Nếu tính
từ ngày 30-4-1975, một số người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ đã sống qua 47 năm. Sống
ở Mỹ đã 47 năm rồi thì chúng ta có cảm giác như thế nào? Chúng ta có nhớ quê
hương hay không? Chúng ta có làm được điều gì để giúp đồng bào ở quê nhà sớm
thoát khỏi ách kìm kẹp của bạo quyền CS hay không? Tôi thiết nghĩ rằng có thể
đã có một số người làm được nhiều điều hữu ích cho đồng bào ruột thịt ở quê
nhà. Riêng cá nhân Vĩnh Liêm thì chỉ biết dùng giấy bút để bày tỏ nỗi lòng trắc
ẩn của mình qua những vần thơ. Nay, Vĩnh Liêm gom góp lại những bài thơ ấy, tạm
gọi là “NGUỒN THƠ DẬY LỬA”. Tác giả chia nó làm 7 phần, sắp xếp theo những ý
tưởng (chủ quan) như sau:
PHẦN I:
GIẢI PHÓNG (những hành động đốt sách và kinh tế mới của VC…)
PHẦN II:
CON ĐƯỜNG CỦA “BÁC” (những chiêu bài hòa đàm, hòa bình, hiệp định…)
PHẦN III:
ĐỔI MỚI (những bùa phép, chính sách, bao cấp, cởi trói, kinh tế mới…)
PHẦN IV:
ĐỊNH HƯỚNG (xã hội chủ nghĩa, quốc doanh, thị trường, sở hữu hóa toàn dân…)
PHẦN V:
KẺ THÙ LỊCH SỬ (Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt, cán bộ VC cao cấp…)
PHẦN VI:
GIỤC LÒNG ÁI QUỐC (nhắc nhở thanh niên lòng yêu nước)
PHẦN VII:
THA THIẾT (nỗi lòng ái quốc đối với quê hương)
Xin mời
quý vị ghé mắt qua những dòng thơ tạm gọi là “dậy lửa” do Vĩnh Liêm đã làm
trong suốt 47 năm xa quê hương.
(Thung
lũng Liên-Sơn, 31-12-2022)
* VĨNH LIÊM.
* * *
(Kỳ 4 - Tiếp theo kỳ 3)
17 .
NHỮNG CÁI NHẤT
Những cái NHẤT – chỉ Việt
Nam mới có,
Khắp Đông-Tây bạn tìm kiếm
không ra.
Người ở xa khi về lại thăm
nhà,
Bạn mới thấy những gì tôi
nói đúng.
NHẤT thứ nhất là đường dây
THAM NHŨNG,
Cấp càng cao thì tham
nhũng càng nhiều.
Cứ đút đưa cho cán bộ quan
liêu,
Thì mọi việc sẽ trơn tru,
tốt đẹp.
NHẤT kế tiếp: CHỬI THỀ sôi
bọt mép,
Từ trẻ thơ cho tới lớp
người già.
Chẳng ngượng ngùng khi địt
mẹ, địt cha,
Cứ văng tục cho sướng mồm
đã miệng.
NHẤT XẢ RÁC – vứt bừa là xong chuyện,
Vứt cục xương xuống đất
thế là xong!
Vứt khăn ăn, tàn thuốc…
nhẹ như không,
Coi mọi việc vứt bừa là
chuyện nhỏ.
Cái NHẤT nữa là dân hay
KHẠC NHỔ,
Khạc khơi khơi, khạc bất
cứ chỗ nào.
Các bãi đờm vung vảy chẳng
là bao,
Khạc đã cổ, mặc ai nhìn ai
thấy.
Trong cái NHẤT hàng đầu là
ĐÁI BẬY,
Đái vào tường, cột điện…
sướng rân người.
“Cấm đái” ư? Thì cứ đái
khơi khơi,
Người mắc đái chẳng phải
là tật xấu.
Cái NHẤT chót: Người lái
xe quá ẩu,
Lái ngược chiều cũng cứ
lái tự nhiên.
Xe Honda là phương tiện ưu
tiên,
Cứ lái ẩu, chẳng cần theo
luật lệ.
Những cái NHẤT – Việt Nam
hơn quốc tế.
(Đức Phố, 12-05-2010)
18 . THÂU
NGẮN NGÀY VỀ QUÊ HƯƠNG.
Thư em hỏi bao giờ anh trở
lại,
Nhìn quê hương yêu dấu
nhuộm tiêu điều.
Dòng sông Cửu vẫn hàng
ngày xuôi chảy,
Nhưng lòng người thì mệt
mỏi, buồn thiu.
Ba năm chẵn loay hoay
quanh câu hỏi,
Lòng mênh mang đeo đẳng
nỗi buồn phiền.
Đêm trở giấc bên tai nghe
tiếng gọi,
Của những người mang thống
khổ triền miên.
Người ở lại mong đợi ngày
giải thoát,
Bằng bom hơi hay thuốc độc
không màng.
Chết thanh thản hơn sống
đời lây lất,
Dưới bàn tay hung bạo bọn
sài lang.
Xưa khoai sắn chỉ ăn chơi
đỡ bữa,
Nay sắn khoai không đủ để
mà ăn!
Khi trở bệnh không thuốc
thầy chạy chữa,
Đành nằm chờ lưỡi hái của
tử thần.
Ngày lao động gấp đôi lần
thuở trước,
Áo sờn vai mà vải vụn
chẳng còn.
Đêm giải trí bằng Mác-Lê
lý thuyết,
Nhờ “Bác Hồ” ưu ái mới trơ
xương.
Một lũ qủy mang mặt người
dạ thú,
Bởi nhân danh Bác, Đảng
trở thành người.
Say hút máu đám dân lành
vô tội,
Nỗi oán hờn chồng chất
khắp nơi nơi.
Trong một nước quyền Tự Do
dẫy chết,
Lửa bạo tàn vùi dập tuổi
thơ ngây.
“Tân tín ngưỡng” của giáo
điều Mác-xít,
Biến thân người thành thân
xác cỏ cây.
Người vượt biển với trăm
may ngàn rủi,
Mặc sóng to, thuyền thẳng
hướng mà đi.
Cơn đói khát làm thân
người rủ rượi,
Dù bao lâu, chí vẫn quyết
kiên trì.
Tin “tị nạn bằng thuyền”
như vũ bão,
Đập vào đầu bọn cầy cáo
gian manh.
Ôi! Cái chết trong tự do
tuyệt hảo!
Giữa trời cao biển rộng
một màu xanh.
Tự Do đó được đổi bằng
sinh mạng,
Ngục tù nào xiềng xích
được Tự Do?
Trong bóng tối chứa triệu
lần ánh sáng,
Trong khốn cùng có mơ ước
ấm no.
Tiếng gào thét của đoàn
người tị nạn,
Vang dội cùng khắp Mỹ đến
trời Âu.
Làm rung động bức thành
trì Cộng sản,
Dù Mác-Lê sống lại cũng
lật nhào.
Em sẽ thấy quê hương mình
rực rỡ,
Khi bình minh xua đuổi hết
màn đêm.
Kẻ hung bạo sắp đến giờ
tắt thở,
Mác-Lê nào cứu được chúng
đâu em!
(St. Louis, 8-10-1978)
19 . CẢM
NHẬN.
Anh hiện tại lạnh đầy mây
quá khứ,
Trong tương lai chắc cũng
chẳng đổi dời.
Như tượng đá trăm năm mưa
nắng gội,
Còn lại gì sau cuộc sống
nổi trôi?!
Em hiện tại bão dâng đời
thiếu phụ,
Giấc mơ xưa xếp xó chuyện
hoang đường.
Cầu đã gãy, ngẩn ngơ thời
ẩn trú,
Thương nhịp cầu hay cuộc
sống bi thương?
Mắt có mở nhìn sâu đời
quạnh quẽ?
Cỏ cây xưa cũng nát nụ
cười xuân.
Ôi! Hạnh phúc mong manh
như giọt lệ!
Mắt môi đây mà tình cũ
chưa gần!
Anh nhấm nháp vị đời quen
chất đắng,
Tìm hương xưa trong giấc
ngủ cô đơn.
Ngày vẫn chảy xuôi theo
hồn vắng lặng,
Gọi tên em qua ngấn lệ u
buồn.
Ôi! Cuộc sống tan dần như
lá mục!
Tình phất phơ như hạt
tuyết lưng trời.
Em lây lất kéo lê đời tù
ngục,
Sống để cùng tham dự một
trò chơi!
(St. Louis, 5-01-1979)
20. MONG
MỘT NGÀY VỀ.
Tôi có người em tuổi đôi
mươi
Năm năm đã tắt hẳn nụ cười
Tương lai khép lại bên
đồng vắng
Tâm sự cùng mây và đất
trời.
Tôi có mẹ cha luống mỏi
mòn
Vì khô nước mắt đợi chờ
con
Tuổi già héo hắt như cành
trúc
Không nỡ lìa xa cảnh nước
non.
Quê mẹ giờ đây lắm điêu
tàn
Ai còn giữ được chút tâm
can
Hãy nghe tiếng vọng từ sâu
thẳm
Tiếng uất nghẹn lời trong
tối tăm.
Tôi vẫn hằng mong một ngày
về
Phá tan xiềng xích của u
mê
Dẹp lò cải tạo, xây trường
học
Xóa bỏ ngôn từ của Mác-Lê.
Tôi có mơ chi ở xứ này
Cuộc đời lao động rã đôi
tay
Thức ăn đông lạnh không
hương vị
Nuốt vội cho trôi hết
tháng ngày.
Nghĩ đến 5 năm chợt giật
mình
Ai khen “lao động là quang
vinh”?
Mồ hôi thấm ướt bao nhiêu
áo
Đổi lấy Tự Do lẫn cực
hình!
Đừng quá bi quan! Hỡi bạn
ta!
Chớ quên nợ nước với thù
nhà
Ngày mai sẽ tới, ta về
nước
Diệt bọn sài lang, cứu
quốc gia.
(Suối bạc, 10-10-1980)
21. NGÀY
VỀ CÓ EM.
Người em nhỏ báo tin vượt
tuyến,
Thư cho tôi, em kể chuyện
nhà.
Và nhắc đến những ngày
trên biển,
Khiến lòng tôi chợt thấy
xót xa.
Em bỏ lại mẹ già gian khổ,
Chiếc khăn tang còn quấn
trên đầu.
Ba em chết trong lao tù
Đỏ,
Xác biến thành phân bón
vườn rau!
Em con “Ngụy” phải đi “học
tập”,
Chúng dán em cái nhãn
“Ngụy quyền”.
Thêm mũ “Xịa” làm tăng vẻ
đẹp…
Em ngoan hiền nên lắm
truân chuyên!
Ngày rời nước, em bùi ngùi
khóc,
Tiễn con yêu, Mẹ có dặn
dò:
“Tuổi khôn lớn nên thành
gia thất,
Ở phương nào con nhớ biên
thơ”.
Mẹ không dạy em lòng yêu
nước,
Nhưng tình thương Người
rất bao la.
Em không thể quên tình cốt
nhục,
Ơn sinh thành, mồ mả ông
cha…
Em thôi thúc ngày về phục
quốc,
Nhớ cho em chung một
chuyến tàu.
Quyết tẩy sạch những điều
ô nhục,
Quê thanh bình, tình thắm
em trao.
“Nơi hải ngoại anh đừng mê
ngủ,
“Bả phồn hoa hủy diệt niềm
tin.
“Đừng bắt chước những
phường vong bản,
“Quên quê hương, nòi giống
dân mình.
“Hãy nuôi dưỡng tinh thần
bất diệt,
“Hỡi người anh thế hệ ba
mươi!
“Ngày trở lại chiến công
oanh liệt,
“Khúc hoan ca vang dậy đất
trời”.
Sức trai trẻ thẹn cùng em
nhỏ,
Tuổi hai mươi nhiệt huyết
em đầy.
Tôi chí thấp, tài hèn sâu
bọ,
Sống bằng thừa, chẳng có
tương lai!...
Xin dâng hiến quãng đời
còn lại,
Cho quê hương thống khổ
triền miên.
Làm viên đá lót đường
thoải mái,
Vạn lần hơn sống kiếp oan
khiên.
Tôi thao thức đợi ngày
Cách Mạng,
Từ lòng dân - đạp phá xích
xiềng.
Để cứu lấy quê hương hoạn
nạn,
Ôi phút giây hào khí
thiêng liêng!
(Suối Bạc, 5-10-1980)
VĨNH LIÊM
(Hết Phần I)
HOME.
MỤC LỤC : [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ]
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire