Thượng Đỉnh “Paris 2015”: Thay Đổi Khí Hậu, Viễn tượng con người năm 2070 - 2 / 2 (Mai Thanh Truyết)


2°C là mức tăng nhiệt độ cho phép nhân loại kiểm soát được các biến đổi khí hậu, vượt quá mức này, các thảm họa thiên nhiên được coi là vượt quá khả năng đối phó.

· Lời hứa của quốc gia tổ chức Pháp trong vấn đề năng lượng, không khí và khí hậu như sau:”La loi de Transition énergétique franchit avec succès une nouvelle étape: La France exemplaire est en marche vers la COP21”

Hứa là sẽ:
- Giảm thiểu 40 % phát thải khí nhà kinh (green house effects) cho đến năm 2030 so với năm 1990;
- Giảm xử dụng năng lượng hóa thạch (fossil energy) ở mức 30% vào năm 2030 so với năm 2012;
- Xử dụng năng lượng “sạch”  chiếm 40% cho năng lượng điện vào năm 2030;
- Giảm thiểu việc xử dụng năng lượng xuống 50% vào năm 2050 so với năm 2012;
- Giảm thiểu 50 % lượng rác phế thài vào năm 2050 so với năm 2012;

Hứa cho nhiều, nhưng chẳng thấy…
China women wear masks as haze from smog caused by air pollution hangs over the Forbidden City in Beijing.

· Hoa Kỳ và Trung Cộng năm 2014 đã có một bước tiến quan trọng khi ấn định mục tiêu giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ nay đến sau năm 2020. Washington cam kết cho đến năm 2025 sẽ giảm 26% đến 28% so với năm 2005, còn với Bắc Kinh là đến năm 2030. Trong lời tuyên bố, hai nguyên thủ nhấn mạnh đến các biện pháp mới hoặc đã có, chứng tỏ hai nước phát thải nhiều nhất trên hành tinh đóng vai trò nghiêm túc và «sẽ đưa thế giới đến một hiệp ước toàn cầu về khí hậu». Như vậy mà … Outdoor air pollution contributes to the deaths of an estimated 1.6 million people in China every year, or about 4,400 people a day, according to a newly released scientific paper. Điều cần nhấn mạnh là, Hoa Kỳ phát thải khoảng 7 tỷ tấn CO2 trong năm 2014 và Trung Cộng, 10 tỷ; trong lúc đó, Mỹ sản xuất khoảng 19% sản phẩm toàn cầu, và Trung Cộng sản xuất 21% mà thôi. 

Rồi cũng tiếp tục hứa!
· Là một quốc gia phát khí carbonic đứng hàng thứ tư trên thế giới, Ấn Độ vừa cam kết giảm bớt lượng thải khí CO2 và phát triển năng lượng tái tạo, góp phần cải thiện môi trường. Ngày 01/10/2015, Ấn Độ trình lên LHQ một bản báo cáo với nội dung cam kết đẩy mạnh vai trò của các loại năng lượng tái tạo và giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Không đi sâu vào chi tiết, nhưng New Delhi hứa từ nay cho đến năm 2030 Ấn Độ sẽ cố gắng giảm 35 % lượng khí thải carbonic so với thời điểm của hồi năm 2005. Ngoài ra New Delhi cũng thông báo phát triển năng lượng tái tạo để trong 15 năm nữa, năng lượng sạch bảo đảm đến 40% nhu cầu tiêu thụ của quốc gia Nam Á này. Tỷ lệ năng lượng tái tạo trên được sử dụng tại Ấn Độ hiện chỉ là 12 % theo thẩm định của tổ chức bảo vệ môi trường Greenpeace. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu nâng tỷ lệ năng lượng sạch đang từ 12% lên thành 40% Ấn Độ cần được quốc tế hỗ trợ cả về phương diện tài chính lẫn công nghệ. Tuy “hứa” như trên đây, nhưng Ấn Độ vẫn trách các quốc gia đã phát triển như sau:”Ấn Độ biện minh cho quan điểm của mình và đòi được quyền phát triển. Theo Le Monde, Ấn Độ trước hết bảo vệ quyền lợi riêng: Ở một đất nước mà hàng trăm triệu hộ gia đình chưa có nhà vệ sinh, không có đủ điện nước để sinh hoạt, thì việc chống biến đổi khí hậu vẫn là một điều gì đó còn trừu tượng xa vời, một thứ xa xỉ phẩm mà người nghèo chưa dám nghĩ tới. Các nhà phân tích đơn cử một ví dụ minh họa cho sự đối chọi Nam-Bắc: người giàu muốn đóng tiền bảo hiểm nhà cửa, trong khi người nghèo bữa ăn chưa no, tiền đâu mà tính đến chuyện mua nhà.

Vì thế cho nên, để đạt được mục tiêu, hội nghị COP21 phải giải quyết đầu tiên hết một vấn đề: các nước giàu chịu chi bao nhiêu tiền và trong bao lâu, để khuyến khích giúp đỡ các nước nghèo (hay các quốc gia đang phát triển) nỗ lực chống biến đổi khí hậu. Hiện tại vẫn có hơn 300 triệu dân Ấn Độ không có điện và quốc gia đông dân này thường xuyên bị mất điện.

Phải chăng lại có thêm một lời hứa…Lèo nữa?
Vài suy nghĩ về Hiện tượng Hâm nóng toàn cầu
Với hàng triệu động cơ vận hành mỗi ngày, hàng triệu máy cắt cổ, máy thổi lá chuyển vận, nhiều triệu lon/chai của đủ loại nước ngọt, bia tiêu dùng..., thán khí (CO2) thênh thang đi vào bầu khí quyển cùng với thân nhiệt và thán khí thoát ra từ buồng phổi của hơn 7 tỷ con người. Và thêm nữa, các quy trình công nghệ sản xuất/chế biến, việc xử dụng lò sưởi trong mùa đông, cùng các công nghệ khai thác quặng, khí v.v... đã đóng góp không nhỏ vào lượng thán khí trong không khí. Hiện tượng hâm nóng toàn cầu khởi sinh từ các nguyên nhân kể trên.

Các khoa học gia đã ước tính rằng nếu không có biện pháp làm giảm thiểu lượng thán khí thải hồi thì lượng khí trên sẽ tăng gấp đôi trong vòng 50 năm tới nếu giữ cùng một nhịp độ phát triển như hiện nay. Trong thiên nhiên, cây xanh là nguồn trợ lực chính hấp thụ khí carbonic; nhưng với đà phá rừng ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ... e rằng con số ước tính 50 năm trên sẽ bị thâu ngắn lại.

Năm 1990, loài người đã thải ra độ 27 tỷ tấn thán khí, và số lượng nầy đã được cây cỏ hấp thụ độ 50%. Ngày nay, 2015, với đà phát triển tăng nhanh, với số lượng dân số không ngừng tăng trường, và với rừng (cung cấp cây xanh) bị tàn phá do phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, hoặc đô thị hóa v.v… chắc chắn lượng khí carbonic sẽ tăng gấp đôi dưới 50 năm tới, nếu thế giới không có biện pháp tích cực để tiết giảm sự phát thải nầy.

Với tính cách thông tin, một người Mỹ thải ra trung bình hàng năm 19 tấn khí CO2, so với người Tàu là 4,7 tấn, và người Ấn Độ, 2,4 tấn. Số liệu nầy được suy ra từ tất cả các nguồn tạo ra CO2 trung bình cho nhu cầu và tiện nghi cho sinh hoạt của con người như xe cộ, điện năng dùng hàng ngày, nước nóng, máy điện toán, điện thoại v.v…)

Nhưng số lượng trên ngày càng tăng dần với đà phát triển. Thống kê ghi nhận rằng từ năm 1902 đến 1990 nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên khoảng 1oC; nhưng trong khoảng thời gian từ 1995 đến 1998, nhiệt độ tăng lên đến mức độ báo động là 0.25oC.

Và chuyện gì sẽ xảy ra khi nhiệt độ trong bầu khí quyển tăng lên?
Trước hết, khối lượng băng hà ở Bắc cực và Nam cực sẽ tan dần và lần lần thu hẹp diện tích đất sinh hoạt của loài người. Trên các đại dương, chỉ cần nhiệt độ tăng thêm 1,5oC thì hầu hết các vùng sinh thái của san hô và phiêu sinh vật sẽ bị hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn lương thực biển vì tôm cá không còn nơi trú ngụ, sinh sản (nhiệt độ trung bình ở các vùng biển nhiệt đới là 30,5oC).

Hai hiện tượng trên đang xảy ra trên trái đất của chúng ta với vận tốc đáng ngại!
Có nhiều biện pháp để ngăn chận và giảm thiểu việc tăng trưởng lượng thán khí trên toàn cầu:
Hạn chế và kiểm soát lượng thán khí thải hồi trong kỹ nghệ qua khuyến cáo Kyoto năm 1997 do hầu hết các quốc gia trên thế giới soạn thảo và đồng ý.
Hoặc xử lý lượng khí thải hồi bằng phương pháp tách rời và cô lập hoá học (sequestration technology). Thán khí cô lập được bơm vào dưới lòng biển sâu và nước biển sẽ hấp thụ khối lượng trên. Hoặc thán khí được bơm vào các vùng quặng mỏ than đá từ đó than sẽ phản ứng với thán khí để hình thành khí methane không ảnh hưởng lên hiện tượng hâm nóng toàn cầu.

Cả hai phương pháp nầy đã đi dần đến hoàn chỉnh và có thể được đem ra áp dụng trong những năm sắp đến. Tuy nhiên biện pháp dùng thiên nhiên để hấp thụ khí carbonic vẫn là phương pháp tối ưu nhứt.
1 - Thay vì phá rừng để phục vụ cho nhu cầu kỹ nghệ, cần phải tái tạo rừng và trồng thêm rừng mới để tăng thêm diện tích cây cỏ hầu ngăn chận hay làm chậm tiến trình hâm nóng toàn cầu.
2 - Và sau hết, con người cần phải tự nguyện hạn chế việc sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu bừa bãi.

Nếu thực hiện được các việc trên hy vọng chúng ta có thể giải quyết được vấn nạn sinh tử của nhân loại.
Vài suy nghĩ cho toàn cầu
Như đã nói ở các phần trên, vấn nạn ảnh hưởng đến môi sinh trên toàn thế giới trong thời gian tới cùng với những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ô nhiễm đều có tính cách liên đới ảnh hưởng lên mọi quốc gia. Xu hướng toàn cầu hóa trong lãnh vực nầy sẽ không có biệt lệ nào khác. Tuy nhiên, sự phân bố không đồng đều về mặt phát triển kỹ thuật, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế-chính trị của đa số các quốc gia đang phát triển không cho phép họ có tầm dự phóng xa hơn những vấn đề sống còn trước mắt.

Do đó, các nước hậu kỹ nghệ cần phải thông cảm và có sự thật tâm giúp đở về nhân sự, tài chánh và kỹ thuật...để các nước đang phát triển có điều kiện theo kịp đà tiến hoá và cùng góp tay chia sẻ việc bảo vệ môi sinh để cùng tồn tại. Giai đoạn thực dân bốc lột, vét đoạt tài nguyên của những nước nghèo sẽ không còn thấy trong thế kỷ thứ 21 nầy nữa. Trong chiều hướng suy nghĩ đó, vài đề nghị gợi ý sau đây nói lên những bước cần nên làm đối với các nước hậu kỹ nghệ và những nước đang phát triển.

Trước hết, biện pháp làm giảm thiểu hay hạn chế sự hâm nóng toàn cầu là ưu tiên hàng đầu cho mọi quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia hậu kỹ nghệ. Ngân sách quốc gia cần được tăng cường trong nghiên cứu và cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các cơ xưởng công nghệ. Hạn chế hay nghiêm cấm các cơ sở sản xuất tạo ảnh hưởng tác hại đến lớp ozone trên bầu khí quyển. Điều cần phải làm trước nhất là “giáo dục” người dân ở những nước nầy giảm bớt phung phí trong việc sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và chấm dứt việc phí phạm nguồn nước sinh hoạt. Một thí dụ điển hình là, chỉ trong một ngày vận động cho việc làm sạch bầu khí quyển bằng cách yêu cầu dân chúng sử dụng xe đạp hoặc đi bộ, hay dùng xe công cộng...thủ đô của Colombia đã giảm 27% lượng thán khí thải hồi so với mức sinh hoạt bình thường hàng ngày.
Đối với định mức tiêu chuẩn tối thiểu mà cơ thể con người có thể chấp nhận được đối với các hoá chất, kim loại độc hại... trong không khí và trong nguồn nước cần phải được soạn thảo trên bình diện toàn cầu và phải có sự đồng thuận của tất cả. Một khi đã chấp thuận một định mức nào đó, mọi quốc gia đều phải chấp hành nghiêm chỉnh. Một thí dụ cụ thể cho tiêu chuẩn chấp nhận được của sự hiện diện của arsenic trong nước uống hiện tại là: 10ug/L cho Hoa Kỳ, 15 ug/L ở Pháp và 10 ug/L đối với tiêu chuẩn LHQ. Từ những khác biệt trên có thể nảy sinh ra sự so bì và lơ là của các quốc gia trong việc bảo vệ môi sinh chung.
Các phát minh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cần được thật thà trao đổi với các quốc gia đang phát triển. Trợ giúp các nước nầy trong việc trao đổi thông tin kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật viên và khai triển các quy trình công nghệ có hiệu quả cao và an toàn cho môi sinh. Mọi phát minh mới cần được thông báo cho toàn thể thế giới để tránh sự thụt lùi và thâu ngắn cách biệt giữa các quốc gia giàu-nghèo.
Đối với những phát minh hoàn chỉnh, cần phải tiến hành nhanh giai đoạn thử nghiệm (prototype) và áp dụng tùy theo yếu tố xã hội-kinh tế-môi sinh cho từng vùng hay quốc gia. Làm được như thế sản phẩm vật chất sẽ được sản xuất nhiều hơn, sự phát thải khí carbonic sẽ ít hơn, và chuyển tải đến những nơi có nhu cầu sớm hơn nhất là đối với các nước ở Phi châu, Á châu và Nam Mỹ.
Về nguồn nước, các nước hậu kỹ nghệ cần hạn chế hoặc thay thế việc sử dụng hoá chất trong các quy trình sản xuất hiện có và trong tương lai thay thế bằng những nguyên liệu có trong thiên nhiên để hạn chế hay giảm thiểu mức độc hại trong các phó sản thải hồi. Với chiều hướng nầy, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã thành công trong việc áp dụng vào sản xuất và xử lý phế thải. Duckweed (một loại bèo) dùng để hấp thụ lượng nitrate trong nguồn nước đang được sử dụng rộng rãi; cây bạch dương (poplar) hấp thụ một số phế thải hữu cơ. Việc thay thế nguyên liệu hoá chất bằng các hợp chất thiên nhiên như dùng carbohydrate (sản phẩm có trong tiến trình chế biến phân gia súc) để thay thế hydrocarbon để chế tạo các loại plastic có thể tự hoại được trong thiên nhiên. Các việc làm trên cần được khích lệ và phát triển thêm bằng cách đẩy mạnh tài trợ cho nghiên cứu.
Giáo dục là mối quan tâm hàng đầu để mọi người có thể đến gần nhau và cùng nói chung một ngôn ngữ trong lãnh vực khoa học kỹ thuật. Do đó các quốc gia đang mở mang cần đầy mạnh việc phát triển giáo dục ở cấp trung học chuyên nghiệp và đại học để tiếp nhận và trao đổi các công nghệ mới dễ dàng hơn.  Chính phủ, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và tư nhân cùng hợp tác trong nghiên cứu và kiến thức cùng dựa trên tinh thần trao đổi chân chính.  Việc nâng cao dân trí người dân ở những nước đang phát triển trong việc bảo vệ môi trường sống chung quanh cần phải có sự hỗ trợ của cộng đồng các nước hậu kỹ nghệ qua IMF, WB... để bảo trợ tài chánh-nhân sự- kỹ thuật cùng thúc đẩy tiến trình cải cách.
Thông tin tin học, một khám phá tuyệt vời vào thập niên sau cùng của thế kỷ 20, cần được đem ra áp dụng rộng rãi cho các nước chậm phát triển. Thế giới cần trợ giúp cho các nước trên thiết lập mạng lưới thông tin khoa học tân tiến nầy, tối thiểu ở trong môi trường đại học, nghiên cứu...để các sinh viên, nghiên cứu viên có điều kiện học hỏi, thu nhập những kiến thức mới để rồi áp dụng vào điều kiện cụ thể cho từng quốc gia một.
Dựa trên tiêu chuẩn toàn cầu, khi đã đồng ý ngưng hay cấm sản xuất một sản phẩm nào có khả năng tác hại lên con người như các loại thuốc sát trùng, các quốc gia hậu kỹ nghệ cần phải chấm dứt việc sản xuất và chuyển tải qua các nước đang phát triển vì nhu cầu lợi nhuận. Việc làm nầy cần phải chấm dứt và thế giới cần phải quy định biện pháp chế tài cho quốc gia vi phạm. Sẽ không còn công dân hạng nhì trong thế kỷ nầy! (Hóa chất DDT đã bị LHQ cấm sử dụng và sản xuất từ năm 1973, nhưng Nga Sô và TC vẫn tiếp tục sản xuất và Việt Nam vẫn nhập cảng và hóa chất nầy là sản phẩm nền tảng cho hầu hết các loại hóa chất hỗn hợp dưới xưng nghĩa hóa chất bảo vệ thực vật).
Sau hết, việc xuất cảng mọi phế thải kỹ nghệ dưới bất cứ hình thức nào cần phải chấm dứt. Đây là một hành động vô nhân đạo không thể tồn tại được cho thế kỷ 21, thế kỷ của hoà bình và môi trường xanh dương.

Lãnh đạo của các nước đang phát triển cũng đừng vì nhu cầu ngoại tệ nặng cho quốc gia mà chấp nhận những loại hóa chất và phế thải độc hại trên.

Các thế hệ sau đó sẽ không bao giờ tha thứ cho các hành động nầy.
Mai Thanh Truyết
Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST)
COP21 – 2015

Ghi chú: Vietnam is among the top 10 countries with the worst air pollution, according to a study released during this year's World Economic Forum in Davos.
Vietnam's Air (Effects on Human Health) ranking was 123rd among the 132 countries surveyed.
India has the world's worst air pollution, beating out China, Pakistan, Nepal and Bangladesh, according to the study.
Vietnam's water supply (Effects on Human Health) was ranked 80th of the 132 surveyed
Truyet —
I just got back from the Climate Justice Rally on the National Mall, and my excitement is still bubbling over. I was so proud to join hundreds of EDF activists and thousands of others in Congress's backyard, to echo the Pope's call for climate action inside the Capitol.
"I am convinced that we can make a difference and I have no doubt that the United States—and this Congress—have an important role to play. Now is the time for courageous actions and strategies, aimed at implementing a culture of care and an integrated approach to combating poverty, restoring dignity to the excluded, and at the same time protecting nature." –Pope Francis
We're seeing momentum on climate action like never before—and you can join the call for progress right now!
   Home   [ 1 ]  [ 2 ]  

Aucun commentaire: