chữ trên xẻng đá Cảm Tang, chúng tôi mừng muốn khóc, vội vã công bố trên các phương tiện truyền thông và sử dụng ngay thành tựu đó cho nghiên cứu. Chúng tôi đã từng nói một cách hình tượng: Nếu ví con người cùng văn hóa phương Đông như một đại thụ thì gốc rễ của nó ở Việt Nam, còn cành nhánh cùng hoa thơm trái ngọt lại nảy nở trên đất Trung Hoa. Chúng tôi mong muốn học hỏi, hiểu biết những khám phá về văn hóa Lạc Việt trên đó để hiểu thêm về dòng tộc của mình. Do vậy, những khảo cứu và khám phá của ông về văn hóa Lạc Việt rất quý giá. Nhưng những cái viết ra chỉ thực sự giá trị khi là chân, thiện, mỹ. Mong rằng dòng máu Lạc Việt đang chảy trong huyết quản sẽ luôn nhắc ông nhớ tới cội nguồn.
Chúc ông sức khỏe và gia tăng tuổi thọ.
Kính thư
Nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Hà Văn Thùy
Sài Gòn, 25.8.2019
*Nguyễn Hải Hoành:
 
Lương Đình Vọng (Liang Tingwang 梁庭望) sinh 1937, dân tộc Tráng, nguyên Phó Hiệu trưởng trường Đại học Dân tộc Trung ương, giáo sư, sử gia nổi tiếng chuyên về văn hóa lịch sử các dân tộc thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng,[2] tức ngữ tộc của tộc Lạc Việt.
 
Tài liệu tham khảo                                                           
Chuan-Chao Wang, Hui Li. Inferring human history in East Asia from Y chromosomes,            https://investigativegenetics.biomedcentral.com/articles/10.1186/2041-2223-4-11
Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở phương Đông-lục địa Đông Nam Á bị chìm. NXB Lao Động. HN, 2004.
 
 
TRÍ TUỆ VIỆT Ở ĐÂU?
Công bố “Người Kinh và người Thái có hệ gien tương đồng cao và quan hệ tiến hóa gần gũi, nhưng lại độc lập với người Hán” của Viện Nghiên cứu tế bào gốc - công nghệ gien Vinmec (VRISG) đã gây xôn xao công luận, khiến không ít người hoang mang. Để sáng tỏ vụ việc, ngày 17.8.2019 tạp chí Tia sáng - diễn đàn của trí thức Việt Nam - tổ chức Tọa đàm Khoa học “Nguồn gốc người Việt: Từ khảo cổ học đến khảo cổ học tri thức” với hai diễn giả là Tiến sỹ Khảo cổ học Nguyễn Việt và Tiến sỹ Hán Nôm, nhà nghiên cứu cổ sử Trần Trọng Dương.
Theo báo Thanh Niên, TS Trần Trọng Dương không nói ai đúng ai sai, mà để ngỏ câu trả lời. Ông nói: “Chúng ta đang trượt giữa những khung khổ tư duy khác nhau. Những tri thức lịch sử đã “găm” vào đầu chúng ta là những sản phẩm đã được kiến tạo qua các thời kỳ khác nhau.” Và “Ông Dương ví dụ, trong cuốn Dư địa chí viết năm 1435, Nguyễn Trãi đã để Triệu Đà là người mở ra triều đại đầu tiên ở VN. Nhưng chỉ khoảng hơn 40 năm sau, năm 1479, Ngô Sĩ Liên vâng mệnh vua Lê Thánh Tông nhằm kéo dài và củng cố tính chính thống trong lịch sử của nhà Lê dưới hệ tư tưởng Nho giáo đã mở rộng chiều dài lịch sử vượt qua của triều đại Triệu Đà, Hùng Vương, Kinh Dương Vương tới Thần Nông. Điều này cho thấy việc nhìn nhận “sự thật lịch sử” còn cần đặt trong bối cảnh thời kỳ lịch sử với những hệ tư tưởng, quyền lực... khác nhau. TS Trần Trọng Dương cũng lấy ví dụ về việc nhìn nhân vật lịch sử Triệu Đà: “Qua các thời kỳ khác nhau, dưới các ý thức hệ khác nhau, dưới các quyền lực khác nhau, diễn ngôn khác nhau, dưới các hoàn cảnh, Triệu Đà luôn được kiến tạo, nhận thức, tái nhận thức nhằm cho các khuôn khổ ý thức hệ từng thời kỳ”.
Còn theo tạp chí Tia sáng, dưới góc độ nhà khảo cổ, Tiến sỹ Nguyễn Việt phát biếu: “Không lạm dụng khái niệm người Việt và để tránh “tự làm khó mình” – vướng vào cái nhìn thiển cận, trước tiên cần làm rõ một số khái niệm. Chẳng hạn khái niệm “Việt”, hiện nay được dùng rất “dễ dãi” để chỉ chung cho rất nhiều nền văn hóa khảo cổ là chưa chính xác: đào được di vật của Homo erectus (người đứng thẳng ) hoặc văn hóa Hòa Bình (khoảng 15000 năm trước) đều khẳng định là “người Việt” trong khi họ chưa hình thành các cộng đồng tộc người mà chỉ mới hình thành nhóm cư trú.”
TS Nguyễn Việt khẳng định rằng, “Bình tuyến Phùng Nguyên (bắt đầu khoảng 4000 năm trước) với những cư dân trồng lúa đã phát triển theo một “tuyến đường thẳng và rất đẹp” đến văn hóa Đông Sơn và đến Đại Việt sau này (từ Phùng Nguyên cho đến nay, đặc điểm xương cốt khai quật được không thay đổi) - điều này giúp khẳng định tính bản địa của cộng đồng cư dân trồng lúa ở nước ta từ sớm. Nhưng không thể gán người Việt – là chủ nhân duy nhất cho ngay cả văn hóa Đông Sơn, bởi trong nhận thức của các nhà khảo cổ học thế giới, “trong thời kỳ Đông Sơn và tiền Đông Sơn, thì Thái và Việt là một, tất cả khối Lạc Việt, Tây Âu, hay Tày Thái cổ… đều là ‘Yue’”. Các khái niệm tộc người cụ thể, gắn với một quốc gia cụ thể đều xuất hiện muộn sau này. Nên hơn cả là gọi tên chủ nhân của các nền văn hóa khảo cổ theo tên của nền văn hóa khảo cổ đó. Ví dụ trong phạm vi văn hóa Đông Sơn thì gọi người Đông Sơn, trong phạm vi Âu Lạc thì gọi là người Âu Lạc, bởi vì khái niệm đó có tính bao trùm.”
“Vấn đề nhà nước đầu tiên của người Việt cổ cũng thường bị hiểu nhầm, khi nhiều người băn khoăn rằng - liệu dưới thời Hùng Vương đã có một nhà nước – với đầy đủ các ban bệ của một triều đình hay chưa. “Đừng nhầm 4000 năm lịch sử với 4000 năm văn hiến, thời điểm có bộ máy, thể chế, thu thuế… phải đến Âu Lạc”, TS Nguyễn Việt lưu ý. “Thời kỳ chúng ta gọi là Hùng vương là một thời kỳ có thật, nhưng không phải là một triều đình có vua như cách ta nghĩ, mà chỉ là có ông thủ lĩnh đáng kính thu hút được cư dân trong một nhóm mà thôi”.
Như vậy là qua ý kiến của hai vị tiến sỹ, câu hỏi của ban tổ chức chưa được giải đáp! Vì sao vậy? Phải chăng như lời PGS.TS Nông Văn Hải, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hệ gene: “Đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp”, và ngành gene hay các ngành khác cũng “chỉ như thầy bói xem voi”?
Theo chúng tôi, đây là vấn đề phức tạp nhưng không phải không giải quyết được! Nguyên nhân là do những nhà chuyên môn nhìn theo góc độ hẹp mà thiếu cách nhìn toàn diện, tổng thể để thấy được vấn đề.
Trước hết là Tiến sỹ Trần Trọng Dương. Ngay từ đầu ta thấy ông đã hỏng về phương pháp luận khi “khảo cổ học tri thức.” Ông nói: “Chỉ khi nào ta hệ thống hóa được các nguồn sử liệu nguyên ngữ với những niên đại tuyệt đối, thì khi ấy ta mới có thể tiến hành nghiên cứu một cách cẩn thận về một lịch sử tư tưởng về những cộng đồng người mà nay gọi là “người Việt.”” Vâng, dù cuộc “khảo cổ” của ông thành công mỹ mãn, lôi được toàn bộ văn bản cổ đặt trên bàn thì những tư liệu đó cũng không cho ông hiểu về “người Việt.” Bởi lẽ chữ là do con người viết ra. Sử gia Hoa Hạ của 1000 hay 2000 năm trước gọi những người sống ngoài cương vực của mình là Man, Miêu, Cửu Lê, là Yue… Nhưng họ làm sao biết “Yue” là ai, có nguồn gốc thế nào? Mặc dù có tới “nhị thập tứ sử” thì những đại công trình ấy cũng chẳng cho người Trung Quốc biết tổ tiên họ là ai, từ đâu ra? Với sử gia người Việt vốn sinh sau đẻ muộn càng không thể! Do vậy, việc “khảo cổ tri thức” (xin lỗi, nói “khảo cổ học tri thức” có lẽ không chuẩn. Chính xác phải là “khảo cổ học văn bản”) để tìm ra nguồn gốc người Việt là điều hoang tưởng! Không, để có thể hiểu về người Việt phải cần toàn bộ tri thức nhân loại, không chỉ văn tự mà còn khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học và tri thức hiện đại nhất là di truyền học. Không chỉ vậy, do thông tin thay đổi hàng ngày, hôm nay đã khác hôm qua nên tài liệu phải liên tục được cập nhật! Trong thế giới thông tin lưu chuyển đến chóng mặt mà ngồi đấy “khảo cổ học tri thức”từ hàng nghìn năm trước để tìm cội nguồn người Việt, khác nào leo cây tìm cá?
Tiến sỹ Nguyễn Việt là nhà khảo cổ có tiếng. Ý kiến trên không phải chỉ là mối bận tâm của riêng ông mà cũng là băn khoăn của nhiều trí thức quan tâm tới lịch sử. Tuy nhiên do khu cứ trong chuyên môn hẹp của mình, ông chưa bao quát được thành tựu của nhân học và văn hóa học. Sự thật là vấn đề ông quan tâm từ lâu đã được giải quyết. Sau một thời cho rằng người Đứng thẳng tiến hóa thành người Khôn ngoan, khoa học đã sửa sai khi xác định, người Đứng thẳng chỉ là họ hàng xa của loài chúng ta. Họ đã hoàn toàn biến mất khỏi châu Á 250.000 năm trước. Vì vậy, việc nhét họ vào chung cái bị “người Việt” là phản khoa hoc, đi ngược với trí tuệ nhân loại. Từ năm 1983, trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa đã viết: “Thoạt kỳ thủy trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ lai giống với nhau và con cháu họ lai giống tiếp sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Sang thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện, trở thành chủ thể dân cư, người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa?”(1) Với những dòng trên, nhà nhân học hàng đầu Việt Nam chỉ ra: người Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút cùng một chủng người Việt cổ  Australoid. Người từ văn hóa Phùng Nguyên đến chúng ta cùng chủng người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Điều này có nghĩa, dân cư trên đất Việt Nam từ xưa đến nay là một dòng liên tục, từ người Việt cổ sang người Việt hiện đại. Do vậy, gọi dân cư sống từ xa xưa tới nay trên đất Việt Nam là người Việt hoàn toàn chính xác.
Tộc danh Việt cũng từ lâu được xác định. Nửa thế kỷ trước, học giả Kim Định khám phá, sau khi sáng tạo ra những cái búa, cái rìu, cái việt đá mới đầu tiên trên trái đất, người Việt gọi mình là người có búa, người mang búa, mang việt rồi định danh thành người Việt (). Khoảng 10.000 năm trước, khi làm chủ cây lúa nước, người Việt bên bờ Dương Tử gọi mình là người Việt chủ nhân cây lúa (). Và khi làm ra những cây búa đồng, người Việt viết tên mình bằng Việt bộ Tẩu (). Khi hiểu nguồn gốc người Việt cùng tộc danh Việt như vậy, mọi chuyện sẽ trở nên rõ ràng.
Trong Tọa đàm, hai diễn giả chưa tìm ra nguồn gốc người Việt, chưa chỉ ra công bố của Vinmec đúng hay sai. Không thể trách hai vị tiến sỹ vì chuyên môn của họ chỉ cho họ thấy cây mà không thấy rừng. Trong khi đó, chuyện này từ lâu đã được thế giới giải quyết.
Năm 1992, S.W. Ballinger và cộng sự thuộc Hiệp hội Di truyền học Hoa Kỳ, sau khi giải mã DNA 143 bộ gen của bảy cộng đồng dân cư châu Á, đã công bố: “Tất cả các quần thể châu Á đã được tìm thấy để chia sẻ hai đa hình AluI / DdeI cổ đại ở nps 10394 và 10397 và giống nhau về mặt di truyền chỉ ra rằng chúng có chung một tổ tiên. Sự đa dạng mtDNA lớn nhất và tần số mtDNA cao nhất với HpaI / HincII morph 1 đã được quan sát thấy ở người Việt Nam cho thấy nguồn gốc Mongoloid của người châu Á.”( All Asian populations were found to share two ancient AluI/DdeI polymorphisms at nps 10394 and 10397 and to be genetically similar indicating that they share a common ancestry. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians.) (2). Một khi người châu Á cùng có nguồn gốc Mongoloid thì không thể di truyền người Việt khác người Hán
Năm 2009, công trình Genetic 'map' of Asia's diversity (Bản đồ gen về sự đa dạng sinh học dân cư châu Á), của Liên minh SNP Pan-Asian thuộc Tổ chức bộ gen người (HUGO), tập hợp 90 nhà di truyền hàng đầu châu Á, giải trình tự 2000 bộ gen châu Á (hơn sáu lần quy mô khảo cứu của Vinmec) đã khẳng định:
"Có vẻ như từ dữ liệu của chúng tôi nói rằng họ đã vào Đông Nam Á trước tiên - làm cho các quần thể nơi này già hơn [và do đó đa dạng hơn]," ông nói tiếp: "Sau đó có lẽ họ đi chậm hơn về phía bắc, với sự đa dạng bị mất trên đường đi trong những dân cư 'trẻ hơn' này. "Vì vậy, mặc dù dân Trung Quốc rất đông, nhưng nó có ít sự đa dạng hơn so với số người sống ở Đông Nam Á nhỏ hơn, bởi vì sự mở rộng của Trung Quốc xảy ra rất gần đây, theo sự phát triển của nông nghiệp lúa nước - chỉ trong vòng 10.000 năm qua."
(It seems likely from our data that they entered South East Asia first - making these populations older [and therefore more diverse]," he said. "[It continued] later and probably more slowly to the north, with diversity being lost along the way in these 'younger' populations. So although the Chinese population is very large, it has less variation than the smaller number of individuals living in South East Asia, because the Chinese expansion occurred very recently, following the development of rice agriculture - within only the last 10,000 years.)
Và:
“Dân cư khắp châu Á giống nhau về mặt di truyền. Kiến thức này sẽ giúp các nghiên cứu di truyền trong tương lai ở lục địa và giúp thiết kế các loại thuốc để điều trị các bệnh mà dân cư châu Á có thể có nguy cơ cao hơn. Và việc phát hiện ra di sản di truyền chung này, ông nói thêm, là một "thông điệp trấn an xã hội ", rằng "đã xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc từ những nghiên cứu sinh học"”.
(Dr. Liu said that it was "good news" that populations throughout Asia are genetically similar. This knowledge will aid future genetic studies in the continent and help in the design of medicines to treat diseases that Asian populations might be at a higher risk of. And the discovery of this common genetic heritage, he added, was a "reassuring social message", that "robbed racism of much biological support".) 3
Công bố của HUGO có ý nghĩa lớn, nó "đã xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc từ những hỗ trợ sinh học." Không những chỉ ra dân cư châu Á cùng một chủng tộc, được phát tích từ đất Việt Nam, nó cũng bác bỏ quan niệm mà các vương triều Trung Hoa áp đặt từ 2000 năm trước: người Trung Hoa là thiên tử, con giời, còn người Việt và các dân tộc châu Á khác là man, mọi. Trong khi đó, công bố của Vinmec “gen người Việt độc lập với người Hán” không chỉ trái ngược với khoa học thế giới mà có thể tạo điều kiện cho những cái đầu bá quyền Đại Hán lợi dụng để tiếp tục coi người Việt là giống hạ đẳng man, mọi?
Dựa vào một số công bố khoa học cho rằng, người châu Phi theo con đường phương Bắc tới làm nên dân cư phương Đông, một số học giả Trung Quốc đưa ra chủ trương: “Người từ châu Phi tới Trung Quốc làm nên cộng đồng Bách Việt mà người Hán là trung tâm còn Việt Nam là đám ly khai,” Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ngay giữa Hà Nội dạy người Việt “lãng tử hồi đầu!”Người Việt nín khe không biết cách đáp trả!
Một đất nước có hàng chục viện hàn lâm với hàng nghìn giáo sư, tiến sỹ. Nhưng khi có việc thì tất cả bối rối “chỉ như thầy bói xem voi”?  Vậy trí tuệ Việt ở đâu?
                                                                            
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Đình Khoa. Di truyền học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN. H. 1983)
2.S.W. Ballinger et al. Southeast Asian Mitochondrial DNA Analysis Reveals Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migrations.
3. Genetic 'map' of Asia's diversity. http://news.bbc.co.uk/2/hi/8406506.stm
Sài Gòn, Thu 2019
 
SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA TRÍ TUỆ PHƯƠNG TÂY
 
Tương truyền, sau khi Sokrates qua đời, học trò của ông ở thành Athena dựng bức tượng thầy trên một mỏm đá mặt nhìn ra biển Egea, hai tay giơ cao, mỗi tay cầm một bó đuốc. Bó đuốc trên tay phải khắc chữ wisdom. Trên tay trái là bó đuốc có chữ Logos. Hai bó đuốc tỏa sáng như ngọn hải đăng dẫn lối cho người Hy Lạp và cả phương Tây bước đi dưới ánh sáng của Minh triết và Thần ngữ.
Nhưng rồi vào lúc nào đó, bó đuốc trên tay phải tắt ngấm, chỉ còn lại bó đuốc trên tay trái. Tin ở người dẫn lối thông tuệ, 2500 năm phương Tây mải miết theo con đường triết học duy lý. Thơ ca, âm nhạc, hội họa bị khinh rẻ đuổi khỏi diễn đàn, chỉ còn những triết gia kinh viện ngự cao vời trên đỉnh Olimpia, mài sắc lưỡi cùng ngòi bút để triết lý về những điều tưởng chừng cao siêu, nhưng nói như Voltaire: “ (Triết học) chỉ là xuyên tạc đời sống, nó chỉ là thức ăn nuôi trí tò mò của con người.”
            Trong cuốn sách mang tên Đại thiết kế (The Grand Design-2010), Stephen Hawking khẳng định: Triết học đã chết- Philosophy is dead! Điều này không bất ngờ, vì đó chỉ là sự khái quát ở mức cao hơn một nhận định trước đó, có hơi hướng mỉa mai, cũng của chính ông trong cuốn sách rất nổi tiếng khác – Lược sử thời gian (A Brief History of Time - 1988) , rằng: nhiệm vụ còn lại của Triết học chỉ là trò phân tích ngôn ngữ! Tuy nhiên không phải S. Hawking là người đầu tiên đưa ra ý tưởng này. Hơn trăm năm trước, Nietzsche (1844 – 1900) từng cảnh báo: “Hồn sâu xa của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Đông Phương huyền bí nên cũng có một dòng huyền niệm đi liền với môt dòng tư duy sáng sủa. Huyền niệm tượng trưng bằng thần Dyonisus. Còn thần Apollo có tên là sáng láng, thần của ánh hào quang, của hình thức với những đường cong rõ rệt.” “cái hồn ấy bị Socrates bóp chết bằng tuyên dương lý trí: lấy ý thức sáng sủa minh nhiên mà xua đuổi năng lực ẩn tàng nên Socrates chỉ biết phê bình mà không hề kiến thiết và ông thiếu hẳn óc huyền niệm bởi năng khiếu biện lý đã được vun tưới đến mức cực đoan nên đã cắt đứt với dòng truyền thống”(1) 
Trong thời điểm triết học đang cực thịnh mà nói như vậy quả là chuyện báng bổ. Nhưng Nietzsche không  cô độc vì sau ông còn có Karl Jaspes (1883 – 1969): “Thời Trục là thời giàu về tinh thần đến tột bực, còn thời ta tuy có những phát minh về máy móc lớn hơn những phát minh Thời Trục, nhưng về mặt tinh thần không gì có thể so sánh được với những suy tư của một Khổng, một Lão, một Thích Ca.” Ông hô hào phải “trở lại những giá trị Thời Trục là thời đã tạo dựng những giá trị truyền thống. Đó là phương thuốc duy nhất để đoàn tụ nhân loại.” (2)
Triết gia thứ ba là Martin Heidegger (1889 – 1976) cho rằng “nền móng siêu hình cổ điển đã sai lạc vì hiểu chữ tính thể thành hiện tượng của sự vật thường nghiệm. Do đó thay vì nói về tính thể u linh, thì Triết học Cổ điển chuyển thành hữu thể, là vật thể tầm thường. Do vậy, Heidegger cho rằng Triết Cổ điển là thiếu căn cơ, tức thiếu nền tảng.”
“Tóm lại, ba triết gia Nietzsche, Jaspes, Heidegger nhận ra rằng, vì những sai lầm của các bậc tiền bối Socrates, Plato, Aristotle mà Triết cổ điển phương Tây bị cắt đứt với truyền thống tâm linh, tức cội nguồn Minh triết của nhân loại, trở thành duy lý, dưới hình thức một tri thức luận, một lĩnh vực chuyên môn nên không có ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống. Bởi lẽ, đời sống có tính cách toàn diện chứ không chỉ giới hạn ở lý trí. Sống đòi hỏi không chỉ có suy tư mà còn biết cảm xúc cũng như cả hành động tiến tới hiện thực. Sau khi tách rời khỏi Minh triết, Triết học không còn đóng nổi vai trò hướng đạo cuộc sống. Trong khi đó, con người vẫn cần phải sống, cần phải được dẫn dắt. Nhưng vì thiếu Minh triết nên người ta phải tạm “xài đỡ” đạo lý đời thường (common sense).  Đó chính là nguyên nhân của tình trạng ngộ nhận giữa Minh triết, Triết học, đạo lý đời thường cùng nhiều thứ khác...”(3) Do vậy, trở về Thời Trục để tìm lại Minh triết trở thành yêu cầu bức thiết.
Tuy nhiên tìm về minh triết lại là bi kịch của trí tuệ phương Tây. Một công việc vô tăm tích như “đi tìm thời gian đã mất” hay như người mất trí nhớ đi tìm lại nguồn cội của mình. Không gì bi hài hơn nếu ta lần theo vết chân của François Jullien, một triết gia hàng đầu đương đại:
“Ở châu Âu hiện nay, từ "sagesse" mà chúng tôi dịch là Minh triết có một nghĩa xấu, tuy vậy người ta có thể hiểu nó theo nghĩa xấu mà cũng có thể hiểu nó theo nghĩa tốt. Về nghĩa xấu thì tiêu biểu là ý kiến của triết gia Wittgenstein (triết gia Anh, gốc Áo), cho rằng "minh triết là một cái gì nguội lạnh và lẩn thẩn". Sau đây là một loại ý kiến đánh giá về Minh triết hiện nay: "Một khi Minh triết là như vậy thì nó thiếu lửa, thiếu sức sống, thiếu sức nóng, thiếu nhiệt, mà khi đã thiếu nhiệt thì nó chỉ che đậy cuộc sống, làm cho người ta không thấy được nó". Đấy là một ý kiến rất coi thường Minh triết. Như vậy, "Minh triết là một thứ tro nguội lạnh, xám xịt, phủ lên lò lửa là sự sống". Trong khi đó Triết học có cái đà của nó, có lửa nhiệt tình của nó. Minh triết khác với Triết học là ở chỗ đấy. Minh triết đi đến chỗ tiêu tan, nguội lạnh. Nhưng ngược lại, Voltaire lại cho rằng Triết học chỉ là xuyên tạc đời sống, nó chỉ là thức ăn nuôi trí tò mò của con người. Voltaire là người đơn độc, ông không có hậu thế để tiếp tục ý kiến của mình. Như vậy vấn đề hiện nay là có hai cách đánh giá về Triết học, về Minh triết: Minh triết che đậy sự sống, còn Triết học thì xuyên tạc sự sống.
Cũng có hai cách đánh giá khác về Minh triết, về Triết học. Có một ý kiến cho rằng Minh triết là trên Triết học, còn có một ý kiến khác nói Minh triết là dưới Triết học. Cách đánh giá Minh triết trên Triết học có từ trước Plato, tức là người ta cho rằng Minh triết là cái gì đó cao hơn Triết học và nó là trí tuệ của thần thánh. Còn Triết học là sự hiểu biết của con người. Con người không vươn được tới Minh triết cho nên bằng lòng với việc là người bạn của Minh triết, là người yêu chuộng Minh triết… Nhưng đến Plato, bắt đầu có một sự đảo ngược lại. Người ta nhận ra Minh triết tự cho là thần thánh, tức là nắm được tất cả, mà nắm được tất cả là mất, bởi vì nắm tất cả thì anh không còn thiếu, mà không còn thiếu gì nữa thì anh không băn khoăn, không lo lắng, không động não nữa, anh ở trạng thái thoả mãn. Còn với Triết học, đối tượng của nó là cái thiếu, vì nó cảm nhận được cái thiếu nên nó hoạt động tích cực và phát triển.
Minh triết có một nhược điểm là không có lịch sử còn Triết học thì có lịch sử, nhiều lịch sử. Một bậc Hiền giả, một người Minh triết có thể có lịch sử nhưng sự phát triển của Minh triết không có lịch sử. Một khi Minh triết không có lịch sử thì nó đứng tại chỗ, nó trì trệ, do đó, nó chỉ đưa ra những kiến giải tầm thường và nó nói những ý kiến mà lương tri thông thường của con người cảm nhận được, nó chỉ dừng lại ở đấy. Như vậy, Minh triết đã không được kiến tạo một cách lịch sử cho nên người ta đặt vấn đề tìm hiểu vị trí, vị thế chính thức của nó.” “Châu Âu chỉ còn giữ lại được của minh triết những đống đổ nát hay đôi mảng lớn cô lập: Pyrrhon, Montaigne, các nhà khắc kỷ chủ nghĩa”.
“Tóm lại, về Minh triết thì tôi cho rằng nó là hạ tầng của Triết học. Nhiệm vụ xây dựng Minh triết hiện nay là phải tạo ra những khái niệm cho mình, dùng những khái niệm đó để suy nghĩ những vấn đề mà Triết học bỏ rơi hay Triết học chưa nắm bắt được. Về vấn đề thở thì Minh triết phải tìm ra những khái niệm để diễn đạt, đào sâu hoạt động thở, tìm ra kết cấu của nó và tạo ra những khái niệm. Như vậy, Minh triết phải tạo cho mình những khái niệm.
- Bây giờ, Minh triết cũng phải quan tâm đến mối liên hệ với chính trị, tức là tạo cho nó một cái gì đấy của nó.
- Còn Minh triết ở Trung Quốc trong quan hệ với chính trị thì như thế nào? Trong quan hệ với chính trị, Minh triết ở Trung Hoa cổ không có một lập trường xác định. Tuy bên trong là ngay thẳng nhưng bên ngoài đối với chính quyền thì mềm dẻo, từ mềm dẻo đi đến chỗ luồn cúi, không có lập trường. Do kết cấu không có lập trường nhất định, khi thế này, khi thế nọ nên những nho sĩ Trung Quốc không bao giờ là trí thức, không phải là trí thức. Trí thức phải có lập trường. Lập trường là thế nào? Tức là mình phải có quan điểm của mình. Vấn đề đó rất quan trọng, nhất là để hiểu những nhà Minh triết Trung Quốc cổ như thế nào và nó ảnh hưởng đến trí thức Trung Quốc hiện nay như thế nào.
- Minh triết hiện nay phải khắc phục hai nhược điểm có từ xưa, một là không tư duy bằng khái niệm thì bây giờ Minh triết phải có khái niệm. Thứ hai là về chính trị không rõ ràng thì bây giờ phải rõ ràng đối với chính trị. Minh triết ở giai đoạn này phải đưa tư tưởng vào công trường của mình để làm ra những khái niệm… Đấy là đề nghị của tôi đối với công việc của Minh triết.(5)

Aucun commentaire: