(Nỗi lòng của người
Chưa Thua Cuộc)
Nếu tính
từ ngày 30-4-1975, một số người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ đã sống qua 48 năm. Sống
ở Mỹ đã 48 năm rồi thì chúng ta có cảm giác như thế nào? Chúng ta có nhớ quê
hương hay không? Chúng ta có làm được điều gì để giúp đồng bào ở quê nhà sớm
thoát khỏi ách kềm kẹp của bạo quyền CS hay không? Tôi thiết nghĩ rằng có thể
đã có một số người làm được nhiều điều hữu ích cho đồng bào ruột thịt ở quê
nhà. Riêng cá nhân Vĩnh Liêm thì chỉ biết dùng giấy bút để bày tỏ nỗi lòng trắc
ẩn của mình qua những vần thơ. Nay, Vĩnh Liêm gom góp lại những bài thơ ấy, tạm
gọi là “NGUỒN THƠ DẬY LỬA”. Tác giả chia nó làm 7 phần, sắp xếp theo những ý
tưởng (chủ quan) như sau:
PHẦN I:
GIẢI PHÓNG (những hành động đốt sách và kinh tế mới của VC…)
PHẦN II:
CON ĐƯỜNG CỦA “BÁC” (những chiêu bài hòa đàm, hòa bình, hiệp định…)
PHẦN III:
ĐỔI MỚI (những bùa phép, chính sách, bao cấp, cởi trói, kinh tế mới…)
PHẦN IV:
ĐỊNH HƯỚNG (xã hội chủ nghĩa, quốc doanh, thị trường, sở hữu hóa toàn dân…)
PHẦN V:
KẺ THÙ LỊCH SỬ (Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt, cán bộ VC cao cấp…)
PHẦN VI:
GIỤC LÒNG ÁI QUỐC (nhắc nhở thanh niên lòng yêu nước)
PHẦN VII:
THA THIẾT (nỗi lòng ái quốc đối với quê hương)
Xin mời
quý vị ghé mắt qua những dòng thơ tạm gọi là “dậy lửa” do Vĩnh Liêm đã làm
trong suốt 48 năm xa quê hương.
(Thung
lũng Liên-Sơn, 26-01-2023)
* VĨNH LIÊM
PHẦN II. CON ĐƯỜNG CỦA
“BÁC” (hòa đàm - hiệp định – đi ra từ bưng biền…)
1 . THÂU NGẮN NGÀY VỀ QUÊ HƯƠNG
Thư em hỏi bao
giờ anh trở lại,
Nhìn quê hương yêu dấu nhuộm tiêu điều.
Dòng Sông Cửu vẫn hàng ngày xuôi chảy,
Nhưng lòng người thì mệt mỏi, buồn thiu.
Ba năm chẵn
loay hoay quanh câu hỏi,
Lòng mênh mang đeo đẳng nỗi buồn phiền.
Ðêm trở giấc bên tai nghe tiếng gọi,
Của những người
mang thống khổ triền miên.
Người ở lại
mong đợi ngày giải thoát,
Bằng bom hơi
hay thuốc độc không màng.
Chết thanh
thản hơn sống đời lây lất,
Dưới bàn tay
hung bạo bọn sài lang.
Xưa khoai sắn
chỉ ăn chơi đỡ bữa,
Nay sắn khoai
không đủ để mà ăn!
Khi trở bệnh
không thuốc thầy chạy chữa,
Ðành nằm chờ lưỡi hái của tử thần.
Ngày lao động
gấp trăm lần thuở trước,
Áo sờn vai mà
vải vụn chẳng còn.
Ðêm giải trí bằng Mác-Lê
lý thuyết,
Nhờ “Bác Hồ”
ưu ái mới trơ xương!
Một lũ quỷ
mang mặt người dạ thú,
Bởi nhân danh Bác, Ðảng trở thành “người”.
Say hút máu
đám dân lành vô tội,
Nỗi oán hờn
chồng chất khắp nơi nơi.
Trong một nước
quyền Tự Do dẫy chết,
Lửa bạo tàn
vùi dập tuổi thơ ngây.
“Tân tín
ngưỡng” của giáo điều Mác-xít,
Biến con người
thành thân xác cỏ cây.
Người vượt
biển với trăm may ngàn rủi,
Mặc sóng to,
thuyền thẳng hướng mà đi.
Cơn đói khát
làm thân người rũ rượi,
Dù bao lâu,
chí vẫn quyết kiên trì.
Tin “tị nạn
bằng thuyền” như vũ bão,
Ðập vào đầu
bọn cầy cáo gian manh.
Ôi! Cái chết
trong tự do tuyệt hảo!
Giữa trời cao
biển rộng một màu xanh.
Tự Do đó được
đổi bằng sinh mạng,
Ngục tù nào
xiềng xích được Tự Do?
Trong bóng tối
chứa triệu lần ánh sáng,
Trong khốn
cùng mới mơ ước ấm no.
Tiếng gào thét
của đoàn người tị nạn,
Vang dội cùng
Á, Mỹ tới trời Âu.
Làm rung động
bức thành trì Cộng-sản,
Dù Mác-Lê sống
lại cũng lật nhào.
Em sẽ thấy quê
hương mình rực rỡ,
Khi bình minh
xua đuổi hết màn đêm.
Kẻ hung bạo
sắp đến giờ tắt thở,
Mác-Lê nào cứu
được chúng đâu em!
(St. Louis, 8-10-1978)
* VĨNH LIÊM
2 . BÀ MẸ CHIẾN SĨ
Ngày xưa Mẹ đã
dày công khó nhọc,
Chắt chiu từng
con vịt mới đâm lông.
Sáng sớm tinh
sương Mẹ lội ra đồng,
Dầm mưa nắng
không quản đời gian khổ.
Bao công đất
thấm mồ hôi Mẹ đổ,
Vườn cà chua
tay Mẹ xới vun đầy.
Mẹ tươi cười
khi nghĩ tới ngày mai,
Quê hương Việt
không còn ai quấy phá.
Mẹ chăm sóc
từng cọng rau, luống mạ,
Tay tưng tiu
những cây lúa đơm bông.
Một niềm vui
chợt rộn rã trong lòng,
Mùa gặt tới Mẹ
mua quần áo mới...
Mẹ lại nhớ
thằng con đi “bộ đội”,
Áo sờn vai,
thân dãi nắng dầm sương.
Cơm-mo-cau-muối-cục,
ngủ ven đường,
Ðời “cách
mạng” chỉ mong nhiều chiến thắng.
Mẹ vinh hạnh
có thằng con “xứng đáng”,
Mai mốt về Mẹ
sẽ cưới dâu hiền...
Mẹ không ngờ
con Mẹ đã nằm yên,
Nơi trận địa
Mẹ chưa từng nghe nói.
Nén đau khổ,
Mẹ ra công gắng gỏi,
Tiếp sức vào
cho “cách mạng” vùng lên.
Mẹ đưa tin,
nuôi “bộ đội” ngày đêm...
Dâng chiến
thắng Miền Nam cho Cộng Sản.
Mẹ sung sướng
từ ngày xa bom đạn,
Mảnh vườn xưa
gầy lại khóm tre tàu.
Tuổi đã già,
Mẹ gắng sức đào ao,
Nuôi đàn cá
chờ đến ngày giỗ chạp.
“Cách mạng”
đến, Mẹ không mong đền đáp,
Sống thanh
nhàn bên đồng ruộng quê cha.
Vui niềm vui
trong bóng xế tuổi già,
Mẹ an phận đợi
chờ ngày nhắm mắt.
Chế độ mới bày
nhiều trò khe khắt,
Mẹ không còn
làm chủ mảnh vườn xưa.
Lúa Mẹ nay theo
“chế độ thu mua”,
“Hợp tác xã”
phân phối từng kí gạo.
Dân khắc khổ
từng manh quần tấm áo,
Gạo khẩu phần,
đôi lúc độn bo-bo.
Nỗi lầm than
cơ cực Mẹ không ngờ,
Mọi tài sản
được “Ngụy quyền” quản chế.
Mẹ ân hận,
rưng rưng đôi dòng lệ,
Công dã tràng
xây chế độ cường quyền.
Ðám dân lành
sống dở khóc dở điên,
Cảnh giết chóc
giờ xảy ra từng bữa.
Người lao động
khốn cùng hơn trâu ngựa,
Mẹ đau lòng
chẳng biết tỏ cùng ai.
Khấn Phật
Trời, Mẹ than vắn thở dài,
Nếu biết trước
bọn mặt người dạ thú.
Ðể cho chúng
chết nhăn răng cả lũ,
Cơm cá thừa
nuôi chó cũng còn hơn...
Một ngày kia
Mẹ trút hết căm hờn,
Ðập đầu giặc
bằng vỏ chai nước mắm.
Mẹ thách đố cả
Giáp, Ðồng, Chinh, Duẩn...[1]
Dám vào Nam cùng đối chất
công khai.
Ðời Mẹ nhiều lăn lộn chẳng
sợ ai,
Thời Tây, Nhật Mẹ nhiều
phen chết hụt.
Bọn cán bộ máu giết người
sôi sục,
Giữa đêm đen chúng dẫn Mẹ
vô rừng...
Mẹ qua đời noi khí phách
Triệu-Trưng,
Các nhãn chứng đều hết lời
khâm phục.
(Suối Bạc,
11-3-1981)
* VĨNH LIÊM
3 . NẾU MÁC
SỐNG LẠI
Tôi được biết Mác qua “Tư
Bản Luận”,
Sách giáo điều của
đế-quốc-tân-thời.
Tôi phục Mác có tài siêu
ngụy biện,
Coi tổ tiên cũng là giống
khỉ-người!
Tôi biết rõ Mác hơn qua
Cộng sản,
Từ già Mao cho đến cáo già
Hồ.
Hai hậu duệ có biệt tài
xuất chúng,
Biến con người thành những
bộ xương khô.
Ôi vĩ đại thay “thiên
đường Cộng sản”!
Mỗi người dân là “con khỉ
hai chân”!
Vì là “khỉ” không được
quyền suy nghĩ,
Phải cúi đầu lao động thật
vinh quang!
Mác siêu việt nên giáo điều
siêu đẳng,
Mỗi nụ cười đều có bóng
công an!
Ai nghịch ý bị khép vào
phản động,
Cửa nhà tù rộng mở đón
nhân dân.
Nếu Mác sống lại bằng con
người thật,
Hãy đi thăm cho giáp các
trại tù.
Từ Tây Bá xuống Miền Nam
nước Việt,
Thiên đường nào lại nhốt
cả nhà tu?
Nếu Mác sống lại, tôi đưa
ra biển,
Thăm oan hồn vùi xác dưới
đại dương.
Họ khinh tởm cái thiên
đường của Mác,
Thà liều thân để giải
thoát linh hồn.
Tội của Mác làm Việt Nam ô
uế,
Giống Rồng Tiên không chấp
nhận vô thần.
Chủ nghĩa Mác đã đến thời
tự hủy,
Vì con người thì phải có
lòng nhân.
(Suối
Bạc, 29-6-1981)
* VĨNH LIÊM
4 . TÊN ĐAO
PHỦ
Tên đao phủ
mắt trừng trừng, mặt đỏ
Búa Liềm cao
chực giáng xuống đầu ai.
Bảy mươi năm
đằng đẵng kỷ nguyên dài,
Dân thống khổ,
hãi hùng, lo sợ quá!
Từ Karl Marx,
Lenin, Gorbachev…
Hồ Chí Minh,
Ðồng, Duẩn đến Ðỗ Mười…
Thây chồng
thây, xương máu đổ, thịt rơi…
Bụng đói rỗng
phải hô hào Bác, Ðảng!
Từ ngày “Bác”
về đây – đầy khổ nạn,
Cửa nhà tan,
dân dốt nát, lầm than…
“Thiên đường”
gì mà xã hội tan hoang!
Nước lụn bại
không ngẩng đầu lên được!
Tên đao phủ
chỉ giỏi trò bắt chước,
Óc giáo điều
lẩm cẩm, mặt bôi vôi.
Làm trò hề cho
thiên hạ cười chơi,
Còn hãnh diện
là “anh hùng” cứu nước!
Ôi Quốc Tổ!
Ðau đớn thay vận nước!
Chúng mạo
danh, tiếm đoạt chữ CÔNG BẰNG.
Chúng dở trò
lường gạt, mị nhân dân,
Nhằm xích hóa
cả cộng đồng thế giới.
Ngày hủy diệt
bọn độc tài đã tới,
Dân Ðông Âu
phá vỡ ngục tù rồi.
Tượng Lenin bị
kéo sập nơi nơi,
Người Sô-Viết
xóa tan tàng tích cũ.
Thật khốn nạn
thay bọn người dạ thú!
Cố bám vào xác
thối ở Ba-Ðình.
Còn tôn sùng
“lãnh tụ Hồ Chí Minh”,
Tên đao phủ
đại gian hùng nhất nước!
Ngày quật khởi
– muôn người sau kẻ trước,
Cứu dân mình,
xây dựng lại quê hương.
Xóa hận thù,
gieo hạt giống yêu thương,
Bền vững mãi,
đất trời Nam xán lạn.
Tên đao phủ
được xử sao xứng đáng,
Ðể làm gương
cho hậu thế soi chung.
Ðứa gian tà không thể gọi “anh hùng”,
Tên vấy máu
sao gọi là “cứu nước”?
Lịch sử Việt
vẻ vang đâu khiếp nhược,
Ðể ngoại lai
tà thuyết hại dân mình.
Chí kiên
cường, giàu đức tính hy sinh,
Từng lẫm liệt
bao anh hùng dân tộc.
Sao nỡ để dân
tộc mình xuống dốc?
Có lẽ nào sợ
hãi Búa Liềm sao?
Chủ nghĩa kia
nay đến lúc thoái trào,
Tên đao phủ
đâu còn nơi nương tựa!
Hãy cỡi bỏ ách
lầm than trâu ngựa!
(Ðức
Phố, 20-10-1991)
* VĨNH LIÊM
5 . VẪN CÒN ĐẢNG ĐÓ
(Cảnh sát đàn áp dân_Hình minh họa từ Internet)
Bức màn sắt đã
bung từ Sô-Viết,
Kéo đổ nhào
trên toàn cõi Đông Âu.
Dân nhẹ nhỏm
thở phào, mừng khôn xiết,
Tự do rồi! Không còn cảnh lo âu!
Nhưng bất hạnh
vẫn bao trùm dân Việt,
Đảng vẫn còn ngự trị, chẳng lung
lay.
Nỗi thống khổ
kéo dài càng bi thiết,
Độc lập rồi!
Sao cứ mãi tay sai?
Nhiều năm
trước, bợ Nga-Tàu chống Mỹ,
Nhiều năm sau,
lo chống “Ngụy” hung hăng.
Hết “Mỹ-Ngụy”, ôm hun đô-la quý,
Và bây giờ, lo
đớp-hít lăng nhăng.
Ấy, Đảng đó là
chiếc phao cứu cánh,
Nếu không còn Đảng trị, bám
vào đâu?
Bộ mặt Đảng lộ nguyên hình thú tánh,
Cũng gian
tham, lươn lẹo… cốt làm giàu.
Đâu có phải Đảng vì tình Dân tộc,
– Chẳng bao
giờ Đảng biết đến Tổ Tông!
Vì Đảng chẳng xuất thân từ nguồn gốc,
Nên không hề
tha thiết nến non sông.
Đảng còn đó – như hung thần
giữ cửa,
Mắt đỏ ngầu,
cú vọ, ngó trân trân…
Chực bóp nát
những tinh thần rực lửa,
Những tư duy
dân chủ muốn canh tân.
Đảng còn sống – dân không còn thiết sống,
Vì có làm mà miệng chẳng hề ăn.
Đảng hứa hẹn
nhưng Đảng thường lật lọng,
Khổ dân lành,
ai nào dám kêu than!
(Công an đàn áp dân_Hình minh họa từ Internet)
Đảng còn đó
làm cho dân khiếp nhược,
Niềm tự hào
dân tộc chẳng còn chi!
Đảng tàn phá
những tinh anh cả nước,
Liệu mai sau
con cháu hưởng được gì?
Ôi! Đất nước
với bao nhiêu hệ lụy!
Biết bao giờ
dân mới được yên thân?
Người chí lớn
xin chớ đừng nhục chí,
Hãy bền lòng
đi cứu vớt nhân dân!
Đảng còn đó là
vẫn còn sắt máu,
Đảng ra đi dân
mới được an lành.
Đừng vì Đảng
bạo tàn mà sợ hão,
Dẹp Đảng là
công khó của hùng anh.
(Đức Phố, 19-05-1993)
* VĨNH LIÊM
6 . ĐÊM TRỪ
TỊCH
Đêm trừ tịch một mình
trong bóng tối,
Tưởng tượng về đêm tối ở
quê hương.
Để lắng nghe tiếng gọi của
đêm trường,
Rồi thổn thức mơ ngày giờ
khắc mới.
Để chào đón buổi bình minh
sắp tới,
Rực rỡ cười trong nắng ấm
ban mai.
Những đường cong nấp dưới
chiếc áo dài,
Làm rõ nét những thân hình
tuyệt mỹ.
Hoa cười rộ làm tăng thêm
Xuân ý,
Pháo đì đùng, lẹt đẹt nổ
vui tai.
Khắp thị thành, thôn xóm
rộn gái, trai
Khoe sức sống thanh niên
tràn nhựa sống.
Như cả nước hân hoan niềm
hy vọng,
Những muộn phiền bị quá
khứ vùi chôn.
Để mọi người cùng xây dựng
giang sơn,
Đời tươi sáng, huy hoàng
và hạnh phúc…
* * *
Tưởng tượng ấy chưa bao
giờ có thực,
Đất nước còn nghèo khổ,
lắm tai ương.
Dân tộc mình lâm nhiều
cảnh tang thương,
Nên chưa thể ngóc đầu cao
lên được!
Lối cai trị độc tài toàn
cả nước,
Chỉ một mình Đảng trị
hưởng quyền thôi.
Còn nhân dân làm nô lệ,
tôi đòi,
Thì dân tộc chẳng bao giờ
khá nổi!
Mặc Tổ Quốc đang đi vào
bóng tối,
Bọn tiếm quyền vơ vét để
phòng thân.
Vì mai kia trước áp lực
nhân dân,
Ngụy quyền đổ, chúng chuồn
ra ngoại quốc.
Nhục nhã ấy làm sao không
phẫn uất?
Đất nước mình không phải
của riêng ai.
Thế kỷ này sao còn cảnh
tay sai?
Bọn đế quốc Liên-Sô đâu
còn nữa!
Chủ nghĩa Mác đã từ lâu
mục rữa,
Chẳng còn gì để bám víu,
khoe khoang.
Ấy thế mà một bè lũ Việt
gian,
Còn ngớ ngẩn tôn sùng và
ca ngợi!
Chúng đui chột hay vì
không nghĩ tới?
Luận cách nào, bọn ấy cũng
u mê.
Hai mươi năm tang chứng
quá ê chề,
Còn ngụy biện làm gì cho
phí sức!
Dân cả nước sống cuộc đời
cơ cực,
Để bọn người cai trị sống
xênh xang.
Đất nước mình là thảm cảnh
tang hoang,
Tài nguyên quý không còn
gì nữa cả!
Hãy thức dậy, hỡi đồng bào
gan dạ!
Đừng ngủ say trong giấc
ngủ triền miên.
Đừng vì nghe lời hứa hẹn
hão huyền,
Mà phó mặc cuộc đời cho
bóng tối!
*
* *
Xuân lại đến trên quê
hương tăm tối,
Hai mươi năm Xuân chẳng
thắm nụ cười.
Hai mươi năm dân tộc vắng
niềm vui,
Hồn Dân Tộc đớn đau từng
giây phút.
Đêm trừ tịch, lòng bồi hồi
cảm xúc,
Nghĩ miên man về đất nước,
quê hương.
Trong đêm đen nghe Hồn
Nước kêu thương,
Lòng quặn thắt thốt đôi
lời tâm sự.
(Đức Phố,
Xuân Ất Hợi 1995)
* VĨNH LIÊM
(Hết kỳ 1 – Xem tiếp kỳ 2)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire